Friday, 5 September 2025

Kinh Nhật hành Pali-Việt

KINH NHẬT HÀNH PALI-VIỆT 
Ni sư Liễu Pháp
Ni viện Viên Không, Bà Rịa Vũng Tàu

Tập kinh Nhật hành Pāli-Việt này gồm những bài kinh được tụng đọc hằng ngày trong các chùa Nam tông. Phần tiếng Việt của các bài kinh lễ bái Tam bảo là bản dịch của ngài Trưởng lão Sơ tổ Hộ Tông. Phần văn vần của các bài kinh dài là bản dịch của ngài Hòa thượng Viên Minh.

Tập kinh được soạn ra để giúp người đọc tiện theo dõi các bài kinh tụng bằng tiếng Pāli của Ni sư Liễu Pháp, Ni viện Viên Không, Bà Rịa Vũng Tàu. Ni sư đọc chậm, rõ ràng để giúp những vị nào đang tập học tụng Pāli có thể theo dõi, tụng theo dễ dàng. Độc giả có thể tham khảo các tập kinh tụng phổ biến tại các chùa Nam tông để biết thêm ý nghĩa và các chi tiết khác.

Bình Anson 
Perth, Tây Úc

Tải bản PDF về máy để đọc, phiên bản tháng 9-2025 (Pali-Việt):
https://tinyurl.com/3dy9rawn  [vn71_3.pdf, 725 KB]

* Tải tập tin âm thanh kinh tụng (MP3): 
https://tinyurl.com/y26gjnt6 (dung lượng: 118.7 MB)

* Tải tập tin video kinh tụng (MP4):
https://tinyurl.com/y5ossn5k (dung lượng: 106.1 MB)

* Xem/nghe qua YouTube:
https://www.youtube.com/watch?v=68aZpvsEACs

XIN LƯU Ý: 
Tôi soạn ra tập kinh tụng này là để giúp người đọc tiện theo dõi các bài kinh tụng tiếng Pāli của Ni sư Liễu Pháp, không phải để thay thế các tập sách kinh tụng hiện đang phổ biến tại các chùa Nam tông. Độc giả cần phải tham khảo các tập kinh tụng đó để biết thêm ý nghĩa và các chi tiết khác. 

*



Niệm chết để sống tốt

 NIỆM CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT

Mấy hôm trước tôi nghe các bài giảng Tăng chi bộ, chương Bảy pháp của ngài Tỳ-khưu Bodhi, thu âm và quảng bá trên YouTube. Khi giảng bài kinh về Tưởng (Saññā sutta, AN 7.48 & 7.49) -- bảy pháp quán tưởng, trong đó có quán tưởng về chết, ngài cho biết niệm chết (maraṇasati) là một trong những pháp quán tưởng được ghi trong nhiều bài kinh và có hướng dẫn chi tiết trong cuốn Thanh tịnh đạo của Luận sư Buddhaghosa. Dựa theo kinh nghiệm bản thân, ngài nói có ba điều căn bản mà mỗi hành giả cần phải quán tưởng thường xuyên:

1) Tôi sẽ chết, không thể nào tránh khỏi.
2) Tôi sẽ chết bất cứ lúc nào, không thể biết trước được. 
3) Tôi sẽ bỏ lại tất cả khi chết, ngoại trừ Nghiệp của tôi.

Thông thường, khi nghe tin ai chết thì mình cảm thấy ngẩn ngơ, bất ngờ, buồn, rồi gửi thư chia buồn hay viết vài dòng cảm niệm về người vừa qua đời, nhưng rất ít khi nghĩ rằng rồi mình cũng chết như thế. Mình tránh, không muốn nghĩ đến, không muốn nói đến cái chết của mình, sợ bị xui xẻo hay sợ bị người khác cho rằng mình là người bi quan, tiêu cực. Dù rằng không cần thiết phải nói ra với ai, nhưng hành giả lúc nào cũng phải can đảm chấp nhận sự thật là rồi mình cũng sẽ chết như những người khác, để làm quen và có can đảm và nghị lực, không sợ sệt khi đối mặt với cái chết.

Kế đến, mặc dù chấp nhận rồi cũng chết, nhưng người ta thường lý luận tìm cách trì hoãn. Vâng, tôi sẽ chết nhưng không chết ngay bây giờ, mà sống thêm vài chục năm nữa rồi mới chết. Hành giả nên quán tưởng rằng mình có thể chết bất cứ lúc nào. Đức Phật có dạy rằng mạng sống chỉ kéo dài bằng một hơi thở. Thở vào mà không thở ra, hay thở ra mà không thở vào là chết. Mở cửa nhà bước ra đường, rồi có ai đó lái xe lơ đễnh tông trúng là chết ngay tại chỗ. Rất bất ngờ, không biết trước được. Quán tưởng như thế để mình trân quý từng giây phút sống trong hiện tại, không phí thì giờ vào những chuyện vô ích, tập trung tu tập khi mình vẫn còn sống tốt.

Cuối cùng, hành giả nên quán tưởng rằng khi chết, mình sẽ bỏ lại tất cả, chỉ mang theo được Nghiệp của mình vào kiếp sau. Tiền bạc, tài sản, địa vị, gia đình, thân quyến đều phải bỏ lại. Quán tưởng như thế để mình không bị ám ảnh, vướng mắc vào những ràng buộc của thế gian, và chú tâm thực hiện những thiện nghiệp để tạo phước báu cho đời sau.

Tóm lại, hành giả nên tập niệm chết để sống tốt.

*-----*

QUÁN TƯỞNG (Saññā, AN 7.49) – Lược trích

– Này các tỳ-khưu, có bảy quán tưởng nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Đó là quán tưởng về bất tịnh, quán tưởng về chết, quán tưởng về nhàm chán đối với các món ăn, quán tưởng về không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán tưởng về vô thường, quán tưởng về khổ trong vô thường, quán tưởng về vô ngã trong khổ.

(1) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về bất tịnh, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các tham dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(2) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về chết, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng không thích thú sự sống; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(3) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về nhàm chán đối với các món ăn, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng không thích thú với các vị nếm; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(4) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng với các lòe loẹt của thế giới; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(5) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về vô thường, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng với các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(6) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về khổ trong vô thường, tâm sẽ nhận thức sắc bén sợ hãi về sự nguy hiểm của thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát; ví như phải đối mặt với một kẻ giết người giơ đao lên.

(7) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về vô ngã trong khổ, tâm sẽ thoát khỏi các tư tưởng về ngã, ngã sở, ngã mạn đối với cái thân có thức nầy và đối với tất cả tướng ở ngoài; vượt qua mọi so sánh phân biệt, được an tịnh, khéo giải thoát.

Này các tỳ-khưu, đó là bảy quán tưởng nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.  – (AN 7.49)

*-----*



Tuesday, 2 September 2025

Diễu võ hay Diễn võ, Diệu võ?

 DIỄU VÕ HAY DIỄN VÕ, DIỆU VÕ?

Nhân khi bàn luận về từ “diễu binh” và “diễn binh”, một người bạn trẻ có đề cập đến thành ngữ “diễu võ dương oai” để minh chứng cho cách dùng từ “diễu”. Quả thật là bây giờ khi dùng Google để tìm thì thấy rất nhiều các bài viết trên mạng dùng thành ngữ này với từ “diễu”. Nhưng nếu truy tìm với thành ngữ “diễn võ dương oai” thì thấy vẫn có một số bài viết dùng với từ "diễn". Tôi nhớ khi còn ở Sài Gòn trước 1975, tôi chỉ biết câu “dương oai diễn võ” viết với từ “diễn”.

Tìm tòi trên mạng qua Google, tôi biết thêm là thành ngữ trên bắt nguồn từ câu tiếng Hán là 耀武揚威 - Diệu vũ dương uy, trong đó, 耀 Diệu (bộ Vũ) là làm cho chói sáng, phô trương, khoe khoang.

Như thế, trong trường hợp này, "Diễu" và "Diễn" là cách phát âm vùng miền của từ "Diệu 耀". Có lẽ chúng ta nên viết câu đó là “diệu võ dương oai” với từ "diệu võ" thì chính xác hơn. Việt Nam Tự Điển của Nguyễn Văn Đức, xuất bản ở Sài Gòn năm 1970, có ghi câu "Diệu võ dương oai" và định nghĩa là "làm tàn, làm ra bộ nghênh ngang, khoe khoang sức mạnh". Dùng Google để truy tìm với thành ngữ "diệu võ dương oai" thì cũng sẽ thấy nhiều bài viết và vài tự điển trực tuyến đề cập đến từ "diệu võ".

*