Sunday 24 June 2018

Một cuộc hội ngộ bất ngờ

MỘT CUỘC HỘI NGỘ BẤT NGỜ
Hòa thượng Henepola Gunaratana
(Bình Anson lược dịch)

Trong những xã hội mà đa số mọi người tin vào tái sinh, người lớn đặc biệt chú ý đến những đứa trẻ có khả năng nói nhiều điều về đời sống trong các kiếp trước. Trí nhớ của những đứa trẻ có kỹ năng và khả năng đặc biệt — những loại trí nhớ vượt quá mức độ thông thường của đứa trẻ, chẳng hạn như cuốn băng tụng kinh mà tôi đã nghe cách đây hơn bốn mươi năm – chỉ vào thực tế tâm linh của sự tái sinh.

Tôi biết đến cuốn băng đó khi tôi ở chùa Phật giáo Washington (Washington Buddhist Vihāra) từ năm 1968 đến 1988, ngôi chùa Phật giáo Theravāda đầu tiên ở Hoa Kỳ. Một ngày vào đầu thập niên 1970, một người nào đó đưa cho tôi một băng cassette và nói: “Xin Sư thử nghe băng này.” Tôi lắng nghe âm thanh ngọt ngào của một đứa trẻ tụng kinh Pāli. Tiếng phát âm Pāli của bé rất rõ ràng. Phong cách tụng kinh rất độc đáo – tôi chưa bao giờ nghe kiểu tụng kinh như thế. Tôi sao chép cuốn băng nầy và chia sẻ với nhiều người khác. Mọi người đều xúc động sâu sắc khi lắng nghe lời tụng kinh của đứa trẻ. Cuối cùng, tôi quyết định tìm gặp đứa trẻ này.

Năm 1985, tôi ghé lại ở Sri Lanka trên đường đến nước Úc. Khi ở Sri Lanka, tôi liên lạc với một người bạn, nói với anh ấy rằng tôi có nghe băng tụng kinh của đứa trẻ, và hỏi anh ấy tôi có thể tìm thấy đứa trẻ nầy ở đâu. Bản thân anh ấy cũng không biết, nhưng anh đưa tôi đến gặp Tỳ-khưu Panadure Ariyadhamma, rất nổi tiếng vào lúc đó về tụng kinh lễ Bodhipūja. Sau khi gặp gỡ trò chuyện, tôi hỏi ngài có biết nơi ở của đứa trẻ này không. Ngài đưa cho tôi một địa chỉ ở đâu đó trong thành phố Kandy. Được một người bạn khác lái xe đưa đi, tôi đã đi đến địa chỉ đó nhưng không ai biết gì về đứa trẻ. Tôi đã thực hiện ba chuyến đi như thế, từ Colombo đến Kandy, tìm kiếm đứa trẻ này. Lần nào những người ở đó cũng bảo rằng không ai biết đứa trẻ ở đâu.

Từ bỏ việc tìm kiếm, tôi lên đường đến nước Úc, điểm dừng chân tiếp theo của tôi, để có các buổi thuyết giảng và hướng dẫn hành thiền. Một ngày nọ, cô Elizabeth Gorski [1] lái xe cùng với hai người bạn Phật tử – một nam, một nữ – đến đón tôi ở Sydney để đưa đến thiền lâm Wat Buddhadhamma ở Wiseman Ferry, cách đó khoảng hai giờ lái xe. Trên đường đi, tôi hỏi cô Gorski đã từng nghe băng kinh tụng Pāli của một đứa trẻ ở Sri Lanka hay không. Khi cô ấy trả lời đã từng nghe, tôi hỏi cô ấy đã gặp đứa trẻ đó chưa.

“Vâng, bạch Sư, con đã gặp rồi,” cô ấy trả lời.

“Khi tôi đến Sri Lanka, tôi đã ba lần đi đến một địa chỉ mà người ta đã cho tôi để tìm gặp đứa trẻ ấy, mà không thành công gì cả. Cô có biết anh ấy hiện đang ở đâu không?”

“Bạch Sư, Sư đang ngồi cạnh anh ta ngay bây giờ trong xe nầy!” Đó là câu trả lời của cô ấy.

Người thanh niên trẻ ngồi chung với tôi trên ghế sau trong xe là Dhammaruwan, người đã tụng những bài kinh Pāli trong cuốn băng cassette khi còn là một đứa trẻ nhỏ. Tôi quay sang anh ta và hỏi tại sao anh không nói chuyện với tôi suốt thời gian đó. Anh ấy trả lời: “Vì con không có gì để nói, nên con không nói.”

Người thanh niên này đã kể cho tôi biết những hồi ức của chính anh về tái sinh [2]. Mặc dù tôi đã gặp một số người có ký ức về tiền kiếp, đây là lần đầu tiên tôi gặp một người có thể cho tôi những thông tin rất sống động và chi tiết về tiền kiếp của chính mình. Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với anh ấy. Kể từ đó, anh ấy đều đến Úc mỗi lần tôi đến nước đó để hoằng pháp. Anh ấy cũng đã nhiều lần đến viếng Trung tâm Thiền và Tu viện Bhāvanā ở bang West Virginia, Hoa Kỳ. Trong chuyến viếng thăm gần đây, anh ấy ngỏ ý xin xuất gia. Tôi tổ chức xuất gia cho anh ấy vào ngày 10 tháng Tư năm 2016, và đặt cho pháp danh là Samādhikusala (Định Thiện).

GHI CHÚ:
[1] Về sau, bà Elizabeth Gorski là một trong bốn vị nữ Phật tử xuất gia tỳ-khưu-ni đầu tiên tại Úc vào năm 2009, với pháp danh Nirodha. Hiện nay, Tỳ-khưu-ni Nirodha là vị trụ trì Tu viện Santi ở bang New South Wales, Úc.

[2] Như ghi trong cuốn “Rebirth in early Buddhism and current research” (Tái sinh trong Phật giáo Sơ kỳ và Nghiên cứu Hiện nay) của Bhikkhu Anālayo (2018), Dhammaruwan sinh năm 1968 tai Kandy, Sri Lanka, khi còn là một cậu bé đã biết tự tụng kinh Pali và ngồi thiền không ai hướng dẫn, nhớ lại tiền kiếp là một đệ tử của ngài Luận sư Buddhaghosa, pháp danh là Mudithagosa, theo ngài từ Ấn Độ sang hoằng pháp ở Sri Lanka. Về sau, khi lớn lên, ông là cư sĩ thiền sư. Xuất gia sa-di với ngài Hoà thượng Henepola Gunaratana tại Hoa Kỳ năm 2016 và thọ đại giới tại Sri Lanka năm 2017, pháp danh Samadhikusalo (Định Thiện).

* Có thể nghe Dhammaruwan tụng bài kinh Girimananda lúc 6 tuổi:
https://www.youtube.com/watch?v=3hP18KsTctI

*---*---*

Thêm vài thông tin cho những ai quan tâm.

Về các bản kinh tụng của Dhammaruwan
Hòa thượng Henepola Gunaratana

Dhammaruwan sinh ra trong một ngôi làng nhỏ gần thành phố Kandy, Sri Lanka vào tháng 11 năm 1968. Từ khoảng năm hai tuổi, trước khi biết đọc hoặc biết viết, cậu bé bắt đầu tụng những bài kinh bằng tiếng Pāli nguyên thủy, chỉ có một số ít các vị tu sĩ học giả biết đến. Mỗi ngày, vào khoảng hai giờ sáng, sau khi ngồi hành thiền với cha nuôi – là một Phật tử thuần thành – trong khoảng từ hai mươi đến bốn mươi phút, cậu bé tự động cất tiếng tụng kinh không ai nhắc bảo. Thỉnh thoảng vào những ngày bố-tát hoặc ngày lễ theo âm lịch, cậu bé có thể tụng kinh suốt hai giờ đồng hồ.

Cha nuôi của Dhammaruwan thu âm các bài tụng đó bằng một máy casette xách tay và mời một vị sư học giả có uy tín lắng nghe. Nhà sư xác nhận đó thực sự là tiếng Pāli cổ xưa và cậu bé tụng kinh theo một phong cách xa xưa mà ngày nay không còn tồn tại nữa. Năm lên ba tuổi, cậu bé bắt đầu tụng một câu nào đó của bài kinh Chuyển Pháp Luân. Kể từ ngày hôm đó, cậu tụng các bài kinh trong kinh tạng Pāli với rất ít sai lầm. Phong cách tụng kinh là đặc biệt của riêng cậu bé, không tìm thấy ở nơi nào khác.

Khi cậu bé lớn lên và có thể nói được nhiều hơn, cậu cho biết đã được học cách tụng kinh đặc biệt đó ở đâu và làm cách nào cậu có thể tụng những bài kinh phức tạp mà ngay cả những người lớn cũng thấy khó khăn để tụng một cách chính xác. Cậu bé cho biết vào thế kỷ thứ 5 Tây lịch, cậu là một nhà sư cùng với vài vị tu sĩ khác đi theo ngài Luận sư Buddhagosa từ Ấn Độ sang Sri Lanka. Nhà sư có pháp danh là Mudithagosa, cùng với các vị tu sĩ khác đã thuộc làu một phần hay toàn bộ Tam Tạng. Do trí nhớ thuộc làu ấy, cậu có thể tụng lại các bài kinh khi hồi tưởng lại kiếp sống đó. Khả năng nhớ và tụng các bài kinh được duy trì cho đến năm 10 tuổi rồi bắt đầu suy giảm. Bản kinh tụng được thu âm sớm nhất là vào lúc cậu bé được ba tuổi.

*---*---*


No comments:

Post a Comment