BỐN NGƯỜI VỢ CỦA VỊ TRƯỞNG GIẢ
Giới thiệu: Câu chuyện về bốn người vợ của vị trưởng giả được đề cập đầu tiên trong một bài giảng của Hòa thượng Thích Thanh Từ (tập sách “Tu là phải hiền”) và bài giảng của Ni sư Thích nữ Như Thủy (tập sách “Hư hư lục”), xuất bản trong thập niên 1990. Sau đó, câu chuyện này được biên tập lại và phổ biến trên nhiều trang web Phật giáo. Tôi thấy có những bài viết tiếng Anh cũng trích dẫn câu chuyện này. Tuy nhiên, hầu như các bài giảng, bài viết đó – tiếng Việt lẫn tiếng Anh – đều không ghi rõ ràng nguồn gốc xuất xứ của câu chuyện.
Tình cờ tôi vào đọc các trao đổi thảo luận trong một diễn đàn Phật giáo tiếng Anh thì mới biết được câu chuyện trên được ghi trong bài kinh số 10 của bộ Tạp A-hàm Biệt dịch, T-101, thuộc Hán tạng. Từ thông tin đó, tôi tìm được bản dịch tiếng Việt trong bộ Linh Sơn Pháp bảo Đại tạng kinh. Xin trích ra ở đây.
– Bình Anson
Perth, 09/02/2025
*-----*
Tạp A-hàm biệt dịch, T-101.10
(Linh Sơn Pháp bảo Đại tạng kinh)
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ. Phật gọi các tỳ-khưu, các tỳ-khưu xin thọ giáo. Phật dạy:
– Này các tỳ-khưu, con người có bốn nhân duyên gây nên tham ái nặng nhẹ, từ đó xa rời đạo. Này tỳ-khưu, như một kẻ có bốn người vợ.
Người vợ thứ nhất được chồng xem trọng, đi đứng nằm ngồi, làm việc ngủ nghỉ luôn luôn gần nhau, được ưu tiên về tắm rửa, trang sức, ăn uống, hưởng năm dục, chăm sóc khi nóng lạnh, đói khát; nghịch thuận thường chiều theo ý muốn, không làm phiền lòng.
Người vợ thứ hai thường trực hai bên khi đứng ngồi nói chuyện, được vậy thì vui, không được thì buồn, cả khi đau bệnh hoặc tranh tụng.
Người vợ thứ ba thường hiện diện bên nhau, thường xuyên thăm hỏi sự khổ vui, khó khăn đau bệnh cùng chịu với nhau, xa nhau thì mong nhớ.
Người vợ thứ tư, bị chồng sai khiến, chạy đi làm việc rất là khổ cực, gặp nhau không thèm hỏi không thèm nói, chỉ mong chồng để ý đến nhưng không toại nguyện.
Người chồng có bốn vợ này, một hôm có việc tang chế, cần phải đi xa, nên bảo người vợ thứ nhất cùng đi theo.
Người vợ thứ nhất trả lời:
– Thiếp không theo chàng được.
Người chồng nói:
– Ta yêu trọng nàng vô cùng, việc lớn nhỏ nhiều ít đều làm theo ý, nuôi nấng luôn luôn vừa ý, tại sao nàng không đi với ta?
Vợ đáp:
– Chàng tuy yêu thương thiếp vô cùng, nhưng thiếp không bao giờ theo chàng.
Người chồng tức giận đi gọi người vợ thứ hai:
– Nàng hãy đi với ta.
Người này đáp:
– Người vợ cả được chàng yêu mến nhất, nhưng bà ta đã không đi theo; thiếp cũng không bao giờ theo chàng.
Chồng nói:
– Khi ta mới tìm nàng khó khăn không thể nói, chịu nóng lạnh, đói khát, nước lửa, quan lại, giặc cướp, lại tranh giành với người, thật khó khăn mới được, tại sao nàng không đi với ta?
Vợ nói:
– Chàng vì tham lợi nên cố cầu được thiếp, còn thiếp không cần chàng, vậy đem những việc khó nhọc ra nói làm gì!
Người chồng tức giận đến nói với người vợ thứ ba:
– Nàng hãy đi với ta.
Người vợ này nói:
– Thiếp thọ ân chàng giúp đỡ, sẽ đưa chàng ra khỏi thành nhưng không theo chàng đi xa đến tận nơi kia.
Người chồng tức giận, trở lại bàn luận với người vợ thứ tư:
– Ta sẽ đi khỏi nước này, nàng hãy đi theo ta.
Người vợ này nói:
– Thiếp đã xa rời cha mẹ đến đây tùy thuộc chàng sai khiến, dù sống chết, vui buồn cũng sẽ theo chàng đến nơi.
Người chồng không được ba người vợ vừa ý đi theo, chỉ có người vợ xấu, khổ, không vừa ý thì đi theo.
Phật dạy:
– Người chồng ở trên, chỉ cho thần thức của con người. Người vợ thứ nhất chỉ cho thân thể. Con người yêu mến thân thể mình còn hơn người vợ thứ nhất, đến khi chết thần thức tùy theo tội phước ra đi một mình, thân thể cứng đơ trên đất, không chịu đi theo.
Tỳ-khưu không dốc tu tập bốn hành thì không thể giải thoát. Những gì là bốn? Một là ưu khổ, hai là khổ tập, ba là khổ diệt, bốn là con đường làm tiêu diệt các nẻo ác có tám chi; phải thực hành bốn Thánh đế đó.
Người vợ thứ hai là tài sản của người, được thì mừng, không được thì buồn; đến khi qua đời tài sản vẫn còn lại trên thế gian, không đi theo người, uổng công sầu khổ.
Người vợ thứ ba là cha mẹ, vợ con, anh em thân thuộc, bạn bè, nô tỳ. Khi còn sống ân ái, yêu mến nhau, đến khi qua đời thì khóc lóc đưa tiễn nhau ra ngoài thành, tới nghĩa địa, sau khi vứt bỏ thây chết rồi cùng nhau ai về nhà nấy, ưu tư bất quá chừng mười ngày, tiếp đó thì xúm nhau ăn uống, quên hẳn người chết.
Người vợ thứ tư là tâm ý của con người, trong thế gian không có ai yêu mến và giữ gìn tâm ý, đều phóng tâm buông ý, tham dục sân giận, không tin chánh đạo, sau khi chết bị đọa đường ác, hoặc địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, đều do vì buông lung tâm ý.
“Này tỳ-khưu, hành đạo cần phải giữ niệm tỉnh giác, loại trừ tâm ngu si, không hành động ngu si, chấm dứt hành động xấu ác. Không hành động xấu ác thì không bị quả báo khổ, không thọ quả khổ thì không sinh, không sinh thì không già, không già thì không bệnh, không bệnh thì không chết, không chết là đắc đạo Niết-bàn giải thoát.”
Đức Phật giảng dạy như vậy, các tỳ-khưu hoan hỷ phụng hành.
– Tạp A-hàm biệt dịch, T 101.10
(Linh Sơn Pháp bảo Đại tạng kinh).
-----------
Ghi chú: Về Tạp A Hàm Kinh, trong Hán tạng có 3 bộ:
T-99: Tạp A Hàm Kinh, 50 quyển, 1362 bài kinh, do Cầu Na Bạt Đà La dịch, đời Lưu Tống. Đây là bản Hán dịch đầy đủ nhất, đã được dịch sang tiếng Việt và quảng bá rộng rãi.
T-100: Biệt dịch Tạp A Hàm Kinh, 16 quyển, 364 bài kinh, không biết tên dịch giả
T-101: Tạp A Hàm Kinh, 1 quyển, 27 bài kinh, không biết tên dịch giả. Câu chuyện về bốn bà vợ của trưởng giả là bài kinh số 10 trong bộ này.
*-----*