Tuesday 31 March 2020

Sách: Với từng mỗi hơi thở - Bhikkhu Thanissaro (Phương Thúy dịch)


Với từng mỗi hơi thở - HƯỚNG DẪN HÀNH THIỀN
Phương Thủy dịch (2020)

Nguyên tác: With Each & Every Breath – A Guide to Meditation
Bhikkhu Thanissaro (2013)

Một quyển sách quý cho những ai đang hành thiền quán niệm hơi thở. Đây là bản Việt dịch mới nhất với nhiều chỉnh sửa. Có thể tải bản PDF về đọc trong máy vi tính:

1) http://budsas.net/sach/vn54_vn.pdf (tiếng Việt)

2) http://budsas.net/sach/vn54_eng.pdf (tiếng Anh)

*

Nhạc quốc tế: KENNY ROGERS (1938-2020)

Ông vừa qua đời tuần trước, 20-03-2020. Xin gửi tặng album nầy để tưởng nhớ ông.

Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps.

nqt22.zip – Kenny Rogers, 25 Greatest Hits (1987) (213 MB)

1) https://tinyurl.com/rmrtubc
2) https://mega.nz/#!CwZS3A4S!Rz8yCnicDynfdl9bh77K-UNTFpSmf_Dc0ITkCwLGZPA

*
Kenny Rogers

TỈNH THỨC TRƯỚC CÁI CHẾT (1) - Hòa thượng Henepola Gunaratana

TỈNH THỨC TRƯỚC CÁI CHẾT
Hòa thượng Henepola Gunaratana
Trích: Lion’s Roar, 02/03/2018

Hòa thượng Henepola Gunaratana – thường được biết với tên thân mật là “Bhante G.” (Sư G.) – đã có giây phút mặt đối mặt với cái chết trong một chuyến bay. Sau đây là những gì ngài kể lại cho thính chúng tại Tu viện Cittaviveka, Anh quốc.

*

Tôi nhận được tin mẹ tôi bệnh nặng, sắp qua đời. Trên đường về Sri Lanka từ thủ đô Washington DC, tôi phải chuyển máy bay ở Hawaii. Sau một hoặc hai giờ bay khỏi Hawaii, nhìn qua cửa sổ, tôi thấy lửa bốc cháy từ động cơ của máy bay. Rồi viên phi công loan báo qua loa phóng thanh: “Động cơ máy bay bị cháy và chúng tôi phải bay trở lại.” Tôi thầm nhủ: “Cho dù tâm dính mắc vào đời sống có mạnh mẽ cho đến cỡ nào, tôi phải buông bỏ sự dính mắc ấy ngay bây giờ.”

Viên phi công bảo các tiếp viên hàng không đưa ra những lời hướng dẫn để chúng tôi biết cách thoát ra khỏi máy bay nếu ông ta có thể điều khiển máy bay trở lại Hawaii. Chúng tôi phải ngồi yên lặng, buộc dây an toàn. Khi máy bay đáp xuống thành công, các dàn đèn trên sàn sẽ chỉ lối đi đến tám cửa thoát hiểm. Khi các cửa này mở, thang trượt khẩn cấp sẽ tự động bung ra. Chúng tôi phải lập tức nhảy vào đó không chần chừ, trượt xuống và nhanh chóng chạy khỏi máy bay.

Tôi nghĩ có lẽ không có ai nghe và hoàn toàn hiểu được các lời hướng dẫn này. Bởi vì từ lúc viên phi công loan báo rằng động cơ bị cháy, dường như mọi người trong máy bay đều bị trấn áp bởi nỗi sợ chết. Có người làm dấu thánh giá, có cặp ôm lấy nhau và hôn nhau, có người bật khóc hoặc trông rất căng thẳng và lo lắng.

Tôi thầm nghĩ: “Nếu đây là lúc tôi phải chết, bằng cách gì tôi cũng sẽ chết, cho dù có lo sợ hay không. Hãy giữ tâm trí mình cho sáng suốt.”

Tôi tự động viên cho chính mình: “Tôi phải bình tĩnh, giữ tâm trí thanh tịnh và sáng suốt trước khi tôi bị bất tỉnh. Đây là lúc tôi dùng niệm để thấy rõ cái chết là không thể tránh được. Nếu tôi chết với trạng thái tâm thanh tịnh và sáng suốt, đời sống kế tiếp của tôi sẽ tốt đẹp. Tôi không nên để tâm trí bị ngăn che bởi sự sợ sệt hay hoảng loạn. Cho dù tôi có quyến luyến mạnh mẽ vào đời sống này, tôi phải buông bỏ sự quyến luyến đó ngay bây giờ.” Như thế, tôi nỗ lực ngăn chặn bất cứ một tư tưởng bất thiện nào sinh ra khi phải đối diện với với cái chết và khuyến khích, thúc đẩy các tư tưởng thiện lành khởi sinh trong tâm.

Sự kiện xảy ra quá bất ngờ làm tôi choáng váng, không cảm thấy sợ hãi, hoang mang. Trái lại, tôi cảm thấy thích thú quan sát các ánh lửa tỏa ra từ động cơ máy bay đang trên độ cao khoảng 39.000 feet (12.000 mét)! Các ngọn lửa có màu xanh dương, màu vàng và màu đỏ. Rất ít khi thấy được các ngọn lửa xanh dương như thế. Có khi chúng tỏa ra rất lớn, có khi chúng gom lại thành đốm nhỏ. Giống như thể các pháo hoa hay các cực quang ở phương bắc (aurora borealis).

Trong khi tôi thích thú quan sát màn kịch, hơn ba trăm hành khách khác có vẻ quằn quại trong nỗi lo sợ về cái chết. Trông như họ đã chết rồi, trước khi thật sự chết! Tuy nhiên, tôi nhận thấy các đứa bé hầu như không bị tác động. Chúng vẫn cười giỡn và vui chơi như trước khi có biến động. Tôi nghĩ: “Mình phải bắt chước chúng, tự đặt mình trong tâm trí trẻ thơ.”

Cuối cùng rồi máy bay quay trở về Hawaii và khẩn cấp đáp xuống sân bay. Chúng tôi ra khỏi cửa thoát hiểm như đã được hướng dẫn, trượt xuống thang thoát hiểm. Trượt xuống thang như thế này là một kinh nghiệm hoàn toàn mới lạ cho tôi. Có lẽ những người khác trong chuyến bay đều ít nhất đã có một lần kinh nghiệm trượt như thế tại các sân chơi cho trẻ em. Còn tôi thì chưa có kinh nghiệm đó vì tôi lớn lên trong một làng quê nghèo ở Sri Lanka.

Vì thế tôi thật sự rất thích thú cho đến phút cuối của tai nạn máy bay này.

– Hòa thượng Henepola Gunaratana
(Bình Anson dịch)

*--------------------------------*
Bhante G.

Nhạc Việt: Tiếng hát BÍCH LIÊN, Phạm Duy: Hát vào đời (2019)

Tôi mới nghe cô hát lần đầu. Giọng hát rất điêu luyện, lã lướt. Cô cũng là một bác sĩ y khoa ở Hoa Kỳ. Xin tặng cho những ai thich nhạc Phạm Duy. Đây là những bản nhạc không phổ thông vì tương đối khó hát, nhưng có ý nghĩa, nghe rất đậm đà, thấm thía.

* Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

nviet67.zip (135 MB) – Tiếng hát Bích Liên, Phạm Duy: Hát vào đời (2019)

https://tinyurl.com/unqm5g4
https://mega.nz/#!21ZElKqL!gxIFZws16oVzU0sy6HW0nwlogi7rU347yUEXsTtChHc

*
Bích Liên - Hát vào đời, Ca khúc Phạm Duy (2019)

01. Một bàn tay
02. Chiều về trên sông
03. Nước mắt rơi
04. Tạ ơn đời
05. Tôi còn yêu, tôi cứ yêu
06. Quán bên đường
07. Tiếng bước trên đường khuya
08. Tìm nhau
09. Đường chiều lá rụng
10. Xuân hành
------------------

Sunday 29 March 2020

Cái chết trong ca khúc Phạm Duy - Phạm Xuân Đài

CÁI CHẾT TRONG CA KHÚC PHẠM DUY
PHẠM XUÂN ÐÀI
Diễn đàn Thế Kỷ, 29/01/2013

Trong buổi lễ tưởng niệm Ðỗ Ngọc Yến vào tối ngày 23 tháng Tám 2006 tại phòng sinh hoạt Lê Ðình Ðiểu của báo Người Việt, Bích Liên với giọng cao vút trong phong cách opéra, đã hát những lời này:

1.
Hồn xuân vừa tàn hơi
Hay nắng ấm lung linh qua đời
Hay gió tuyết mưa sa bay ngang trời
Người yêu dù xa xôi 
Xin nhớ tới quê hương u hoài
Trong giá rét đêm đông đang trông vời

Một lần người đưa tiễn nhau
Như vẫn cầu lời hứa năm nào
Ðằm thắm cho vui lòng nhau
Một lần người xa cách nhau
Trái tim sầu còn vẫn tươi mầu
Vì đó... không ai quên đâu...

2.
Người đi về mai sau
Nghe khóc lóc xe tang đưa sầu
Nghe bóng xế khăn sô bay ngang đầu
Người đi vào không gian
Nghe nhớ tiếc đau thương vô vàn
Nghe tiếng hát êm êm ru linh hồn

Người về dần trong cõi mồ
Như lúc nào vừa mới ra đời
Chào đón xuân tươi ngày mới
Cuộc đời từ trong chiếc nôi
Ðã quay về cùng với gió bụi
Về chốn không tên, xa xôi...
(
Khúc Ca Ly Biệt)

Bài hát nói về cái chết, Phạm Duy dựa vào điệu nhạc Chanson de Solvejg viết lời lâu rồi, đã trên nửa thế kỷ, ít người biết, nhưng chạm sâu xa đến một vùng mà không mấy  người có khả năng nói tới. Phạm Duy là một nhạc sĩ hiếm hoi nhiều lần nói về cái chết, và Khúc Ca Ly Biệt trên đây là bài hát hoàn toàn về sự biệt ly của chết chóc, một cách toàn diện, trong không gian, trong thời gian, trong thân phận kẻ lìa trần cũng như trong lòng người ở lại.

Phạm Duy là một nhạc sĩ sáng tác mãnh liệt về khắp các mặt của cuộc đời, nhưng lại luôn luôn nhắc đến cái chết, tuồng như ông thấy chết cũng là một hình thái biểu hiện sự sống. Ngay từ khi còn rất trẻ, trong khi say sưa viết lên cái khí thế bừng bừng đánh quân ngoại xâm giữa thời điểm 1945, ông cũng đã mường tượng đến sự chết rồi. Ông vừa viết xong bài Xuất Quân lẫm liệt Ngày bao hùng binh tiến lên thì đã nghĩ ngay đến hình ảnh ma quái của những Chiến Sĩ Vô Danh

Mờ trong bóng chiều 
Một đoàn quân thấp thoáng
(
Chiến Sĩ Vô Danh)

Quân này là quân ma, họ đã ra đi chiến đấu và đã ra người thiên cổ, ông dùng ngay hình ảnh ấy để lay động lòng người đang đứng trước cuộc chiến giữ nước

Ra biên khu trong một chiều sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về đây hú với gió
Là hồn người Nam nhớ thù.

Một thanh niên đang ở độ tuổi ngoài hai mươi, mang bầu máu nóng phụng sự cho đất nước mà đã sớm nhìn ra những hình ảnh của “cõi bên kia” như thế thì cũng là chuyện lạ. Bài Nợ Máu Xương lại càng lạ hơn nữa, vừa hiện thực vừa siêu thực, tả toàn cảnh chết chóc vì chém giết

Ai nghe không sa trường lên tiếng hú?
Tiếng lầm than, những tiếng người đời quên.
Ði lang thang tiếng cười vang tiếng hú
Xác không đầu nào kia?
(
Nợ Máu Xương)

Nghe phảng phất như Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du! Phải chăng linh cảm mẫn nhuệ của một nghệ sĩ lớn đã khiến Phạm Duy nhìn thấy trước cảnh chiến tranh tàn phá kinh hoàng trên đất đước Việt Nam suốt ba mươi năm sắp tới, dù thời điểm viết Nợ Máu Xương là vào năm 1946, trước khi toàn quốc kháng chiến với Pháp. Ông đã dùng những hình ảnh cổ điển của thi ca thời đó để vẽ nên sự chết chóc, nhưng bản chất của tấn thảm kịch chiến tranh thì thời nào cũng thế

Lá rụng tơi bời
Ðoàn quân tiến qua làng.
Từng thanh kiếm đứt ngang, 
Từng lớp áo rách mướp,
Từng cánh tay rụng rời!
Qua làn mây trắng
Ðoàn quân tiến về trời
Ầm rung tiếng sa trường...

Tiếng ầm rung chết chóc đó còn vang mãi trong lòng người không biết bao nhiêu thế hệ nữa khi họ có dịp ôn lại những trang sử xưa, không phải những trang chính sử ghi lại một cách vô cảm các biến cố, mà là những trang sử như của Phạm Duy viết khi “đoàn quân tiến qua làng” với những chiếc áo rách mướp, những thanh kiếm gãy ngang, những cánh tay không còn nguyên vẹn... và nói rõ họ đang “tiến về trời.” Lịch sử một dân tộc không thể không ghi những trang như thế, cũng như mấy năm về sau khi sáng tác ông đã đóng vai một ký giả chiến tranh tả thực cái cảnh dã man rùng rợn “quân thù đã bắt được con đem ra giữa chợ cắt đầu” từ một thảm cảnh của làng Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Hoặc một cách gián tiếp, chỉ dùng một số hình ảnh ước lệ, nhưng hiệu quả gợi cảm thương về sự chết chóc vẫn lớn:

Người đi không về
Chắc rằng có người nhớ
Hương khói chiêu hồn
Hiu hắt những chiều trận vong.
(Ðường Ra Biên Ải)

Một số năm về sau ông rời khỏi các ám ảnh chiến tranh, đề tài sáng tác càng phong phú, nhưng cái chết vẫn không rời ông. Ông đã viết về việc sáng tác của ông vào khoảng đầu thập niên 1960: “Ðối với tôi chỉ có ba điều quan trọng: Tình Yêu, Sự Ðau Khổ và Cái Chết.” Nhưng cái chết vào thời điểm này đã được trừu tượng hóa thành một loại tư tưởng, không còn cụ thể có khi đầy ghê rợn như trong thời kháng chiến Pháp. Như về bài Ðường Chiều Lá Rụng, tác giả đã tâm sự như thế này: “Lúc này tôi đang yêu đời lắm, nhưng tôi vẫn nói tới cái chết, chẳng hạn, qua những kiếp lá trong đường chiều. Lá đang như những chiếc thuyền rung rinh trong ngọn gió, bỗng nghe đất gọi về, lá rơi xuống đất để trở thành những ngôi mộ úa trên con đường chiều, nơi đó có tôi và người yêu đang đi trong cuộc tình.”

Lá vàng bay! Lá vàng bay!
Như dĩ vãng gầy, tóc buông dài, bước ra khỏi tình phai
Lá vàng rơi! Lá vàng rơi!
Như chút hơi người giã ơn đời trên nẻo đường hấp hối!
(
Ðường Chiều Lá Rụng)

Khi một người lên tiếng Tạ Ơn Ðời thì tâm hồn hẳn đầy sung sướng vì những gì đời đã cho mình. Quả thế, tác giả ca ngợi “bao nhiêu là thương mến, bao nhiêu là quyến luyến,” rồi “tay hái biết bao niềm yêu,”“đời vẫn cho ta ngọt bùi”... nhưng cuối cùng vẫn không quên cái chết đang chờ ở cuối đường

Mang ơn đời nâng đỡ
Dâng nấm mồ thô sơ
Với dâng hương hồn thương nhớ
Còn vấn vương trong chiều tà.
(
Tạ Ơn Ðời)

Bài Một Bàn Tay là một bài hát triết lý, qua hình ảnh bàn tay mà thấy ra toàn diện cuộc đời, từ bàn tay bà mụ “đưa anh ra khỏi lòng người” đến bàn tay làm lụng, bàn tay  yêu đương..., nhưng cuối cùng, cũng sẽ bàn tay ấy làm động tác giúp kết thúc một đời người

Một mai đưa anh thăm thẳm lìa đời
Mùa đông khăn tang mây bỏ đường dài
Bàn tay thương nhớ, ôi gặp anh băng giá
Lạ lùng, tay khép làn mi.
(
Một Bàn Tay)

Suốt cuộc đời sáng tác của mình, kể cả khi còn rất trẻ, Phạm Duy không bao giờ quên cái chết, và ông diễn tả nó một cách tài tình, khiến ta khi hát lên cảm thấy như vừa chạm vào cái cõi bi thương đáng sợ ấy. Thật ra ông không đi sâu vào chính cái chết như Tolstoi tả phút hấp hối của André trong Chiến Tranh và Hòa Bình, ông chỉ nói về tình huống bề ngoài, nhưng cách nói nghệ thuật của ông khơi dậy gần như đầy đủ “kinh nghiệm chết” hình như vẫn luôn luôn có sẵn trong mỗi chúng ta. Ðó có thể là kinh nghiệm tử biệt sinh ly về cái chết của bao người khác ta hằng chứng kiến, nhưng cũng rất có thể là của chính ta, lưu trữ bằng một cách nào đó sâu trong tâm thức sau hàng vô số kiếp luẩn quẩn trong vòng tử sinh. Ðôi khi ta vẫn có cảm tưởng “nhớ” lại một cái gì đó không hề được kinh nghiệm trong đời này.

Tương truyền bản nhạc Sombre Dimanche (Chủ nhật buồn) là một bản nhạc gây chết chóc, vì không hiểu sao nhiều người nghe nó đã tự tử. Quả là thỉnh thoảng vẫn có những tác phẩm mang cái ma lực kỳ dị như vậy. Bản nhạc ấy vào tay Phạm Duy đã mang lời Việt Nam như sau:

Chủ nhật nào tôi im hơi
Vì đợi chờ không nguôi ngoai
Bước chân người nhớ thương tôi
Ðến với tôi thì muộn rồi
Trước quan tài khói hương mờ bốc lên như vạn nghìn lời
Dẫu qua đời mắt tôi cười vẫn đăm đăm nhìn về người
Hồn lìa rồi nhưng em ơi tình còn nồng đôi con ngươi
Nhắc cho ai biết cuối đời có một người yêu không thôi
Ơi hỡi... ơi... người!...
(Chủ Nhật Buồn)

Ðó là luyến tiếc, vướng víu, là không siêu thoát, phải không?

Khi chúng ta còn nhỏ, sự chết đối với chúng ta là chuyện... của người lớn. Khi vào đời ở tuổi thanh niên thì đó là chuyện của... người già. Chính mình thì chối hết. Nhưng khi bắt đầu vào tuổi già thì như một khả năng tự nhiên, càng ngày ta càng cảm nhận được trong thân tâm mình cái “khả năng chết” một rõ hơn, mãi đến một lúc, hết chối nữa, đành nhận nó là của mình. Nó dần dà, tự nhiên biến thành một phần của sự sống. Phạm Duy là một người hiếm hoi “biết” cái chết, “sống” với cái chết ngay từ tuổi thanh niên. Tại sao? Ðể làm gì? Trong nhân loại, thỉnh thoảng nẩy ra một người có khả năng trình bày hộ cho mọi người khác ý nghĩa toàn bộ cuộc nhân sinh mà thông thường người phàm mắt thịt chỉ thấy rất ngắn, toàn là chuyện eo sèo trước mắt. Chứ sao, phải nói về cái chết chứ, làm sao có sự sống nếu không có sự chết? Cái chết chờ bên đầu kia cuộc đời mỗi người, nào có xa xôi gì, trong chớp mắt của thời gian đã tới nơi, để bắt đầu một chuyển hóa mới, một cuộc du hành mới

Người là ai? Từ đâu tới?
và người ơi, người sẽ bước chân về nơi nao?
Người vì sao mà chớm nở?
rồi sớm tối cánh hoa tươi tơi bời theo với những lá úa?
Người là chi? là cơn gió? là giọt mưa?
là cát trắng hay bụi xanh lơ? 
Người từ xưa, thuyền theo lái về bến cũ?
Người lên xe đi từ hư vô qua hư vô?
(Xuân Hành)

Một loạt câu hỏi từ muôn đời của loài người nhưng không bao giờ cũ, vì ngày nào con người không còn biết đặt ra những câu hỏi như thế về thân phận mình thì cũng có nghĩa là đã dừng lại trên con đường hoàn thiện chính mình.

*

Chết là cái mà không ai có kinh nghiệm, nhưng không phải vì thế mà người ta hoàn toàn không thể viết gì về cái chết. Ðang sống mà “chuyển sang từ trần” là một sự bí nhiệm, từ ngàn xưa con người vẫn suy nghiệm, vẫn cảm xúc đau đớn và vẫn... thờ phượng cái chết. Ðặc biệt các tôn giáo và các tín ngưỡng lo săn sóc đến cái chết một cách kỹ lưỡng nhất, vì biết rõ đó không phải là một cái gì  có thể đối xử một cách bình thường theo cung cách cuộc sống trần thế. Trước sự chết, con người bàng hoàng và sợ hãi, phải tìm mọi cách trấn an nỗi sợ. Ðông hay Tây đều đặt ra sự tự kỷ cho mình về một cõi sau khi chết: sinh ký tử quy, sống gửi thác về, về với ông bà, về ngôi nhà Cha, về miền Cực lạc... cố dẫn dụ mình rằng cuộc sống trần thế này tuy ai cũng tưởng là quan trọng cần hết sức bám víu lấy, nhưng thực chất chỉ là cái rất phụ, chỉ là một sân khấu tạm bợ để múa may trong một thời gian thoáng qua, rồi sau đó thì “về” với cái đích thực. Lời hứa hẹn và giải thích thì rất nhiều, người ta nghe theo lời này hay lời kia, hoặc chẳng nghe lời nào cả, là tùy khuynh hướng và căn cơ của mỗi người, nhưng nhìn chung mọi tín ngưỡng đều nhằm khuyên làm tốt khi sống để được an ổn khi chết, làm như cả cuộc đời chỉ là một chuỗi dài chuẩn bị cho cái giây phút không còn cuộc đời nữa. Thế mới biết cái chết nó ám ảnh con người đến thế nào. Ám ảnh đến gần như biến thành một mục tiêu của sự sống.

Riêng Phạm Duy chấp nhận hết trong sáng tác của mình: Tình Yêu, Khổ Ðau và Cái Chết. Ðó là thái độ của một nghệ sĩ lớn, sống tận cùng từng phút giây của cuộc nhân sinh. Và, nghe như có vẻ mâu thuẫn, cũng “sống” tận cùng với phút giây không còn sự sống nữa, là lúc Cõi Chết bắt đầu.

(Phạm Xuân Đài, 2006)
Phạm Duy, 30-12-2012