Saturday, 4 October 2025

Pháp sư HUYỀN TRANG (602-664 TL)

 Pháp sư HUYỀN TRANG (602-664 TL)
(玄奘, Xuanzang, Hsuan Tsang)

Cao tăng Trung Quốc, sống vào đời Đường, người huyện Câu thị, Lạc Châu (Lạc Dương, Hà Nam ngày nay), họ Trần, tên húy là Huy, tự Huyền Trang. Có thuyết cho rằng ngài sinh năm Khai Hoàng thứ 20 (600 TL) đời Tùy.

Người anh của ngài xuất gia ở chùa Tịnh Thổ tại Lạc Châu. Thuở nhỏ, ngài đến chùa học tập kinh điển với người anh. Sau đó xin xuất gia sa-di. Tại chùa, ngài học kinh Niết Bàn và luận Đại thừa. Khoảng cuối đời Tùy đầu đời Đường, thiên hạ loạn lạc, ngài cùng với anh đi khắp nơi, tham học với các bậc tôn túc. Ngài học Nhiếp đại thừa luận, Tỳ-đàm luận, Phát trí luận. Năm Vũ Đức thứ 5 (622 TL) đời Đường, ngài thọ giới Cụ túc, rồi học về Luật. Ngài học thêm về Câu xá luận, Thành thực luận. Nhưng ngài thường than rằng các vị cao tăng giảng không giống nhau, mà xét trong các thánh điển cũng có những chỗ bất đồng, cho nên sinh ra nhiều mối ngờ vực, không biết nương vào đâu làm gốc. Vì thế ngài phát nguyện đến Thiên Trúc (Ấn Độ) tìm kiếm những kinh điển nguyên bản bằng tiếng Phạn để giải quyết các mối nghi vấn của mình, và đem về Trung Quốc để dịch sang tiếng Hán.

Vào năm Trinh Quán thứ 3 (629 TL), ngài khởi hành một mình, trải qua nhiều gian nan, nguy hiểm, đi qua các vùng Tần, Lương, Cao Xương, v.v... đến vùng phía bắc Thiên Trúc, tức là ngài vượt qua con đường phía bắc tỉnh Tân Cương ngày nay, rồi đi về phía tây, qua Turkistan, Afghanistan và tiến vào nội địa Ấn Độ, dọc đường chiêm bái các thánh tích và cuối cùng đến nước Ma Kiệt Đà, dừng lại ở Na Lan Đà Tự (Nālandā, 那蘭陀寺). Bấy giờ là năm Trinh Quán thứ 5 (631 TL).

Tại đó, ngài theo học với ngài Thi La Bạt Đà La (Śīlabhadra, 尸羅跋陀羅) tức Giới Hiền (戒賢) và các vị giáo thọ khác. Ngài học các bộ luận như Du già sư địa, Hiển dương, Bà sa, Câu xá, Thuận chính lí, Đối pháp, Nhân minh, Thanh minh, Tập lượng, Trung, Bách, v.v. rồi du hành khắp nơi trong xứ Ấn Độ để sưu tập kinh điển. Năm Trinh Quán thứ 17 (643 TL), ngài rời Ấn Độ lên đường trở về Trung Quốc.

Ngài theo con đường phía nam tỉnh Tân Cương ngày nay, qua các xứ Vu Điền, Lâu Lan, v.v. mà về nước. Cuộc hành trình của ngài, từ khi ra đi đến lúc trở về, ròng rã 17 năm, trải qua 5 vạn dặm đường. Vào tháng Giêng năm Trinh Quán thứ 19 (645 TL), ngài về tới Trường An. Vua Đường Thái Tông tổ chức đại lễ đón rước ngài, cùng với kinh, tượng, xá lợi do ngài mang về gồm vài trăm kiện, trong đó có 657 bộ kinh tiếng Phạn.

Ngài Huyền Trang lần lượt lưu trú tại các chùa Hoằng Phúc, Đại Từ Ân và cung Ngọc Hoa để thực hiện công tác phiên dịch kinh điển. Trong 19 năm, ngài dịch được 75 bộ, gồm 1.335 quyển kinh, luận. Trong đó, có những bộ kinh, luận chủ yếu như: Kinh Đại bát nhã 600 quyển, luận Du già sư địa 100 quyển, luận Đại tì bà sa 200 quyển, luận Câu xá, luận Thành duy thức, luận Nhiếp đại thừa. Ngài thông thạo cả hai ngôn ngữ Phạn và Hán nên các dịch phẩm của ngài có trình độ văn chương uyên bác và độ chính xác cao. Ngài có công lớn trong việc hình thành nhiều thuật ngữ Phật giáo trong tiếng Hán. Ngài đề xướng qui tắc phiên dịch trung thành với nguyên tác và dịch từng chữ. Qui tắc này đã trở thành chuẩn mực cho các nhà dịch kinh đời sau. Từ đó, các kinh được dịch trước thời ngài Huyền Trang gọi là Cựu dịch (dịch cũ), từ ngài Huyền Trang trở về sau gọi là Tân dịch (dịch mới).

Ngoài ra, ngài còn soạn bộ Đại Đường Tây Vực Kí 12 quyển (大唐西域記), trong đó, ngài thuật lại cuộc hành trình Tây du cầu pháp của ngài trong 17 năm, trải qua 138 quốc gia; những điều ngài thấy nghe và tìm hiểu về lịch sử, địa lý, tông giáo, văn hóa, phong thổ, sơn xuyên, sản vật, nhân tính, v.v. của những nơi mà ngài đã đi qua, đều được ghi chép rõ ràng. Bộ sách này không chỉ là một bộ du kí mà về mặt lịch sử, địa lí, văn hóa, giao thông … đều có giá trị rất lớn, vô cùng quí báu cho việc nghiên cứu về các nước Tây Vực, Ấn Độ và vùng Trung Á ở thời cổ đại. Vì thế, bộ sách được các học giả trên thế giới rất coi trọng, và được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Ngày mồng 5 tháng 2 niên hiệu Lân Đức thứ nhất (664 TL), ngài thị tịch, thọ 63 tuổi (có các thuyết nói ngài thọ 65 tuổi, thọ 69 tuổi). Nghe tin ngài tịch, vua Cao Tông nhà Đường rất đau buồn, bãi triều 3 ngày, tổ chức tang lễ theo nghi thức quốc táng. Người đời sau tôn xưng ngài là Tam Tạng Pháp Sư hoặc là Đường Tam Tạng. Ngài cũng được xem như là vị Sơ tổ của Pháp tướng tông Trung Quốc.

* Tham khảo:
1) Từ điển Phật Quang
2) Từ điển Phật học Tinh tuyển
3) Nguyễn Minh Tiến & Nguyễn Minh Hiển (2004). Mục lục Đại chánh Tân tu Đại tạng kinh.

*-----*



No comments: