Tuesday, 12 August 2014

Quỳnh Giao viết về Anh Ngọc, Sĩ Phú, và các nam ca sĩ khác


Những tiếng nhung mềm năm xưa
Quỳnh Giao


Ngay trước Tết, Quỳnh Giao gặp lại một nghệ sĩ khi ông cùng phu nhân thăm California trong vài ngày. Từ đó, mấy ngày Xuân lại thấy váng vất những tiếng hát năm xưa.

Thời xưa, giới nghệ sĩ ưa gọi ba người bạn chí thiết là "Three Caballeros," cùng có dáng cao dong dỏng và bàn tay ít khi rời ly rượu. Hai người đã ra đi là Hoài Bắc Phạm Ðình Chương và Mai Thảo. Người còn lại là Anh Ngọc. Ông có tiếng hát mà Quỳnh Giao vẫn gọi là trượng phu trong nhiều bài tạp ghi trước đây.

Sự thưởng ngoạn một giọng hát tùy thuộc vào nhiều yếu tố.

Trước hết là loại nhạc mà người nghe lựa chọn. Với opéra thì giới thưởng ngoạn ưa giọng càng mạnh càng quý, làn hơi càng dài càng đẹp. Mà khi trình bày cả một vở opéra, ca sĩ phải có giọng mạnh thì mới qua cầu được. Nhưng cũng có trường hợp mà giọng hát "mảnh mai" vẫn hấp dẫn, nếu có yếu tố nổi bật khác. José Carreras là một thí dụ.

Trong ba người gọi là "The Three Tenors," giọng ông không mạnh bằng hai đối thủ và bạn thân là Luciano Pavarotti và Placindo Domingo. Nhưng bù lại, giọng hát tình cảm và nhất là phong thái trầm tĩnh lịch sự lại là yếu tố khiến nhiều người yêu thích.

Maria Callas nổi tiếng là giọng hát của thế kỷ không nhờ hát mạnh. Giọng của bà hơi mỏng nhưng cách diễn tả điêu luyện và truyền cảm làm âm sắc giọng hát trở nên độc nhất vô nhị trong thế giới của nhạc opéra. Ðã nghe là người ta phải nhớ.

Ðó là nói về opéra. Chứ trong loại nhạc phổ thông mà mình thường nghe và Tây gọi là "les chansons de charmes" có nét trữ tình êm dịu thì sao? Ðấy là sự thưởng ngoạn tự do. Ai muốn thích ai cũng được, không có tiêu chuẩn nào đặt ra cả.

Quỳnh Giao sở dĩ gọi giọng hát của danh ca Anh Ngọc là trượng phu vì chất sang sảng, chắc nịch, đầy nam tính. Khi hợp ca, giọng Anh Ngọc bao trùm lên các giọng khác. Cùng trường phái Anh Ngọc, Pháp có Gilbert Bécaud và Mỹ có Niel Diamond. Giọng của họ mạnh, âm sắc rõ, cứng cỏi.

Cùng thời Anh Ngọc, có giọng Vũ Huyến nhẹ và thanh hơn.

Có dạo cả hai thường song ca trên các sân khấu phụ diễn tân nhạc trước giờ chiếu phim. Vì giọng yếu hơn, Vũ Huyến thường giữ bè cho Anh Ngọc. Vũ Huyến thành công với loại nhạc tình cảm nhẹ nhàng, đôi khi có chút truyện kể như bài "Cô Hàng Nước," hay hài hước như trong bài "Cái Áo The Thâm Tàn."

Bào đệ của Anh Ngọc là ca sĩ Ngọc Long thì hát không điêu luyện bằng anh, nhưng giọng êm và tình cảm của ông rất hợp với ca khúc loại Ðoàn Chuẩn và Từ Linh.

Cùng trường phái Anh Ngọc, ngày nay có Tuấn Ngọc, Quang Tuấn, giọng hát mang một sắc thái góc cạnh, người Mỹ thường dùng chữ "rough," là đầy nam tính.

Nhưng không hẳn là giọng nam phải luôn phải sắc cạnh thì mới hay và được ưa thích. Có những giọng nam thuộc trường phái êm dịu nhẹ nhàng cũng được nhiều người mến mộ, nếu chọn đúng bài hát và người nghe.

Ðiển hình là giọng Tino Rossi ẻo lả như con gái được cả một thế hệ 40-50 coi là thần tượng. Các bậc sinh thành ra thế hệ của người viết bài thời ấy ư ử bài J'attendrais... và ca ngợi chất giọng êm như nhung của Tino Rossi vô cùng tận. Vài chục năm sau, khi loại nhạc hương xa Hoa Kỳ lan đến Việt Nam thì các nhà đều đón giờ phát thanh chương trình nhạc ngoại quốc để nghe giọng ngọt như mía lùi của Bing Crosby, hay giọng mơn trớn đầy... nữ tính của Johnny Mathis.

Tại Việt Nam, vào cuối thập niên 50, các giọng Duy Trác, Ngọc Giao, Ðỗ Tuấn êm ái ru hồn sinh viên học sinh, nhất là những người vừa di cư từ Bắc vào Nam. Ðến cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 thì giọng êm nhẹ như Sĩ Phú, Jo Marcel, Anh Khoa,... chiếm nhiều cảm tình của giới yêu nhạc. Ðặc biệt nhất là giọng ca Sĩ Phú.

Sĩ Phú thành công ngày từ buổi đầu xuất hiện trên màn ảnh vô tuyến truyền hình Việt Nam. Với vóc dáng cao trong bộ quân phục, ông được khán thính giả truyền hình, nhất là phái nữ, lập tức coi là thần tượng.

Lạ một điều là giọng hát Sĩ Phú tương phản với vóc dáng của ông. Giọng Sĩ Phú nhẹ lắm, hát gần như thủ thỉ. Cái lối thủ thỉ ấy thật tuyệt khi hát những bài có nội dung kể chuyện, nhất là kể chuyện tình. Các ca khúc "Cô Láng Giềng" của Hoàng Quý, "Cô Hàng Cà Phê" của Canh Thân, được ông kể bằng giọng nhỏ nhẹ, nghe như vừa đủ bên tai một câu chuyện thật ra chẳng có gì đặc sắc, mà sao lại rất quyến rũ.

Dường như vừa kể chuyện, Sĩ Phú vừa dùng câu chuyện thổ lộ tâm tình của mình. Lập tức người nghe thấy ra mình là nhân vật của truyện, cũng được khối người trồng cây si trước nhà! Và đâm ra ngẩn ngơ cảm động.

Và khi Sĩ Phú hát "Người Yêu Tôi Khóc" của Trần Thiện Thanh, thì dù tác giả có hát lên câu chuyện thật của mình cũng không "thấm" hơn được. Cái chất giọng nhẹ nhàng, êm ấm ấy như hát thay cho những tình nhân của đời thường. Họ thấy được cái mong manh của cuộc tình, và hạnh phúc chỉ thoáng như bóng mây. Ca khúc "Còn Chút Gì Ðể Nhớ" do Phạm Duy phổ nhạc được Sĩ Phú trình bày rất đạt.

Không như phần lớn ca sĩ khi hát bài này thường trổ giọng để khoe làn hơi dài của mình, Sĩ Phú chỉ hát đủ mạnh chứ không cường điệu. Vừa đủ để nhớ, và để thương. Giọng hát mang tâm sự tiếc nuối, tình cảm có mà như e ấp, như cuộc tình chỉ mới chớm nở thôi... Phải là chất giọng nhẹ nhàng, thủ thỉ mới diễn tả được như thế, và thính giả cảm nhận được nhờ lối hát ấy.

Ðầu Xuân, gặp lại chú Anh Ngọc, người viết nhớ về những tiếng hát năm xưa với sự bồi hồi.

-ooOoo-

Friday, 1 August 2014

Quỳnh Giao viết về Hà Thanh

Hà Thanh, họa mi xứ Huế
Quỳnh Giao

*

Không hiểu vì sao từ khi có tân nhạc, đa số ca sĩ ưa phát âm theo giọng Bắc. Người viết đoán là vì giọng Bắc nhẹ nhàng lên bổng xuống trầm với năm dấu rõ ràng.

Phần lớn ca sĩ nổi tiếng của chúng ta là người miền Bắc. Từ Thái Thanh, Mộc Lan, Kim Tước, Châu Hà, Thúy Nga, Mai Hương, Anh Ngọc, Duy Trác, Sĩ Phú, đến Khánh Ly, Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Duy Quang…

Nhưng mình vẫn không quên tiếng hát của miền Nam.

Quỳnh Giao rời Huế vào Sài Gòn khi mới lên bảy. Lần đầu theo Mẹ đi xem hát thấy nghệ sĩ Trần Văn Trạch diễn bài “Tai nạn téléphone” mà cười sái hàm. Tài nghệ sáng tác và trình diễn hài hước làm ông được tôn là quái kiệt, chứ thật ra, Trần Văn Trạch là danh ca tân nhạc. Mấy bài ông trình bày rặt giọng Nam như “Dạ Khúc” của Nguyễn Mỹ Ca hay “Chiều Mưa Biên Giới” của Nguyễn Văn Ðông thì ít ai bằng. Ngoài Trần Văn Trạch, nam ca sĩ Trọng Nghĩa (thập niên 50), nữ ca sĩ Ngọc Hà hay Túy Phượng đều phát âm giọng Nam, nghe dễ thương và truyền cảm.

Mình không quên là cũng có ca sĩ người Nam khi hát thì phát âm giọng Bắc, như Hoàng Oanh, Phương Dung, Bạch Yến, Tuyết Hằng, như Elvis Phương, Trung Chỉnh…

Ngoài hai miền Nam Bắc, thành phần ca sĩ người Trung cũng rất đông.

Trong địa hạt cải lương, điều thích thú cho người viết là khi biết danh ca Ngọc Giầu là “đồng hương.” Không chỉ là người Huế mà còn thuộc hoàng phái với tên thật là Tôn Nữ Ngọc Giầu. Vậy mà bà hát vọng cổ mùi tận mạng nên ít ai ngờ bà là thuộc diện “Huế mình” như người ở cố đô vẫn nói với nhau.

Làng tân nhạc từ phôi thai đã có người miền Trung như Minh Trang, Châu Kỳ, Tôn Thất Niệm, Hương Thủy, Thanh Nhạn. Ðợt trẻ hơn thì có Thanh Thúy, Duy Khánh (người Quảng Trị), Nhật Trường (người Phan Thiết), cặp Lê Uyên Phương (người Huế sống ở Ðà Lạt), Hồng Vân trong ban tam ca Ðông Phương, sau này còn Phương Nga, Anh Dũng, Trần Thái Hòa… Con số rất đông mà người viết không ghi hết được.

Hà Thanh hát nhạc Trịnh Công Sơn ngay từ đầu, tại Huế.

Vậy mà chỉ có một người được xứ Huế coi như chim họa mi của mình. Ðó là Hà Thanh. Nổi tiếng như Thanh Thúy cũng không được Huế dành lấy cho riêng mình.

Trong ba miền, người Huế quả là nặng tính địa phương hơn cả. Các trường học trung học của ba miền đều có hội hè hàng năm, như Chu Văn An, Petrus Ký, Trưng Vương, Gia Long, Nguyễn Bá Tòng, Quốc Học, Ðồng Khánh, v.v… Chỉ Huế là có “Ngày Nhớ Huế” hay “Ngày Hoàng Tộc.”

Hai miền kia không có “Ngày Sài Gòn” hay là “Ngày Nhớ Hà Nội”…

Mà Hà Thanh có được Huế cưng quý như vậy cũng có lý! Trước hết là giọng ca thiên phú, trong trẻo cao vút. Ðây là một trong vài giọng soprano hiếm có của Việt Nam. Hà Thanh hát dễ dàng như hơi thở. Khi lên cao, giọng lồng lộng, thoải mái cho ta cảm tưởng chiếc diều phơi phới trên nền trời xanh ngắt.

Vì sao lại sánh với cánh diều? Chính vì chất giọng trong trẻo nhẹ nhàng làm mình liên tưởng đến trời xanh và nắng ấm.

Vì trình độ thưởng ngoạn, nhiều người cứ khen làn hơi rất mạnh. Không thiếu gì ca sĩ thời nay hay khoe làn hơi “mạnh” vì thấy hát trổ giọng lại càng được vỗ tay và huýt sáo vang lừng! Trong nghệ thuật thì khác, hát nhẹ và êm mà vẫn rõ lời mới là điều khó. Khi hát nhẹ, ca sĩ phải “kìm” làn hơi để phả từ từ, nhẹ nhàng mà vẫn đều đặn. Khó nhất là lúc ngân cho câu nhạc nhỏ dần, đến khi chỉ bằng sợi tơ mong manh mà không đứt, không tắt…

Hà Thanh hát như vậy, từng được các nhạc sĩ sáng tác trân quý và yêu cầu chị hát những tác phẩm tim óc của họ.

Nguyễn Văn Ðông để mắt xanh đến Hà Thanh ngay lần đầu được nghe chị từ Huế vào Sài Gòn thăm người em gái, đến phòng thu của hãng đĩa hát thử. Quả là nhạc của ông đã được giọng hát Hà Thanh chắp cánh bay cao. Trịnh Công Sơn khi còn ở Huế đã đưa những ca khúc chưa ráo mực đến nhờ chị hát, và Hà Thanh đưa “Nắng Thủy Tinh”, “Lời Mẹ Ru” hay “Nhìn Những Mùa Thu Ði” vang vọng đất Thần Kinh. Dương Thiệu Tước cũng thích và Hoàng Trọng cũng mến Hà Thanh, Tuấn Khanh thì “mê” giọng hát này nhất.

Nhưng thính giả ở Huế quá ít, phải đợi khi vào Sài Gòn thì Hà Thanh mới có đất dụng võ…

Ngoài cái nết, người viết rất ái mộ giọng của Hà Thanh, nên hơi tiếc là tiếng hát tuyệt vời này bị hãm trong cõi Huế như họa mi ở trong lồng. Ít người biết là khi ở Huế, Hà Thanh hát “Dòng Sông Xanh” còn tuyệt hơn Thái Thanh. Ca khúc được trình bày với “ton” nguyên thủy viết cho giọng soprano là Ré Trưởng. Lên nốt cao nhất là nốt La ngoài dòng kẻ.

Trong nghệ thuật hát nhạc cổ điển, nốt “high C” (nốt Do trên hai dòng kẻ) được coi là cao nhất, khó nhất. Pavarotti có lần than là trong một vở opéra, ông phải hát nốt high C đến năm lần mệt nghỉ. Nốt La chỉ thấp hơn High C hai bậc mà thôi.

Vì thính giả chỉ thích những bài đậm sắc địa phương, tiếng hát Hà Thanh không có cơ hội bay xa hơn, vươn rộng hơn nữa…

(Tạp ghi Quỳnh Giao)

* * *
Ca sĩ Hà Thanh (1937-2014)