Saturday 9 February 2013

Phỏng vấn Phạm Duy (2009)

Phỏng vấn Phạm Duy (2009)
Đoan Trang - Nguyễn Hoàng Linh (thực hiện)

*
(1)

 Phạm Duy nói về âm nhạc VN ngày ấy, bây giờ…

Vì lý do thời cuộc, đại đa số người yêu nhạc trong nước cho dù có biết đến cái tên Phạm Duy, có nghe một số nhạc phẩm của ông, nhưng không nhiều người có dịp theo dõi một cách hệ thống toàn bộ cả sự nghiệp âm nhạc đồ sộ và phong phú của ông, từ thời khởi đầu tân nhạc cho đến khi người nghệ sĩ tóc đã bạc như cước muốn đi đến tận cùng chặng cuối của đời mình bằng Minh họa Kiều.

Chương trình giới thiệu Kiều ca do tạp chí Xưa và Nay (Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) và Hiệp hội UNESCO Hà Nội tổ chức vào ngày 2/1 vừa qua là lần xuất hiện trước công chúng mới nhất của Phạm Duy. Đồng thời, đây cũng là lần đầu tiên Phạm Duy xuất hiện chính thức trước khán thính giả Hà thành, sau 46 năm xa cách.

Sinh năm 1921, Phạm Duy đã ở cái ngưỡng tuổi mà mỗi lần biểu diễn đều có thể không hứa hẹn lần tiếp sau. Và Minh họa Kiều cũng được người nghệ sĩ một đời “rong ca” này xem như nỗ lực cuối cùng trong sự nghiệp của mình.

Sau vài ngày ở Hà Nội, Phạm Duy lại vội vã lên máy bay trở về Sài Gòn nắng ấm - sức khỏe không cho phép ông lưu lại thủ đô lâu trong cái lạnh u ám cuối đông.

Về Sài Gòn, ông ở trong căn hộ riêng tại Quận 11 với con trai Duy Cường và con dâu, hàng ngày ông vẫn đọc báo, xem tivi (các kênh nước ngoài), vào mạng, và đêm đêm thức rất khuya sáng tác. Những sáng tác chưa biết đến bao giờ mới có dịp đến với công chúng.

Ông bảo: “Phương Nam (tức Công ty Văn hóa Phương Nam) vẫn xin phép đấy, nhưng mỗi năm chỉ có thêm vài bài hát của tôi được phép lưu hành thôi”. Con số quá nhỏ bé so với sự nghiệp hơn 1.200 ca khúc của Phạm Duy - một trong những nhạc sĩ có mặt từ thuở tân nhạc Việt Nam còn phôi thai.

Để hiểu ý nghĩa của sự ra đời tân nhạc (hay còn gọi là “nhạc cải cách”), chúng ta hãy biết rằng trước khi tân nhạc hình thành, Việt Nam mới chỉ có nhạc cổ truyền dân tộc và nhạc “Tây”. Từ những ca khúc lời Việt, nhạc “Tây”, nhờ sự tìm tòi mở đường của các nhạc sĩ trụ cột thời ấy như Đặng Thế Phong, Thẩm Oánh, Lê Thương, Dương Thiệu Tước, Dzoãn Mẫn, Văn Cao, Phạm Duy…, tân nhạc đã tiến triển để chúng ta có nền âm nhạc Việt Nam như ngày nay.

“Ngày đó âm nhạc Việt Nam…”


* Người Việt Nam bây giờ bất kỳ ai và vào bất kỳ lúc nào đều có thể hát, hoặc nghe hát một ca khúc tiếng Việt nào đó - nhạc trẻ, nhạc đỏ, nhạc trữ tình, thậm chí nhạc thiếu nhi. Vậy, khi tân nhạc Việt Nam còn chưa hình thành, thì không khí âm nhạc của đất nước ra sao, ông có thể chia sẻ một vài hồi ức? 
 
-- Cho đến những năm 30 của thế kỷ trước, người Việt vẫn chưa… hát được, theo nghĩa là không có ca khúc tiếng Việt nào phổ thông và không biết đến việc nghe hay xem biểu diễn ca nhạc. Thời ấy người ta chỉ có thể đi xem hát chèo, ả đào, cải lương v.v.

Muốn hát thì phải ghép lời vào các làn điệu dân ca và nhạc cổ truyền đó, làm thành các “bài hát theo điệu cổ”. Bên cạnh đó, để thỏa mãn nhu cầu “được hát”, một số người đã chế lời Việt vào cho các bài hát của Pháp, Mỹ, Ý, làm thành “bài ta theo điệu Tây”.

Các ca khúc của phương Tây, đặt lời Việt, chẳng hạn C’est À Capri (Cánh bướm vườn xuân), Guitare D’amour (Cây đàn tình yêu), Goodbye Hawaii (Từ biệt người yêu)…, thời đó rất thịnh hành, và càng được thanh niên ưa thích thì càng làm mạnh mẽ thêm nhu cầu có thứ ngữ nhạc của riêng mình. Nhiều người bắt đầu mày mò học nhạc lý, tập chơi nhạc cụ, và viết ra những “đoản khúc” đầu tiên, nhưng dĩ nhiên là họ chưa dám công bố.

Hai bài hát “nhạc Việt lời Việt” đầu tiên được đưa ra biểu diễn trước công chúng, theo tôi, ra đời năm 1938. Đó là bài Bông cúc vàng và Một kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, phổ thơ Nguyễn Quý Anh và Nguyễn Văn Cổn. Hai bài còn được đăng tải trên tờ Ngày nay - tuần báo có thế lực nhất thời gian này - của Tự lực Văn đoàn, tháng 8/1938. Sau đó thì đã có cả một phong trào sáng tác và biểu diễn “nhạc cải cách”. Tân nhạc Việt Nam hình thành như thế.

* Có thể coi tân nhạc Việt Nam mở đầu bằng những ca khúc nào?

-- Rất nhiều ca khúc. Những sáng tác thành công và có sức sống tới tận bây giờ thì có thể kể tới: Tâm hồn anh tìm em (Dương Thiệu Tước), Bản đàn xuân (Lê Thương), Bóng ai qua thềm (Văn Chung), Biệt ly (Dzoãn Mẫn), Cô láng giềng (Hoàng Quý), Thu cô liêu, Buồn tàn thu, Cung đàn xưa (Văn Cao), Con thuyền không bến, Giọt mưa thu (Đặng Thế Phong), Xuân và tuổi trẻ (La Hối), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc) v.v. [**]
[**] Nhạc sĩ Phạm Duy cũng góp phần vào nền tân nhạc thời kỳ đầu với ca khúc đầu tay là Cô hái mơ, sáng tác năm 1942, phổ thơ Nguyễn Bính.

* Đặc điểm của âm nhạc Việt Nam, nói chính xác hơn là tân nhạc Việt Nam, thời ấy, theo ông, như thế nào?

-- Thời đó nổi lên hai xu hướng sáng tác: nhạc hùng và nhạc tình. Nhạc hùng là những ca khúc vui vẻ, xoay quanh chủ đề niềm vui sống và lòng ái quốc, như Sáng rừng của Đặng Thế Phong, Anh em khá cầm tayGò Đống Đa của Văn Cao.

Nhạc tình là nhạc lãng mạn. Chúng tôi sáng tác, về nhạc thì đều chịu ảnh hưởng nhạc cổ điển hoặc tân kỳ phương Tây, về phần lời thì thường có một số mô típ chung như: mùa thu, mùa đông, lá vàng, hoa tàn, nỗi sầu bi hay cô đơn… Ví dụ Thu cô liêu (Văn Cao), hay Biệt ly (Dzoãn Mẫn). Hai bài ca cải cách đầu tiên - Bông cúc vàng, Một kiếp hoa - cũng đều chứa đựng tâm trạng u sầu, “hoa tan tác, lòng ta tan tác”…

* Ông có thể mô tả “lược sử” của sự phát triển tân nhạc sau này?

-- Tân nhạc Việt Nam đã manh nha hình thành từ trước khi Nguyễn Văn Tuyên công bố hai bài hát Bông cúc vàngMột kiếp hoa (năm 1938). Nó chính thức lớn mạnh thành một phong trào kể từ đó và đã để lại nhiều ca khúc kinh điển, có sức ám ảnh lay động con tim, như bộ ba ca khúc thu nổi tiếng của Đặng Thế Phong, hay những bản nhạc tuyệt đẹp của Văn Cao.

Khi cách mạng về, rồi kháng chiến bùng nổ, văn nghệ sĩ đi theo cách mạng và đã có rất nhiều ca khúc phản ánh một thời kỳ hào hùng - cả nước lên đường, cả nước đi chiến đấu vì nền độc lập tự do. Tiếc thay, càng về sau, âm nhạc càng trở thành nạn nhân của thời cuộc: chiến tranh, mâu thuẫn chính trị, lòng người chia rẽ…

Tóm lại, đó là một thời loạn lạc. Chúng ta đã không có một khoảng thời gian yên bình để nghe và yêu nhạc, trong khi âm nhạc rất cần điều đó.

Ngày 28/4/1975, tôi sang Mỹ. Qua đó định cư, tôi vẫn theo dõi tình hình âm nhạc nước nhà và biết là có một thế hệ nhạc sĩ tài năng, một số nhạc sĩ như Trần Tiến, Nguyễn Cường đã dụng công kết hợp chất liệu dân tộc vào âm nhạc của mình để cho ra nhiều ca khúc được ưa thích.

Còn với nền âm nhạc Việt Nam hiện nay, tôi không muốn lạm bàn, vì tôi mới về định cư ở Việt Nam từ năm 2005, cũng ít nghe nhạc trẻ Việt bây giờ. Nhưng có thấy báo chí phàn nàn về nhiều bài mà cả giai điệu và ca từ đều lẩm cẩm.

Tính dân tộc như một bí quyết để sáng tác

* Sự hòa quyện giữa tính dân tộc và tính hiện đại là điều dễ nhận ra trong đa số các ca khúc của ông. Điều đó hình thành một cách tự nhiên?

-- Tôi là người Hà Nội, sinh ra ở phố Hàng Dầu gần Hồ Gươm, nhưng từ năm lên 9-10 tuổi, tôi đã hay có dịp về thôn quê sống với gia đình một người vú nuôi.

Thời gian gắn bó với nông thôn khá nhiều, ngoài ra cũng có thể do có khiếu “hay nghe hay nhớ”, nên tôi tiếp thu dân ca, nhạc cổ truyền Việt Nam và đặc biệt là thấm cái “hồn dân tộc” rất nhanh. Có lẽ vì thế mà trong khi các nhạc sĩ trẻ tuổi cùng thời dễ bị hấp dẫn bởi sự hoành tráng của âm nhạc phương Tây cổ điển và hiện đại, thì tôi dễ dàng chọn ở lại cùng dân ca hơn.

Nếu không có tình cảm đối với đồng quê Việt, chưa chắc tôi đã dựng nên được trong ca khúc của mình những hình ảnh “như gió thu sau tháng hè thổi về ruộng nâu lúa tươi xanh rì” (Người về), hay “cô nàng gánh lúa cho anh ra đi diệt thù” (Nhớ người thương binh). Tôi gọi bài Nhớ người thương binh, sáng tác năm 1947, là Dân ca mới. Đó là thành công đầu tiên của tôi trong việc thử nghiệm soạn nhạc, lấy tứ từ dân ca và cảm hứng từ đời sống người dân.

Càng theo kháng chiến, chứng kiến cuộc sống, lòng tự hào dân tộc và yêu nước của toàn dân, tôi càng quyết tâm đi theo con đường dân ca mới thay vì nhạc cổ điển hay hiện đại của phương Tây.

* Nhạc dân tộc có ý nghĩa như thế nào đối với ông?

-- Một trong những lý do khiến tôi duy trì được sức sáng tác là nhờ có vốn âm nhạc cổ truyền. 22 tuổi, tôi bước vào đời, tham gia một gánh hát rong. Có thể nói tôi xuất thân là thằng đi hát rong, hát nhạc cổ truyền để kiếm sống. Âm nhạc dân tộc đã nhập vào tôi từ hồi nhỏ.

Theo tôi, không nhạc sĩ nào thành công trong ý muốn tạo một cái gì đó đúng với ngôn ngữ dân tộc và thời đại mà lại bỏ qua các giá trị của âm nhạc dân tộc. Tôi muốn khẳng định là chẳng thể nào trở thành nhạc sĩ của dân tộc nếu thiếu cái vốn về âm nhạc dân tộc.

* * *
 
(2)
  
Phạm Duy: “Đời nghệ sĩ là khóc cười cùng vận mệnh dân tộc”

(TuanVietNam) - Phạm Duy đã đưa ra nhiều chia sẻ thú vị về sự nghiệp âm nhạc của ông, cũng như của người bạn thân thiết - cố nhạc sĩ Văn Cao. Nhưng, với sự thận trọng vốn có ở một nghệ sĩ từng trải, ông tránh đề cập trực tiếp tới những khía cạnh bất cập của nền âm nhạc Việt Nam hiện nay…

*
* Giáo sư Trần Văn Khê từng nhận xét: “Âm nhạc Việt Nam rất tinh vi, nó là âm thanh động mà mở, không phải tĩnh mà đóng… Nghe nhạc không phải nhìn thấy đá trong vách mà là nhìn thấy một bức họa, bức thêu…”. Bản thân ông cũng nói rằng dân ca và nhạc cổ truyền là cái vốn cho mỗi người nghệ sĩ, là tiếng lòng của dân tộc, nơi thể hiện sâu sắc hồn dân tộc.

Trong khi đó, chúng tôi thấy ngay vào ngày Tết cổ truyền của dân tộc, người dân (qua truyền hình) vẫn nghe nhạc trẻ, nhạc quốc tế, sang trọng lắm thì nghe nhạc cổ điển phương Tây, những bản dễ nghe như Radetzky March (Strauss), Concerto Mùa xuân (Vivaldi)…

Nếu thật cổ nhạc Việt Nam có giá trị đến thế, vì sao số đông công chúng vẫn quay lưng với nó?

-- Tôi nghĩ không một nền nhạc cổ truyền nào có thể tồn tại nếu không có sự cải cách liên tục. Bản thân dân ca và nhạc cổ truyền của Việt Nam, nếu không cải cách, sẽ vẫn ở yên vị trí “nguyên bản” của nó, không chết nhưng cũng không phát triển thêm nữa.

Tôi không quan niệm nặng nề về việc cải cách dân ca, tôi cho đó là xu hướng tất yếu để âm nhạc phát triển. Xin được nói hơi nặng lời, rằng chỉ kẻ ngốc mới thần thánh hóa cái cổ mà cho rằng mọi sự cải cách là phản bội, phá hoại.

Việc truyền hình phổ cập nhạc trẻ, nhạc phương Tây hiện đại, nhạc thính phòng - giao hưởng cũng có lý của họ, vì truyền hình là thương mại, là dành cho quảng đại quần chúng.

* Tân nhạc Việt Nam không thiếu những nhạc sĩ có dụng ý đưa âm hưởng dân ca vào nhạc của mình. Thế hệ đi trước ông như Nguyễn Xuân Khoát, hay cùng thời ông như Đỗ Nhuận (miền Bắc), hoặc Hoàng Thi Thơ... (miền Nam) đều am tường dân ca. Nhưng ông vẫn được đánh giá là người đưa “hồn Việt Nam” vào ca khúc nhiều nhất và dài hơi nhất. Vì sao vậy?

-- Không phải tự khen, nhưng tôi rất chịu khó học. Từ khi còn nhỏ xíu tôi đã mầy mò tập chơi nhạc cụ. Tuổi thanh niên, đi theo gánh hát rong từ Bắc vào Nam, tôi luôn để tâm nghiên cứu những làn điệu của nhạc cổ ở từng địa phương, tìm hiểu nét đặc trưng trong nội dung và hình thức âm nhạc của từng vùng miền, để từ đó phát triển lên. Quan họ, chèo, ả đào, hò Huế, nhạc Chàm, tuồng, cải lương, vọng cổ… nhiều lắm, phong phú lắm.

Tôi còn tạo được cho mình một cái vốn khác. Tôi từng có cơ hội du học tự túc tại Pháp, quãng năm 1954-1955. Tôi tìm hiểu rất kỹ lịch sử âm nhạc thế giới, quá trình âm nhạc Âu châu “cải cách” từ cổ điển lên hiện đại, sự xuất hiện của các trường phái âm nhạc… Đó cũng là vốn kiến thức quý mà nếu thiếu thì không thể có ý thức chọn lựa một đường đi cho riêng mình.

Nói một cách ngắn gọn thì âm nhạc cổ truyền giúp tôi khi sáng tác nhạc đơn điệu, âm nhạc phương Tây giúp tôi làm nhạc đa điệu.

* Và rồi đến các nhạc sĩ Nguyễn Cường, Trần Tiến, trẻ hơn thì có Nguyễn Vĩnh Tiến, Lê Minh Sơn đưa âm hưởng dân tộc vào ca khúc. Ông thấy cách làm của họ thế nào?

-- Đó cũng là một cách áp dụng dân ca vào tân nhạc. Làm mới dân ca thì cũng có nhiều hình thức mà.

* Nhạc Phạm Duy bây giờ có bị lãng quên không, theo ông?

-- Như tôi đã nói, âm nhạc, cũng như mọi bộ môn nghệ thuật khác, cần phải có một thời bình để được thưởng thức. Ở Việt Nam không có, thành thử đó cũng là một thiệt thòi cho tôi. Nhiều bài hát tôi làm cách đây 50-60 năm, bây giờ chưa được phổ biến. Công ty Phương Nam vẫn xin phép đấy nhưng mỗi năm cũng chỉ thêm vài bài được lưu hành.

Dù sao đó cũng là một nỗi buồn cho tôi, có người nghệ sĩ nào sáng tác mà lại không muốn đứa con tinh thần của mình đến với công chúng?

* Giả sử như được công nhận và lưu hành, thì theo ông, nhạc Phạm Duy sẽ thu hút người nghe tới mức nào?

-- Tôi không biết, cái đó phải hỏi người nghe chứ (cười). Trước hết, cứ nghe nhạc tôi đi đã!

Nhưng tôi rất mừng là trong cả cuộc đời, tôi luôn có những ca sĩ hát nhạc tôi rất hay. Khi trước, có cô Thái Thanh, em vợ tôi. Sau này có thêm các con tôi: Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo… cùng một số ca sĩ khác như Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Khánh Ly. Đến giờ, khi tôi trở về Việt Nam, tiếp tục có những ca sĩ trẻ tuổi nhưng hát nhạc Phạm Duy thật là ngọt, như Đức Tuấn, Mỹ Linh, Quang Linh... Tôi rất cảm ơn họ.

* Nhắc đến Phạm Duy, không thể không nhớ tới Văn Cao. Hai ông đến giờ vẫn được coi như hai đại thụ trong làng âm nhạc Việt Nam xưa nay. Ông có thể nói gì về người bạn thân thiết của mình - cố nhạc sĩ Văn Cao - con người và sự nghiệp?

-- Tôi không dám dùng từ “đánh giá” đối với sự nghiệp của Văn Cao. Đó là một nghệ sĩ tài năng, tài hơn tôi nhiều, về đủ phương diện nhạc, họa, thơ. Tiếc thay vì hoàn cảnh, Văn Cao sáng tác không nhiều, trên dưới 20 ca khúc.

Nhưng, giả sử Văn Cao vẫn sáng tác, thì bây giờ liệu các ca khúc hệt như Trương Chi, Thiên thai, Suối mơ ngày xưa có còn ai nghe? Tôi nghĩ là không, vì không có sự đổi mới; mà NGHỆ THUẬT, NGHỆ SĨ LÀ PHẢI ĐỔI MỚI KHÔNG NGỪNG!

Con người Văn Cao hiền lành lắm, đứng đắn lắm chứ không như tôi về khoản tình ái (cười). Các sáng tác của ông ấy có viết về giai nhân thì cũng là những bóng hình giai nhân trong mơ thôi, tưởng tượng ra mà viết. Đúng là anh Trương Chi.

Nhưng đó là những nàng thiếu nữ tuyệt đẹp, phải không? Lộng lẫy, kiêu sa với “gót hài khai hoa”, “mắt huyền lưu xuân”, “dáng hồng thơm hương” (Cung đàn xưa).

* Ông có thể cho biết ngắn gọn, trên phương diện nhạc học, vì sao nhạc Văn Cao được coi là những tác phẩm kinh điển của âm nhạc Việt Nam?

-- Tôi muốn phân tích một số ca khúc Văn Cao, giờ đã trở thành kinh điển: Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Suối mơ, Bến xuân...

Thời kỳ tân nhạc còn chập chững (quãng năm 1938 trở đi), chúng tôi - những chàng thanh niên mới lọ mọ tự soạn ca khúc Việt Nam (như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Hoàng Quý …) thường dùng một âm giai minor hơi giống như âm giai của điệu Sa mạc (re fa sol la do re), tức là đều có chung một hơi hướng Việt Nam và một phong cách buồn bã như nhau.

Duy chỉ có Văn Cao là muốn thay đổi phong cách, cho nên sau Buồn tàn thu thì ông buông cái Re minor ra và dùng những âm giai major để diễn tả cái buồn. Không còn là ngũ cung Re minor nữa, nhạc điệu trong Thu cô liêu, Cung đàn xưa là nhạc chủ thể Tây phương với những áp âm làm cho nét nhạc có nhiều cảm tính.

Sau đó, trong hai bài nhạc tình về mùa thu và mùa xuân là Suối mơBến xuân, bao giờ nét nhạc minor mở đầu cũng rất lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc major ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Ca từ cực đẹp, khiến hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy một chút hạnh phúc.

Trong kháng chiến, Trường ca sông Lô của Văn Cao là bài trường ca đầu tiên của chúng ta, là một tuyệt phẩm mà những người đi sau Văn Cao, như tôi chẳng hạn, đã học hỏi được rất nhiều ở ông để tiếp tục làm giàu cho âm nhạc Việt Nam.

* Hiện nay nhạc trẻ Việt Nam đang bị kêu ca là xuống chất lượng, dễ dãi… Có nhạc sĩ lý giải nguyên nhân, nói rằng cả nền âm nhạc thế giới đều bế tắc chứ riêng gì Việt Nam. Nói một cách ngắn gọn thì thế này: Phương tiện biểu đạt của âm nhạc quá hẹp so với các hình thức nghệ thuật khác, quanh đi quẩn lại chỉ có từng ấy nốt nhạc. Rất khó đổi mới. Ông nghĩ sao về điều đó?

-- Vậy à? Bản thân tôi thì không thấy bế tắc. Âm nhạc là sự phản ánh cuộc sống. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, nghĩa là vẫn còn tồn tại âm nhạc. Âm nhạc phản ánh cái đẹp của cuộc sống thì nó hay, phản ánh cái dở, cái tệ thì nó thành dở, thành tệ. Có lẽ bởi quan niệm của tôi rất đơn giản: Người nghệ sĩ là PHẢI KHÓC CƯỜI CÙNG VẬN MỆNH DÂN TỘC.

Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng với sự trợ lực của kinh tế phát triển, văn hóa nghệ thuật, trong đó có âm nhạc, của phương Tây đang rất có ảnh hưởng ở nhiều nước trên thế giới. Một nước đi sau về kinh tế như Việt Nam càng dễ bị ảnh hưởng.

Tôi biết có những loại nhạc rẻ tiền, và nền âm nhạc Việt Nam đang phát triển hơi lệch lạc, nghĩa là những thứ hạ cấp nhiều khi lại được tôn vinh. Trong tình hình đó, chúng ta cần có thái độ và hành động thích hợp. Nhạc sĩ cần phát triển những sáng tác phản ánh cái đẹp của cuộc sống. Các cơ quan có trách nhiệm về văn hóa phải tìm cách nâng cao trình độ thẩm mỹ, thẩm âm của công chúng.

* Nói vậy thì ông có lời khuyên gì cho các nhạc sĩ bây giờ?

-- Phải học, học không ngừng nghỉ! Như tôi đã nói, tôi may mắn là vừa tiếp thu được vốn âm nhạc cổ truyền của dân tộc, vừa có cơ hội du học và tiếp xúc với các nền âm nhạc trên thế giới để làm giàu kiến thức.

Đến giờ, tôi vẫn học. Tôi là một ông già “hi-tech” (cười). Tôi sử dụng máy vi tính, vào mạng, ghi âm, thu đĩa… thành thạo. Ngay từ khi Việt Nam còn chưa có khái niệm về font chữ cho máy tính, tôi đã tự tạo ra một font tiếng Việt để dùng riêng. Khi còn rất ít người Việt được tiếp xúc với máy vi tính, tôi đã sáng tác trên máy và tận dụng được nhiều tiện ích của nó. Tôi là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên ra đĩa CD-ROM nhạc của mình, với đĩa CD Con đường cái quan.

Người nhạc sĩ Việt nếu coi thường âm nhạc cổ truyền của dân tộc thì mọi sáng tác của anh ta sẽ chỉ là bắt chước “Tây”. Nhưng nếu “đóng cửa” thì cũng không ổn, phải liên tục cập nhật và tiếp cận được với cái mới, chẳng hạn như những dòng nhạc Rap, New Wave…

* Ngần ấy năm cống hiến cho tân nhạc Việt Nam, nhạc sĩ có tâm nguyện gì khi sắp ở ngưỡng 90?

-- Xong được buổi giới thiệu Kiều ca trước các đại diện của giới trí thức, văn nghệ sĩ Hà thành, tôi như trút được một món nợ, và cảm thấy mãn nguyện. Tuy nhiên, tôi rất ước ao được sự hỗ trợ của các tổ chức, cơ quan chức trách, để có thể giới thiệu rộng rãi các CD Kiều ca cho các cháu học sinh trong nhà trường, như một cố gắng nhỏ nhoi trước văn tài của thi hào vĩ đại Nguyễn Du.

Tôi cũng còn một mong muốn thầm kín nữa, là có dịp giới thiệu Hàn Mạc Tử ca nhân kỷ niệm ngày sinh của nhà thơ, có ai giúp đỡ được tôi không?

Khởi sự đời mình bằng dân ca kháng chiến, kết thúc đời mình bằng việc xưng tụng tác phẩm muôn đời của nền thi ca dân tộc là Truyện Kiều, chân lý của tôi là: Dù thế này hay thế nọ, dù ở trong nước hay ở nước ngoài, dù được ca ngợi hay chỉ trích, dù được yêu mến hay bị nguyền rủa…, tôi chỉ muốn làm một nhạc sĩ Việt Nam!

Nguyễn Hoàng Linh - Đoan Trang thực hiện
(http://tuanvietnam.vietnamnet.vn , 28-01-2009)
-ooOoo-
 

Wednesday 6 February 2013

Nguyễn Đức Quang nói về Phạm Duy (2005)

Nói Chuyện Với Nguyễn Đức Quang

(Viet Weekly, 2005 -
http://ducavn.nl/duca_files/VanNghe_files/PhongVanDuCa/NDQuang3.htm
)


LTS: Nhạc sĩ Phạm Duy đang thu xếp hành trang (sức khỏe, đời sống) để về Việt Nam ở luôn. Việc quyết định sống những ngày tháng còn lại tại quê hương của cây đại thụ âm nhạc Việt Nam đang là một đề tài gây sôi nổi ở trong lẫn ngoài nước. Báo chí trong nước, tờ Công An có tổng hợp nhiều thông tin của báo chí hải ngoại, cho rằng Phạm Duy bị xúc phạm v.v. Ở ngoài nước, khoảng trên 10 tờ báo, nhiều làn sóng phát thanh cả ngày lẫn đêm mạt sát nhạc sĩ Phạm Duy. Trong tình hình đó, một tiếng nói khác, nhận định khác về chuyện đi, ở của Phạm Duy được cất lên. Đó là tiếng nói của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, mời quí độc giả theo dõi bài nói chuyện của Việt Weekly với người nhạc sĩ du ca này.
*

(ETCETERA ghi)

Etcetera: Thưa nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, ông là người có may cơ hội gặp được nhạc sĩ những năm đầu khi sáng tác (thập niên 60-70), xin ông cho biết một vài nhận xét về NS Phạm Duy?

Nguyễn Đức Quang: Tôi là người may mắn có được một thời gian sinh hoạt với anh Phạm Duy trong lãnh vực âm nhạc. Phải công nhận rằng, lúc đó, những ý tưởng của anh rất là đáng kể. Trong khi những người nhạc sĩ khác làm nghệ thuật, đôi khi anh Phạm Duy mang được nghệ thuật âm nhạc của anh vào đời sống. Trong thời điểm những năm 60, tôi gặp anh, hai ý tưởng gặp nhau, đã giúp cho tôi, kích thích cho tôi đẩy mạnh sáng tác của mình, làm cho những ca khúc có tính cách dấn thân trong lúc bấy giờ. Thành ra, liên hệ giữa tôi và anh rất chặt chẽ vào thời gian 65, 66, 67, chúng tôi rất gần gũi với nhau.

ETC: Đối với người thưởng ngoạn, theo ông, âm nhạc của NS Phạm Duy có ảnh hưởng như thế nào?

NĐQ: Tôi cho rằng anh Phạm Duy đã đi những bước rất lớn, kể cả hai khía cạnh nghệ thuật và phục vụ. Đó là điều mà không ai có thể chối cãi được. Chúng ta không đối chiếu anh với những người cùng thời. Phạm Duy ở trong tình trạng rất là đặc biệt vì khi anh dấn thân vào nghệ thuật, anh đã đi từ A tới Z, anh đã bỏ tất cả, anh dùng tất cả đời sống của anh để cho ra tác phẩm. Chúng ta cám ơn anh ở chỗ, gia tài tác phẩm của anh quá đồ sộ, không dễ gì có một người nào có thể xây dựng một kho tàng lớn lao như vậy. Anh đã vạch ra hẳn một trường phái nhạc, nếu so về nhạc không, tính cách lớn lao đó, rất ít một nhạc sĩ nào có thể tạo dựng riêng cho mình riêng một trường phái như vậy. Khi nhắc đến Phạm Duy, ta thấy anh viết bao nhiêu khía cạnh, bao nhiêu thể loại, tất cả đều ở vào một mức đồ sộ. Chúng ta chỉ có thể biết được rằng, điều mà anh đã mang đến cho chúng ta, tất cả những người đã sống qua ở thập niên 40, 50 và cho đến nay, gần 60 năm trời, Phạm Duy là một điều gì đó, rất là lớn lao.

ETC: Khi nói tới Phạm Duy, và ngay vào thời điểm này, mặc dù ở tuổi 86, ông lại rơi vào một cuộc tranh luận khá gay gắt cho việt đi về Việt Nam và ở lại luôn. Theo ông, có phải chăng Phạm Duy là người luôn luôn của thời cuộc, gắn liền với thời cuộc?

NĐQ: Anh Duy có hai ba khía cạnh chúng ta có thể vạch ra được. Thứ nhất, giữa âm nhạc và cuộc đời của anh, con người của anh, chúng ta thấy, nó có những nét giữa đẹp và xấu, rất là rõ ràng. Thành ra, ai mà nói đến con người của anh, đều cảm thấy khó chịu, đó là một cái nhìn hết sức bình thường, vì anh ấy sống nhiều quá. Anh ấy sống nhiều cái nếp bất thường quá, người ta nói anh ấy thích tiền, thích phụ nữ, thích nhiều thứ, anh rất phong phú trong những thứ đó. Anh đã từng gây ra rất nhiều chuyện để cho những người khác phiền. Chính vì những điều đó, nên mỗi khi người ta nhắc đến Phạm Duy, người ta trộn lẫn hai thứ, con người và nghệ thuật với nhau, và người ta dễ có điều chê trách anh, phiền bực anh, nặng nề hơn là người ta phủ nhận Phạm Duy. Nhưng tôi cho rằng là, mình đồng ý với nhau về phê phán con người riêng và phê phán sáng tác của anh, để anh có hai chỗ riêng biệt. Tôi nghĩ như vậy sẽ đàng hoàng hơn, để cho chúng ta không đi đến một kết luận quá đáng về anh ấy.

ETC: Bùi Bích Hà nói rằng Phạm Duy là một người ngoại khổ, ông có nhận xét gì về nhận định này?

NĐQ: Thế nào thì thế tôi có cách riêng của tôi khi nhận xét về anh Phạm Duy. Tôi có cách nhận xét gần gũi hơn chị Bích Hà. Cá nhân riêng của anh Phạm Duy có khía cạnh đời sống mà chúng ta nói nó quá khổ hoặc này nọ kia, thật sự cũng nên cho anh một góc như vậy. Nhưng theo cái nhìn chung của một người bên ngoài, tất cả những phong phú về đời sống đó, đã đem lại cho anh khá nhiều chất liệu đặc biệt, để anh hình thành cho chúng ta những tác phẩm. Như nhạc tình của anh chẳng hạn, rất là phong phú. Đó là những tác phẩm mà chúng ta không thể phủ nhận được. Thành ra, phần đó tôi thấy nhận xét của chị Bích Hà, có thể chấp nhận được.

ETC: Trong lời nhạc của Phạm Duy, ông nói là: "Khóc cười theo vận nước nổi trôi."Theo ông, thì điều này hàm ý về chính trị hay văn nghệ?

NĐQ: Trong khía cạnh về chính trị, chúng ta thấy có hai điều. Về tính thể hiện chính trị của Phạm Duy rất là đặc biệt. Cảm tính theo cá nhân của anh, anh rất bay bổng. Như chúng ta đều biết anh theo kháng chiến, rồi anh bỏ kháng chiến, do cái nhìn riêng của anh. Khi anh không chấp nhận được, anh rời bỏ. Trong thời kỳ ở miền nam, anh cũng rất là tự do, nhiều lúc rất là sát với bên quốc gia, nhiều lúc cũng rất là nực nội. Do đó, chúng ta mới nghe, giai đoạn phẫn nộ như Bi phẫn ca và Phẫn nộ ca có những giá trị vào thời đó. Cho đến bây giờ chúng ta thấy, đôi khi anh trở về nước, anh có những phát biểu rất là mạnh, khó nghe. Chúng ta cũng hiểu rằng là, có những lúc anh phản ứng lại với cộng đồng về phong thái ở bên ngoài này đối với anh cũng rất là gay gắt. Nhưng chúng ta cần hiểu rằng, trước hay sau Phạm Duy vẫn là Phạm Duy. Anh có những biến thái chính trị và anh thay đổi theo. Anh có ảnh hưởng thời tiết chính trị, tôi thông cảm được với anh ở phần đó. Giai đoạn sau này, khi anh muốn trở về Việt Nam, tôi cũng được biết rất nhiều vì anh thường nói chuyện với tôi. Chính tôi, tôi cũng khuyên anh, nếu như tuổi già anh cảm thấy có một cuộc sống dễ chịu ở đất nước, anh nên về sống. Vấn đề là, chế độ đó có sự tương nhượng nào đó để anh sống được. Vì con người nghệ sĩ họ có hai điều, một là tâm cảm, họ cảm thấy ở đâu đem lại cho họ sự thoải mái, dễ chịu, hoặc đem lại cho họ sự thích thú, đấy là một chọn lựa. Điều thứ hai nữa, ở nơi nào còn có những người quí mình, hoặc mình có khán thính chúng của mình, như 82 triệu người trong kia, vẫn có một phần nào đó, một phần lớn hoặc một phần nhỏ, nhưng đó là con số quan trọng, người ta vẫn còn yêu quí anh, anh muốn giữ lại giá trị sáng tác của anh đối với một đại khối người lớn. Do vậy, những chọn lựa của anh là một chọn lựa không có gì để chúng ta phải ngạc nhiên cả. Vì ai cũng muốn như vậy, người ca sĩ cần có khán thính giả, người nghệ sĩ cũng cần có những người thưởng thức, giá trị đó. Tôi cho rằng anh ấy có quyền để chọn lựa một nơi mà anh thấy đời sống xứng đáng.

ETC: Anh nghĩ sao về chọn lựa có tính chất cá nhân Phạm Duy, là biểu tượng của âm nhạc Việt Nam, sự di động, đi qua đi lại, cho tới bây giờ, dù chúng ta có lên án, có bày tỏ thái độ với ông, thì quyết định về Việt Nam của Phạm Duy có ảnh hưởng gì đến gia tài âm nhạc của ông, đối với tập thể người Việt lưu vong ở hải ngoại?

NĐQ: Theo tôi nghĩ, những điều mà chúng ta nhận định là theo cảm quan, cảm tính, những nhận định theo tính cách chính trị của mình, của mỗi người. Mỗi người tự mình cho mình đứng ở một chỗ nào đó, rồi cho rằng, anh nghệ sĩ đó không nên thế này, không nên thế kia, không được thế nọ. Tôi cho rằng, những điều đó, nó không ảnh hưởng gì đến tất cả những tác phẩm của người nghệ sĩ đã làm ra. Chúng ta đã nói đến trường hợp của Trịnh Công Sơn, chúng ta cũng biết đến nỗi khổ của Văn Cao. Chúng ta không thể nào nói rằng, những người đó ở trong một thời đại nhiều tính di động như thế này, kể cả những quan niệm và ý niệm về chính trị. Chúng ta thấy đó cũng là những biến thiên rất là dễ hiểu, bình thường. Thế thì, tại sao mình lại bảo rằng ông đó phải đứng chỗ này hay đứng chỗ kia, hay ông ấy rời khỏi khu vực hải ngoại, đâu có nghĩa là tất cả những giá trị tinh thần nó đi ra khỏi người của mình đâu. Chúng ta nên chấp nhận một điều như vậy và chúng ta giữ lấy Phạm Duy vì Phạm Duy vẫn còn ở trong chúng ta, và chúng ta nhớ lấy như vậy. Không có gì khổ sở hơn khi chúng ta lấy một cái mũ chính trị ra để gạt một cái điều mà chúng ta bảo là hỏng và tác phẩm, giá trị của họ cũng vất luôn. Tôi cho rằng, cái nhìn như vậy nó không còn thích hợp ở trong thời đại này nữa.

ETC: Nói về vấn đề thời đại, vấn đề xu thế, hiện nay, dù không hẹn mà đến, có tới ba nhân vật lớn, một là một ông tướng quân sự, một ông tướng tôn giáo và một ông tướng văn nghệ…cùng về Việt Nam, theo ông, đây là một dấu chỉ tốt hay xấu?

NĐQ: Tất cả những điều đó, dù là tình cờ ngẫu nhiên hay là có tổ chức, đó là một dấu hiệu tích cực đối với chúng ta. Theo cái nhìn riêng của tôi, sự chia cắt của dân tộc chúng ta đã kéo dài trên 70 năm, kể từ khi có đảng cộng sản. Những điều đó đã làm cho chúng ta đau khổ thế nào. Tôi nói đây, không phải là sự đau khổ của riêng 3 triệu người ở hải ngoại, mà là sự đau khổ của mấy chục triệu người trong nước nữa. Họ đã trải qua quá nhiều mất mát, đau đớn, vậy mà chúng ta không nhìn thấy một hy vọng đến một ngày nào có một điều gì có thể gần gũi lại với nhau. Thành ra, kỷ niệm của 30 năm ra đi của người tị nạn chúng ta, tôi nghĩ rằng chúng ta lấy dấu mốc thời gian này để mà nhìn lại, hy vọng có một cái gì đó để làm lại cuộc kết hợp dân tộc. Điều đó rất quan trọng và lớn lao, chúng ta tránh đi xa chia rẽ phái, thế hệ này rồi thế hệ tiếp, thời gian nó không nằm ở phía ngoài nước như chúng ta, thời gian nó nằm ở phía người trong nước. Tất cả những việc đó, nếu chúng ta không nối kết được với người trong nước, với quê hương, với người dân, tôi sợ rằng chúng ta sẽ đi tới chỗ tàn lụi hoặc là không đóng góp được gì đáng kể cho lịch sử của đất nước trong nay mai. Thành ra, chuyện của ba vị kia, dù là một cách rất tình cờ, có người đã nối kết được với chính quyền để làm một cuộc trở về như tướng Kỳ, như ông Nhất Hạnh. Nhưng với ông Phạm Duy, có thể là một trường hợp ngoại lệ. Nhưng nhìn chung, đó là một dấu hiệu cho thấy rằng, vẫn có thể gần gũi, tiếp xúc được với đất nước và xứ sở của mình.

ETC: Ông là một nhạc sĩ lý tưởng, đối kháng với xã hội, trong thập niên 60-70, ông nhận xét gì về thời cuộc, về sự biến thiên của xã hội Việt Nam, kể từ 30 năm qua, dưới con mắt một nhạc sĩ lưu vong?

NĐQ: Tôi nghĩ người nghệ sĩ bị ảnh hưởng bởi tình trạng của thực tế, xã hội bên trong bên ngoài. Từ đó, họ có những suy nghĩ riêng, cảm xúc riêng. Khi họ phát biểu, đó là những phát biểu độc lập. Tôi cũng vậy, sau 30 năm, ở trong tình trạng, mình cùng với các bạn, chống lại những gì xấu xa, với tôi, những giá trị đó là vĩnh cửu. Tôi nghĩ rằng, những điều đó sẽ tồn tại hoài. Cho đến bây giờ, tôi vẫn thiết tha với những chuyện đó. Cả mấy năm nay, khi sinh hoạt trở lại, tôi vẫn nghĩ mình cần phải nói lên một điều gì đó để cho mọi người biết mình. Cần có những suy nghĩ đi gần với xã hội bây giờ và thể hiện được ước muốn của mình đến với mọi người. Rất may, tất cả những cuộc đi trình diễn của tôi ở khắp nơi, ý tưởng của mình được mọi người hiểu và chia sẻ. Tôi cho đó là điều thích thú vô cùng.

ETC: Nhân thời điểm 30 năm, 3 triệu người ra đi tìm tự do, ý nghĩa tự do với ông như thế nào?

NĐQ: Đối với chúng ta ở hải ngoại, chúng ta học hỏi một cách rất khổ nhọc. Vì tự do không phải là một bài học đơn giản. Đầu tiên, chúng ta đã phải trả giá qua những đớn đau, nhọc nhằn, từ những ngày vượt biên, vượt biển, vượt thoát một chế độ mà tính cách hà khắc của nó không thể nào tưởng tượng được. Nếu không có sự bạo tàn đó, chắc người Việt mình sẽ không bỏ nước ra đi khỏi biên giới. Cho nên dấu ấn của thời đó, vẫn còn sâu đậm trong mỗi chúng ta. Nếu tôi nhớ lại tháng ngày đó, từng giai đoạn, tôi nghĩ rằng là, mình khó lòng mà có sự rộng lượng để nhìn về tương lai. Thế nhưng, chúng ta cũng ta phải xét lại tình hình để thấy rằng, từ những năm sau này, tại đất nước, sau 15 năm ngu muội, tự họ cũng phải hiểu được những sai lầm, họ học được điều mới mẻ khả dĩ giúp cho đất nước được tồn tại. Việc đổi mới của họ, những công trình của họ làm sau này, từ từ cho thấy, kẻ thù của mình họ cũng có những bước mở ra. Bước mở đó, mình cảm thấy nó đã đủ chưa, nó có đáp ứng được cho mình hay chưa, để mình có thể rộng lòng cho họ phần nào sự tha thứ và mình tìm được cho mình nghĩa sống. Mình có kẻ thù đó, nhưng kẻ thù không phải là quê hương, không phải là 82 triệu người đang sống ở đó. Đó là cái nhìn mà tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải có ở năm thứ 30 này. Mọi người ở đây còn khác biệt nhau lắm, nhưng sự khác biệt đó rất quí, rất cần thiết. Chúng ta học ở ngoài này nền dân chủ, để có một cái nhìn rằng, càng có sự khác nhau, càng quí, khác biệt để bổ sung cho nhau. Khác nhau nhưng không phải đi đến chỗ tiêu diệt nhau, hủy bỏ lẫn nhau, loại trừ nhau. Đó là bài học lớn nhất, quí báu nhất của chúng ta, nhất là ở thế hệ chúng ta đã phải khổ sở, đớn đau đã phải gánh vác, chịu đựng trong thời gian qua.

ETC: Câu hỏi cuối, nếu có được một lời nói, một lời chúc dành cho NS Phạm Duy trước khi ông lên đường, ông sẽ nói gì?

NĐQ: Tôi chỉ mong anh Phạm Duy có được sức khỏe, sống vui giống như những ngày anh đã sống vui ở tại hải ngoại.

(Viet Weekly, 2005)
* * *

Sunday 3 February 2013

Quỳnh Giao viết về Phạm Duy


Nghìn Năm Vẫn Chưa Quên 
Quỳnh Giao

(Nguồn: Việt Báo, http://www.vietbao.com )
*
  
LTS: Nhạc sĩ Phạm Duy vừa từ trần ngày 27/01/2013 tại Sài Gòn, thọ 93 tuổi, để lại hơn một ngàn tác phẩm âm nhạc được nhạc sĩ Trần Quang Hải từ Paris ca ngợi là mẫu mực của thế hệ những người sáng tác nhạc hiện nay. Bài sau đây của ca sĩ Quỳnh Giao viết cho Văn Học trong dịp mừng nhạc sĩ Phạm Duy sinh nhật thứ 75 (1996) -- Việt Báo.
*
  
Tờ Văn Học số mới ra có loan một tin nhỏ làm tôi thấy buồn thấm thía: tháng Bảy vừa qua cuốn "Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay" của Tạ Tỵ đã được tái bản trong nước, nhưng có chương viết về Phạm Duy lại bị bỏ hẳn ra ngoài sách. Trước khi in sách này và xoá chương kia, những người xuất bản chắc cũng đọc khá kỹ và đắn đo khá nhiều, vậy mà cuốn sách sau cùng vẫn bị thu hồi... Tôi thấy tội nghiệp cho những người đã cố xoá tên Phạm Duy trong ký ức chung của dân chúng. Ở ngoài này, mình không phải làm những việc khổ tâm đó. Chúng ta vẫn nghe, vẫn hát và vẫn yêu thích những tác phẩm có giá trị của Văn Cao hayTô Vũ, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát, hay Trần Hoàn, Phan Huỳnh Điểu...
  
Những cảm nghĩ mông lung về âm nhạc, về thời thế, về người nghệ sĩ và lòng tri ân của giới thưởng ngoạn đã khiến tôi trở về với bài viết đầu tiên của mình trên Văn Học, cách đây đúng 10 năm. Bài viết về Phạm Duy, nhân dịp sinh nhật 65 của ông. Thấm thoát vậy mà đã 10 năm, nghĩ đến Phạm Duy và tuổi hạc của ông, tôi thấy lòng chùng xuống....
  
Phạm Duy viết nhạc cho mọi người, mọi thời, ở vào nhiều cảnh ngộ khác nhau. Hơn nửa thế kỷ viết nhạc trong một giai đoạn nhiễu nhương nhất của đất nước, hình như ông đã có mặt ở mọi nơi và mở rộng lòng mình đón nhận những cảm xúc hay bi thương của chúng ta để ghi lại thành thơ, thành nhạc, thành "ngàn lời ca" như ông nói, cho chúng ta hát và nghe. Nửa thế kỷ đó mà không có Phạm Duy, tân nhạc Việt Nam đã không phát triển như ngày hôm nay. Yêu thích ông hay không là tùy mỗi người, chứ trên những nẻo đường âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ này mà chối bỏ Phạm Duy thì cũng như men theo ngõ ngách để tránh núi, rồi cũng đâm vào núi thôi. Nhại lời Jean Paul Sartre, bạn tôi nói Phạm Duy là "incontournable"!
  
Đó cũng là nhận xét của những người nghe nhạc, và chúng ta... đông lắm! Cái ký ức tập thể này khó có thể xóa được ngày nào còn có người nghe và hát nhạc Việt trên mặt địa cầu.
  
Tôi nhớ đến một cuốn phim đã xưa về cuộc đời của Rimsky Korsakov, nhà soạn nhạc người Nga ở cuối thế kỷ trước. Truyện phim được hư cấu khá nhiều, nhưng không vì vậy mà kém thú vị. Thú vị nhất là một đoạn đối thoại giữa anh lính thủy Korsakov và thượng cấp. Anh ta gân cổ tranh luận rằng mình sẽ làm nước Nga nổi danh hoàn vũ, còn hơn những chiến công của các bậc vương tôn khanh tướng. Rằng anh sẽ bỏ mộng hải hồ và nhung y để làm cái việc động trời đó. Rằng anh sẽ viết nhạc, sẽ thành nhà soạn nhạc. Đó là cống hiến của anh cho tổ quốc và dân tộc Nga. Tôi nghĩ rằng từ bài "Cành hoa trắng" để giã từ kháng chiến năm 1950, Phạm Duy đã tiếp tục cống hiến cho chúng ta nhiều điều cao đẹp khác mà không phải là máu xương đồng loại.
  
Tôi xin gửi cảm nghĩ trên tới ông, nhân dịp sinh nhật thứ 75 của Phạm Duy, ngày 5 tháng 10 tới.
*
  
Là người trình bày các ca khúc, tôi may mắn được học nhạc và đi hát từ khi còn ở cái tuổi "mê trời mây tía, không nghe mẹ gọi về", và được gặp hầu hết những nhạc sĩ tài hoa của chúng ta trong mấy chục năm liền. Vì còn bé và bé nhất trong đài phát thanh, tôi gọi các "đồng nghiệp" bằng cô, chú, ngoại trừ có chị Mai Hương, và tôi cũng được nuông chiều nhất. Được hát cùng các nhạc sĩ Vũ Thành, Phạm Đình Chương, hay Phạm Duy, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Hoàng Trọng, Ngọc Bích, Nguyễn Hiền, Đan Thọ, v.v... tới nay tình cảm của tôi với những nghệ sĩ lão thành trên vẫn nguyên vẹn. Người khó tính nhất và tôi kính trọng nhất nay đã mất, chính là Vũ Thành. Người dễ tính nhất và cũng được nhiều người nói tới nhất, chính là Phạm Duy.
  
Hát nhạc Vũ Thành - hay bất cứ ai khác - mà sai từ lời ca tới âm điệu hay cách ngân, cách láy, cách ngắt nhịp, là khổ với nhạc trưởng Vũ Thành. Trong đài phát thanh, ai cũng phải nể sợ ông và các ca nhạc sĩ ít khi lơ là bê trễ trong tập dượt. Ngược lại, Phạm Duy rất xuề xoà dễ tính, ông không mấy phật ý khi có người hát sai điều ông viết, nhiều người uốn và vuốt tới méo cả lời ca. Ông chỉ cho rằng họ chưa hiểu điều ông viết mà thôi. Tôi rất cảm động khi có lần ông tâm sự, rằng có người hát nhạc của mình thì cũng đủ vui rồi. Ở một ai khác, có ít tác phẩm hoặc chưa nổi tiếng, điều này có thể thông cảm được. Ở Phạm Duy, đây là điểm thật đáng quý, đáng yêu, nhất là khi ông lại rất khó tính với chính mình.
  
Phạm Duy ở ngoài đời, theo cảm nghĩ của tôi, là người hiểu biết sâu sắc, nói chuyện có duyên và ân cần nhất trong xử thế mà cũng chuyên nghiệp và chu đáo trong địa hạt âm nhạc của ông. Có một lần, lâu lắm rồi, tôi còn nhớ ông thuyết trình hai giờ liền bằng Pháp ngữ tại Trung Tâm Văn Hoá Pháp tại Sàigòn, khiến cử tọa thán phục vì sự uyên bác và tài hùng biện của ông. Sau này trong đời lưu vong và bao lần dừng chân tại miền Đông Hoa Kỳ, ông không dựa vào tình cảm của bạn hữu hay người thưởng ngoạn rất đông bên đó mà khệnh khạng phiền hà bất cứ ai trong mọi việc di chuyển hay ăn uống của mình. Ông dậy sớm, mở bản đồ tìm lấy xe buýt đi lo việc riêng và ngăn nắp trong từng việc nhỏ để khỏi làm rộn người khác. Chiều xuống, ông về rất đúng hẹn và cũng lặng lẽ tự lo lấy cho mình, để đi tiếp nơi khác.
  
Phạm Duy viết nhạc như trời biển, ăn nói bạt mạng như cuồng sĩ và đam mê như mãi mãi thanh xuân, điều đó ai cũng biết và tôi cũng nghe nói tới. Nhưng ít ai ngờ là bên trong, ông sống ngăn nắp và chu đáo như một kế toán viên cần cù. Giờ đây, khi Phạm Duy học điện toán và sử dụng multimedia để giới thiệu và lưu trữ những tác phẩm âm nhạc của đất nước, tôi không ngạc nhiên. Phạm Duy đi rất nhiều, sống rất nhiều, nhưng luôn tự lo liệu cho mình và học hỏi không ngừng.
  
Mấy lần tôi đi thu nhạc với Duy Cường, ông cuốc bộ từ nhà tới phòng thâu Tomlinson chờ nghe. Ông lặng thinh một góc để khỏi phiền cậu con khó tính trong cách hoà âm và khó tính cả với ông bố to như trái núi. Không có chỗ ngồi thì ông ngả lưng trên thảm, nghe thu âm mà không hề "xen lấn nội bộ". Cho tới khi xong ông mới có một vài câu phê, thường thì chắc nịch và đúng phóc. Nghe tôi hát "Nương chiều" lần mới đây, ông nói một câu làm ta phải giật mình. "Mãi tới nay mới có người hát đúng đoạn staccato đó của chú". Rồi cùng Duy Minh lững thững ra về...
  
Cái vẻ thơ thới của Phạm Duy khi nghe nhạc làm tôi hiểu vì sao ông viết hay. Phạm Duy trân quý âm nhạc hơn là ta có thể mường tượng ra. Tôi để ý thấy rằng khi nghe nhạc, bao nhiêu sự tinh quái hay cuồng loạn của ông như tan biến cả, ông hồn nhiên như trẻ thơ. Tôi cũng nghiệm thấy rằng những người sống nhiều, khi luống tuổi thường có dáng chững chạc đáng kính khác hẳn cái nếp cuồng nhiệt sôi động thời trước. Phạm Duy không vậy, ông trẻ lại, và vẫn trẻ mãi, có lẽ vì âm nhạc và nhờ âm nhạc. Mối tình của ông với âm nhạc là một đam mê lớn lao nhất.
  
Dăm eo sèo nhân thế,
Chưa phai lòng say mê,
Với đôi ba lần gian dối
Đời vẫn ban cho ngọt bùi!
  
Lời "tự thú" của Phạm Duy trong bài "Tạ Ơn Đời", nếu có hát thành "nhạc vẫn ban cho ngọt bùi" vẫn là hoàn toàn đúng.
  
Viết về nhạc Phạm Duy thì đã có nhiều người, và sẽ còn có nhiều người. Chúng ta chịu ơn Phạm Duy rất nhiều trong cuộc sống thường nhật khi muốn tìm tới những điều cao đẹp nhờ âm nhạc. Tôi chỉ xin ghi lại đây cảm nghĩ của những người đầu tiên chịu ơn ông, đó là những người hát nhạc Phạm Duy (một cách chuyên nghiệp, chứ ai trong chúng ta không có lúc hát Phạm Duy). Là một ca sĩ trình bày các ca khúc của đất nước từ nhiều thập niên, tôi cho rằng Phạm Duy là người khai phá đích thực, trong ý nghĩa là từ khi có ông xuất hiện trong từng thể loại hoặc từng đề tài, tân nhạc Việt Nam đã có đổi khác. Sau Phạm Duy, người ta không viết như trước nữa.
  
Tôi muốn riêng nhắc tới thể loại dân ca và đề tài tình yêu trong nhạc Phạm Duy.
  
Đối với các ca sĩ, nhạc Phạm Duy bắt đầu chinh phục người nghe là từ những bài dân ca và những bài ca lên đường vào thời đó. Công lao và sự khai phá đầu tiên của Phạm Duy là dân ca và nỗi hứng khởi ban đầu cho việc mở đường đó chính là kháng chiến ca. Những bản hùng ca đầu tiên của ông dễ hát và dễ hợp ca nhờ những nhịp mạnh rải thật đều và nhờ lời ca lôi cuốn vì gợi lên nhiều hình ảnh bi tráng lẫm liệt. Mặt kia, những bản dân ca cải biến có lời nên thơ và dễ nhớ vì khởi đi từ lục bát hay lục bát biến thể quen thuộc và vì nhạc có những nốt láy dễ hát thật tự nhiên. Phạm Duy dùng kỹ thuật chuyển hệ để mở rộng âm giai ngũ cung nguyên thủy của dân ca và, khi tân nhạc đang ở vào thời dọ dẫm tìm kiếm, ông đưa lối nhạc cải cách đó về với kho tàng phong phú của dân ca cô điển. Ông nối liền truyền thống với hiện đại, thôn quê tới thị thành, nhờ những ca khúc đầu tiên của ông, sáng tác cách đây hơn 50 năm.
  
Phạm Duy đã đi vào cõi nhạc không ký âm của dân tộc và đem dân ca ra khỏi thôn quê truyền đi khắp nước, đồng thời đưa nhạc cải cách từ thành phố về tới thôn quê. Từ Phạm Duy dân ca có lời có nhạc, ghi chép và truyền tụng được, giúp mọi người thấm sâu hơn những cảm xúc tình tứ lãng mạn của dân giả lầm than. Từ Phạm Duy, dân ca và kháng chiến ca đã quyện thành lời kêu gọi hùng hồn cảm động, khiến nhiều lớp người cùng đứng lên vì non sông. Những tác phẩm tiêu biểu nhất của mười mấy bài dân ca kháng chiến này là "Nhớ người thương binh", "Muà Đông chiến sĩ" hoặc "Tiếng hát trên sông Lô" ông viết trên núi rừng Việt Bắc năm 1947 và các bài "Quê nghèo", "Bà mẹ Gio Linh" hay "Về miền Trung" ông viết trên đoạn đường Trị Thiên vào các năm 48-49. Tình bạn của ông với Văn Cao bắt đầu từ đó. Nhưng hơn hẳn Văn Cao đã chôn chân tại chỗ và sống với dư âm cùng nuối tiếc, ông tiếp tục mở đường rộng lớn cho tân nhạc của chúng ta tới ngày nay. Ba trường ca "Con đường cái quan", "Mẹ Việt Nam" và "Bầy chim bỏ xứ" là biểu tượng cho cuọc hành trình không ngơi nghỉ đó trong hồn nước và lòng dân của ông.
  
Về nhạc tình của Phạm Duy, có lẽ chúng ta cần cả một cuốn sách.
  
Phạm Duy viết rất nhiều tình ca, có những bài ai cũng thuộc cũng hát được mà cũng có bài kén người hát. Thí dụ như thật giản dị thì có "Đêm Xuân" tương đối dễ hát, từ nốt thấp nhất là La tới cao nhất là Rê, và có bài như "Đường chiều lá rụng", chạy 16 nốt từ Fa dièse lên Fa dièse qua hai octaves và kén người hát ở tiêu chuẩn tối thiểu là âm vực của giọng hát, chưa nói tới những đòi hỏi khác. Nhưng, khó nhất cho chúng ta là khi phải tuyển chọn chừng mười bản tình khúc hay nhất của ông. Tôi thấy khó là vì mình không biết chọn bài gì, bỏ bài gì, bài nào bỏ cũng thấy tiếc! Khó hơn cả là những bài có nội dung hoà nhập giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu thiên nhiên, và những tình cảm cao thượng, kể cả sự siêu thoát của kiếp người.
  
Những người thích nét nhạc nhẹ nhàng êm ả và ý tứ dịu dàng có thể yêu những mối tình câm lặng ấp úng trong những bài như "Cô hái mơ" (ca khúc đầu tay của ông năm 1942, từ thơ Nguyễn Bính), "Cây đàn bỏ quên", "Khối tình Trương Chi", "Bên cầu biên giới" và cả bài "Cành hoa trắng". Những người yêu sự lãng mạn thanh cao và có giọng trong sáng thì có thể thích hát "Đêm Xuân", "Ngày đó chúng mình", "Thương tình ca". Nồng nàn bi thiết và ưa thích diễn tả khi hát thì ta có thể thích "Tình kỹ nữ", "Kiếp nào có yêu nhau", "Còn gì nữa đâu" hay "Đừng xa nhau", "Cỏ hồng". Có nội dung cao cả và tình cảm thiết tha hơn, nên cũng đòi hỏi giọng hát nhiều "não tính" hơn, thì có những bài như "Mộng du", "Tìm nhau", "Cho nhau", hay cả "Nghìn trùng xa cách". Với những bài trên, tình yêu trong nhạc Phạm Duy như bắt đầu đi vào hướng cao thượng hơn tình yêu đôi lứa thông thường. Đồng thời, tình yêu và thiên nhiên còn hoà lẫn thần tình trong những bài mà sự rạo rực của thời tiết và lòng người như đã thành một, đó là đặc tính của "Xuân thì", "Hoa Xuân", "Xuân nồng", "Dạ lai hương". Nhạc tình của Phạm Duy có nét siêu thoát của trí tuệ khi cất lên giữa lằn ranh của tình yêu và đời sống, nỗi chết và sự phục sinh. Tôi thiển nghĩ những bài "Nước mắt rơi" hay "Tạ ơn đời", "Chiều về trên sông" và "Đường chiều lá rụng" kén người hát không chỉ ở kỹ thuật âm nhạc mà còn ở nội dung là vì vậy.
  
Nhạc tình Phạm Duy ngự trị trên một vùng rộng lớn như vậy nên ai cũng có thể yêu nhạc và hát nhạc của ông, tùy từng trình độ và trạng thái tâm lý vào mỗi thời. Từ tuổi ô mai mười ba tới tuổi sinh viên tan trường về, và sau này nữa, khi lòng mình đã trầm lắng về nhân thế, thanh thản với cuộc đời, chúng ta đều tìm thấy niềm ước mơ hay kỷ niệm và sự vỗ về ở tình khúc Phạm Duy.
  
Điểm độc đáo nhất của Phạm Duy là ông yêu đời, yêu người mà viết rất hay về cái chết. Đó là một biểu hiện của một trí tuệ cao. Tình yêu và cái chết, như chúng ta hay triết lý vẩn vơ, là những trạng thái chỉ mình mình biết mà khó diễn tả được cho người khác. Ở Phạm Duy, trong "Lữ hành", "Mộng du" hay "Đường chiều lá rụng" chẳng hạn, ông truyền đạt được tới chúng ta những cảm xúc lạ kỳ đó. Tôi nói tới trí tuệ hay não tính vì không tìm ra những chữ rõ ràng hơn để mô tả trạng thái hoà nhập của siêu nhiên vào trong thiên nhiên và tình cảm. Phạm Duy viết nhiều câu thần tình về trạng thái trên mà không cầu kỳ lập dị, kiểu siêu thực rẻ tiền. Chẳng hạn như yêu nhau đến chết, hay lắm, gay cấn lắm, hứa hẹn lắm. Nhưng, sau đó rồi sao ?
  
Chiều chưa thôi trìu mến, lá chưa buông chết chìm.
Hồn ta như vụt biến, bay vờn trong đời tiên.
Lá vàng êm! Lá vàng êm!
Như mũi kim mềm sẽ khâu liền kín khung cửa tình duyên.
Lá vàng khô! Lá vàng khô!
Như nét môi già đã nhăn chờ trên nẻo đường băng giá.

...

Còn rơi rụng nữa,
Cành khô và lá,
Thành ngôi mộ úa.
Chờ đến một trận gió mưa.
Cho rữa tình già xác sơ,
Cho biến thành nhựa sống nuôi tình thơ.
  
Ông viết "Đường chiều lá rụng" năm 1958, khi chưa tới tuổi 50, và 15 năm trước một loạt các bài về nhựa sống nuôi tình thơ của tuổi mộng mơ, tuổi ô mai, tuổi mười ba. Phạm Duy rong chơi giữa cõi tử sinh và mông mơ như người không tuổi, vì cảm xúc và trực giác hơn là vì tuổi tác. Trong nhiều ca khúc của ông, ta đều gặp trạng thái trên. Tôi tự hỏi trẻ mãi không già là vậy chăng?
  
Với âm nhạc và hơn 50 năm viết nhạc không ngơi nghỉ, Phạm Duy là một phần không thể xoá trong tâm hồn chúng ta. Ngày xưa, Nguyễn Du đã khống thiết tự hỏi là ba trăm năm nữa có còn ai khóc ông không. Dù chẳng muốn cường điệu tôi vẫn nghĩ rằng nghìn năm nữa dân ta vẫn không quên nhạc Phạm Duy. Cho nên mình cũng chẳng tiếc gì một chương sách bị bóc, khi âm nhạc và lời ca Phạm Duy vẫn làm ta rung động từ ngày bú mớm cho tới khi chúng ta từng người "sẽ lên đường trở về", như ông kết trong bài "Lữ hành" năm 53, như một lời tiên tri tuyệt vời.
  
Xin mừng tuổi thọ 75 của chú Phạm Duy.
Quỳnh Giao (1996)

-ooOoo-


Ðường Chiều Lá Rụng  
Quỳnh Giao

Source: Người Việt, http://www.nguoi-viet.com , February 01, 2013

*

Một buổi chiều cuối năm, chúng tôi cùng hát với nhau dù chỉ được một phần cả Ngàn Lời Ca của Phạm Duy. Trong có 24 tiếng để anh chị em tổ chức một buổi sinh hoạt impromtu mà trang nghiêm, Quỳnh Giao nhận lời hát Kỷ Niệm và Ðường Chiều Lá Rụng.

Kỷ Niệm là ca khúc vừa sáng tác xong là Phạm Duy đưa cho con bé (Quỳnh Giao) hát trên đài phát thanh. Hơn hai chục năm sau đó, khi mình còn ở miền Ðông và thực hiện lấy băng nhạc Hát Cho Kỷ Niệm theo lối thủ công nghệ, ông cẩn thận gửi lời giới thiệu qua một cassette. Ðấy là kỷ niệm khó phai, nghe lại là nhạt nhòa nước mắt.

Còn Ðường Chiều Lá Rụng là một dấu ấn khác của Phạm Duy, được ông viết khi còn trẻ, vào năm 1965, căn cứ theo tập nhạc “Hát vào Ðời” xuất bản năm 1969. Nhưng trong cuốn “Ngàn Lời Ca,” thì ông viết từ năm 1958, sau khi đi du học bên Pháp về. Ðiều này có lẽ cũng đúng, vì ông đã dùng những điều học được áp dụng cho ca khúc. Ðây là bài hát có nhạc thuật cao nhất của ông, với nét ngũ cung u uẩn và những chuyển đoạn liên tục, vừa khó hát, khó nghe và khó hòa âm.

Năm đó, khi vừa ráo mực, ông đưa tác phẩm cho nhạc sĩ Vũ Thành. Là trưởng phòng văn nghệ của đài Phát Thanh Sài Gòn và trưởng ban nhạc đại hòa tấu và hợp xướng Phương Hoa, Vũ Thành cũng cộng tác với đài Tiếng Nói Tự Do của Hoa Kỳ, chuyên phát các chương trình ra miền Bắc. Nổi tiếng khó tính, Vũ Thành lưỡng lự khi soạn hòa âm, vì Ðường Chiều Lá Rụng không dễ viết.

Nguyên tác của Phạm Duy là nhịp ý dìu dặt thiết tha trên ton Si thứ với nhiều quãng năm giảm (quinte diminué) làm nhiều ca sĩ trẹo lưỡi. Hát đúng giọng thì phải xuống nốt Fa thăng thấp (dưới hàng kẻ ba dòng) và lên nốt Fa thăng cao nhất (dòng kẻ thứ năm). Vũ Thành sửa lại, dùng nhịp 4/4 theo lối chậm rãi kể lể của một bản Slow và viết nhiều nốt liên ba (triolet) trong toàn bài, rồi còn hạ một cung, tức là ton La thứ. Viết xong, Vũ Thành quyết định thu thanh cho chương trình của đài Tiếng Nói Tự Do để phát ra Bắc, và vì thế trong Nam mình không được nghe.

Ông chọn Thái Thanh để trình bày tác phẩm bất hủ này. Ðấy là một chọn lựa tuyệt vời.

Thường ngày Thái Thanh vẫn nổi tiếng là cường điệu. Bà làm cho ca khúc thổn thức rũ rượi hơn và nồng nàn hơn nguyên bản. Nhưng với Ðường Chiều Lá Rụng qua hòa âm Vũ Thành thì mọi lối quằn quại điệu nghệ bỗng nhiên biến mất. Bài hát quá khó, khiến bà phải cẩn trọng từng chữ, hát sai và không theo dàn nhạc thì Vũ Thành “quạt” ngay, chẳng nể nang ai cả!

Thái Thanh hát nghiêm chỉnh, lại có cả dàn phụ họa của Anh Ngọc, Nhật Bằng, Phượng Bằng, Kim Tước, Mai Hương và Quỳnh Giao nữa, nên ca khúc là một tuyệt chiêu.

*

Như có lần người viết đã kể, khi di tản năm 1975, tài sản duy nhất được Vũ Thành đem theo là một số băng ghi âm các ca khúc quý giá ông làm cho đài Tiếng Nói Tự Do. Trong đó có Ðường Chiều Lá Rụng.
Tại hải ngoại, khi thực hiện đĩa nhạc thứ hai với tên Tiếng Chuông Chiều Thu, Quỳnh Giao chọn Ðường Chiều Lá Rụng vì yêu mến tác phẩm trứ danh này. Nhưng đưa cho Duy Cường nghe tape nhạc Vũ Thành thì bị lắc đầu: “Em không bao giờ làm giống ai và chẳng bị ảnh hưởng của ai hết!” Ðúng quá chứ! Rồi Duy Cường cũng loay hoay mãi không viết được. Anh không chịu đổi qua nhịp Slow như Vũ Thành, dù nhịp này dễ hát hơn nhiều.

Cuối cùng Duy Cường hòa âm theo kiểu ad lib, là tự do, chẳng có nhịp gì hết.

Cái khó là xưa nay ca sĩ hát ad lib thì nhạc sĩ đệm theo, chứ bao giờ lại có sự ngược là nhạc sĩ đàn ad lib và ca sĩ phải hát theo! Cường nói: “Chỉ có chị mới hát theo dàn nhạc được, và vì chị nên em mới thử nghiệm điều này.”

Hôm thu âm tại phòng thu Tomlinson, Phạm Duy đến nghe. Cô cháu hát thử câu đầu “chiều rơi trên đường vắng có ta rơi giữa chiều” bằng hai cách. Cách thứ nhất gần giống lối diễn tả của Thái Thanh, là láy vào chữ “vắng” và chữ “rơi.” Cách thứ hai là chỉ láy vào chữ “ta” mà thôi. Và hát rất đều giọng, nghiêm trang. Phạm Duy chọn cách thứ hai. Viết lại như vậy để chúng ta hiểu ý người sáng tác.

Cho tới giờ dường như số người hát Ðường Chiều Lá Rụng chỉ đếm trên đầu ngón tay của một bàn tay. Riêng Phạm Duy thì nhắc đến ba người là Thái Thanh, Kim Tước và Quỳnh Giao. Mà người nghe chắc cũng ít. Nhạc đã thế, lời ca lại chẳng nhắm vào cảm quan mà đầy não tính...

Quỳnh Giao đã viết nhiều nên không dám nói thêm về các lời từ của Phạm Duy khi ông đưa tình yêu lên tận cõi chết. Ðường Chiều Lá Rụng là một tiêu biểu rực rỡ và rã rời nhất với hình ảnh đầy chất siêu thực. Nhưng giờ đây, khi ông đã ra đi, mà mình hát lại với nước mắt lưng tròng thì ca khúc lại tái sinh như một bức họa.

Ông chuyển cung như dùng màu sắc để đổi ánh sáng và có nhiều câu báo hiệu lối viết sẽ thấy ở Trịnh Công Sơn về sau.

Một kỷ niệm cuối là khi ghi âm bài này với hòa âm của Duy Cường, Quỳnh Giao đã ỷ vào chỗ thân tình mà xin sửa một chữ ở câu cuối! Phạm Duy nghe lại, gật gù và cho phép!

Chiều tan trên đường tối, có ta như rã rời
Hồn ta như gò mối, đang chờ phút đầu thai.


Quỳnh Giao xin phép hát là “Hồn ta như gò mối, im chờ phút đầu thai...”

Lá đã rụng, ông đã im. Chúng ta đang chờ ông trở lại.
 
* * *
 

Saturday 2 February 2013

Trần Văn Khê viết về Phạm Duy



Đến khi trăm tuổi còn ngồi bên nhau...
Trần Văn Khê
(http://kienthucngaynay.info , 31-01-2013)
*
 
Viết về Phạm Duy, bao người đã viết, lời đẹp vô cùng, tình đầy bất tận... Nói về Phạm Duy, giờ sẽ nói gì? Nói gì đây cho mình không đi quẩn quanh trong các lối đường xưa cũ tràn ngập hỷ, nộ, ái, ố... mà Duy từng thấy, từng nghe?
Hai thế kỷ cho một kiếp người, quá đủ thăng trầm, quá nhiều rộn ràng, biết bao nghi ngại... Vậy mà kẻ lữ hành trên nhạc lộ Phạm Duy vẫn cứ thong dong đi hết miền trần thăm thẳm của riêng mình, yêu đời này, sống trọn vẹn đời này. Nhìn Duy mãi là Duy, dẫu cho Duy là Duy của ngày cũ, Duy của ngày nay hay Duy của ngày sau xa xôi đi nữa, tình thương đối với Duy ngày càng sâu đậm trong tôi, tình bạn của hai anh em vĩnh viễn bền chặt trong nhau.
Đã quá 90 năm rồi, Phạm Duy và Trần Văn Khê vẫn cứ thân thiết đi cùng nhau trên chuyến xe đời, vẫn ôm nhau khóc cười bao trận giữa nhân sinh. Để rồi với những hạnh phúc, khổ đau từng nếm đó, tôi tìm ra trong cuộc đời hai anh em những tương đồng kỳ lạ mà ít tình bạn thâm giao nào có thể có được. Hy hữu chăng? Hay do ông Trời sắp xếp? Thôi thì để các bạn tự mình ngẫm nghĩ vậy...
   
1. Thời thơ ấu hồn nhiên
Chúng tôi chào đời trên dải đất Việt Nam cùng trong năm Tân Dậu (1921) và cách nhau 3 tháng. Tôi sanh tại Tiền Giang (miền Nam nước Việt) trong một gia đình bốn đời nhạc sĩ truyền thống, còn Phạm Duy thì sanh tại Hà Nội (miền Bắc nước Việt) trong một gia đình văn nhân, nghệ sĩ (có cha là cụ Phạm Duy Tốn - một nhà văn). Tôi tự hỏi không rõ số phận đã sắp đặt như thế nào để hai anh em chúng tôi, tuy cách xa nhau về địa lý mà lại có nhiều sự gần gũi trong cuộc sống đến như thế?
Thuở nhỏ, tôi đã được cậu Năm tôi là ông Nguyễn Tri Khương đặc biệt thai giáo từ lúc còn trong bào thai. Đều đặn mỗi ngày, cậu Năm đến thổi sáo cho thai nhi nghe. Lúc chào đời, tôi vừa được nghe tiếng sáo của cậu Năm vừa được nghe thêm tiếng tỳ bà của ông nội. Cả một thời thơ ấu của tôi được tắm nhuần trong âm nhạc truyền thống Việt Nam, giữa một vùng đất đậm chất đờn ca tài tử. Chẳng biết Duy đã được thai giáo như thế nào, nhưng nhìn thấy tánh cách của Duy, từ phong thái, tính tình đến lối sống, tôi cảm thấy Duy đã được sống trong một không gian thật tự do, chan chứa niềm mê say với thế giới tuổi thơ đầy thơ mộng của mình.
Môi trường sống nơi “thôn ổ” (theo cách Duy nói) đã tạo cho bạn có được những trải nghiệm tuyệt vời khi còn là một đứa trẻ. Duy là đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, mà cũng có những lúc tinh nghịch, hiếu kỳ đối với muôn chuyện lý thú xung quanh. Nhãn quan trẻ con của Duy lúc bấy giờ có nhận thức khá rõ rệt về những gì xảy ra trong đời sống của mình. Duy lại có trí nhớ rất tốt để ghi lại bao nhiêu câu chuyện ngày xưa, mà khi tôi đọc lại hồi ký của bạn, có thể tưởng tượng thấy những hình ảnh ấy hiện rõ mồn một trước mắt, như mình đang đi vào trong ký ức của Duy để viếng thăm một thời đã qua của bạn, với những dòng chữ do tự tay Duy phác thảo và đánh máy. Trí nhớ về tất cả quãng đời mà bạn đi qua đã ghi lại rất nhiều điều độc đáo về chân dung của những con người bạn đã gặp, những thăng trầm của một xã hội, những biến thiên của một giai đoạn lịch sử... Tuy không được thai giáo như tôi, nhưng Duy đã được sống giữa phong khí văn chương, âm nhạc. Cha mẹ không phải là nhạc sĩ, nhưng Duy có người dì chuyên hát ca trù và bản thân Duy đã sớm tiếp cận với môn nghệ thuật tế nhị, sâu sắc của âm nhạc truyền thống Việt Nam. Duy cũng có dịp nghe và thích ca nhạc Huế ngang qua tiếng đàn tranh của bà thầy dạy hai người chị. Nhờ sống nơi làng quê, gặp gỡ với người nông dân nên Duy cũng quen thuộc với dân ca từ nhỏ... Có gì thích thú cho bằng đứa trẻ được sống thật vui tươi, nồng nàn tuổi xanh giữa thiên nhiên tự tại, ngấm vào máu xương nét đẹp văn hóa dân tộc tự lúc nào mà không hay!
Tôi mồ côi cả cha và mẹ, nhưng có người cô đã thay mặt cha mẹ dạy dỗ tôi từ bé, và tập cho tôi biết sống tự lực cánh sinh. Tôi được nên người như hôm nay cũng do phần lớn ở công lao săn sóc, dưỡng dục của cô Ba tôi – một người phụ nữ tài đức vẹn toàn. Sống trong cảnh nghèo, người cô vẫn sớm hôm tảo tần nuôi dạy cho anh em tôi ăn học.
Phạm Duy tuy mồ côi cha nhưng còn có mẹ. Mẹ của Duy cũng giống như hầu hết các bà mẹ Việt Nam trong xã hội Hà Nội trí thức tiểu tư sản, đã khéo xoay xở để nuôi anh em Phạm Duy khôn lớn.
Trong gia đình tôi không có ai theo đạo Phật, nhưng cạnh nhà tôi có ông thầy cúng. Mỗi lần ông dạy học trò là tôi đứng ngoài học lóm. Chính vì vậy mà tôi thích tụng niệm kinh Phật. 5 tuổi mà tôi đã đọc Chú Vãng Sanh rất làu. Đến nỗi cả xóm mỗi khi ai có phận sự cắt cổ gà để đãi khách thì đều phải nhờ cậu bé Khê đến đọc Chú Vãng Sanh để cho con gà được đầu thai. Tôi cũng thuộc kinh A Di Đà và sau thì thuộc tới Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh. Ngoài ra, tôi còn bắt chước thầy cúng tán “ly bà ly bà đế...” mà không hiểu lời chi cả.
Thật là một sự trùng hợp hy hữu! Duy lại được mẹ dạy tụng những câu kinh Phật như: ”…Lư hương xạ nhiệt, pháp giới mông vân, chư Phật hải hội...”. Duy cũng thuộc kinh rất nhiều. Duy thuộc cả kinh Dược Sư, đọc vanh vách cũng như tôi đọc “ly bà ly bà đế...”, mà không hiểu chữ nào! Duy chỉ đọc thuộc theo bản tánh tự nhiên của con trẻ do có được sự ảnh hưởng Phật giáo ngay lúc nhỏ từ người mẹ của mình. Trong hồi ký, Duy đã kể lại, tuy không giàu có để có thể luôn luôn mua đồ chơi hay may quần áo mới cho các con, nhưng mẹ Duy đã biểu lộ tình yêu thương bằng cách luôn cho Duy đi theo mẹ trong bất cứ một cuộc lễ xa gần nào. Nhờ đi lễ ở nhiều đền chùa nổi danh miền Bắc, nhìn thấy cảnh đẹp của những ngôi chùa cổ làm cho Duy muốn trở thành một con người hiếu đạo. 
Tôi và Duy đều là những đứa trẻ có sự ham thích âm nhạc, văn chương một cách đặc biệt. Vốn sanh ra trong một gia đình âm nhạc tài tử truyền thống, tôi đã có được một năng khiếu về nhạc ngay từ nhỏ. Nghe người lớn đờn mà tôi có thể tự mò trên cây đờn kìm nhiều bản dễ như Lưu Thủy, Bình Bán, Kim Tiền... Tôi không được học chánh thức với một người thầy nào hết, nhưng may mắn được nhiều người chỉ giáo. Chỉ riêng cậu Năm Khương đã dạy tôi đờn bài Ngũ Đối Hạ trên cây đờn cò lúc 8 tuổi và cô Ba tôi dạy tôi bản đờn tranh Nam Xuân nhịp tư lúc tôi lên 12. Anh Ba Thuận - con cậu Năm là người gần gũi tôi nhứt và hay hòa đờn với tôi. Chính anh là người đầu tiên dạy tôi đờn bản Vọng cổ nhịp 8 trên cây đờn kìm.
Riêng Duy, do được sanh ra trong một gia đình có bố là văn sĩ, các anh em ruột cũng như anh em họ đều có máu văn chương, đến khi bố mất lại được các bạn văn chương của bố chăm sóc việc học tập, cho nên ngay từ nhỏ, Duy đã có một sự nhạy bén với văn chương và thi ca. Tôi không ngờ rằng Duy lại có một người anh họ rất nổi tiếng là Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, tác giả 2 cuốn “Tục ngữ phong dao” “Cổ học tinh hoa” là cuốn sách gối đầu giường của tôi hồi học tiểu học.
Ngay khi còn nhỏ, Duy đã bộc lộ tánh cách rất “bạt mạng” và ưa phiêu lưu đây đó, như đám mây “Mộng Vân” thuở nhỏ mẹ Duy nằm mơ thấy. Phạm Duy đã từng bỏ nhà theo một anh làm trò “quỷ thuật” sau khi bị mê hoặc bởi cuốn tiểu thuyết  gia đình (Sans Famille) của nhà văn Pháp Hector Malot. Cũng thật trùng hợp với tuổi thơ “bỏ nhà đi giang hồ” của Duy, tôi cũng có lần “quên về nhà” vì đi coi những trò ảo thuật của gánh hát Mai Thành Cát, đặc biệt rất say mê tiếng ngâm sa mạc của một người nghệ sĩ trẻ tuổi tên Sáu. Tôi vốn sanh trong gia đình âm nhạc, lại ưa nghệ thuật, nên khi nghe anh Sáu ngâm thì cảm thấy rất xúc động. Vãn hát đêm đó, tôi không về nhà mà ở lại ghe hát gặp anh Sáu. Hai anh em trò chuyện với nhau tới sáng, không muốn rời nhau. Ông Mai Thành Cát nhân thấy sự thân thiết của chúng tôi nên muốn xin cô tôi cho tôi đi theo gánh hát của ông để ông truyền nghề. Cô tôi không đồng ý, lại còn rầy tôi về tội đi coi hát mà không nhớ giờ về nhà.
Cuộc sống tuổi thơ của Duy gắn liền mật thiết với Hồ Gươm đầy thi vị. Trong tâm tưởng của Phạm Duy, Hồ Gươm là một nơi thơ mộng, như “con mắt buồn bã của người tình”, như một “hồn ma người đẹp” trong truyện Liêu Trai với mỗi buổi chiều mùa lạnh sương mù tỏa xuống mặt hồ. Duy thấy được những hoàn cảnh thực tế của nước hồ xanh đục lặng lẽ, những xác người treo cổ trên cây đa bên bờ hay trầm mình xuống nước hồ... qua đôi mắt trẻ con lúc nào cũng hừng hực nỗi... hiếu kỳ! Và Duy cũng đã chứng kiến những môi hôn ngọt từ các cặp tình nhân trên cầu Thê Húc dẫn lối vào đền Ngọc Sơn. Ngay cả con sông Hồng, nơi mà Duy hay chạy chơi trên bãi cát rộng vào mùa nước cạn, hoặc đứng coi mọi người trong khu phố phấp phỏng ngồi canh mực nước đề phòng lũ lụt vào mùa nước lũ, đã gắn bó không biết bao nhiêu cái tình thơ dại của Duy với cảnh vật nơi đây.
Tôi không có được Hồ Gươm đầy thi vị và sông Hồng rộn ràng khi nước cạn, lúc nước lũ như Duy, nhưng tôi được sống trong nông trại của cậu Năm tôi, mắt luôn nhìn những thửa ruộng xanh cò bay thẳng cánh, vào mùa cấy thì được nghe những câu hò điệu lý của những đoàn công cấy. Tôi cũng rất thương con sông Sầm Giang chảy qua trước nhà tôi tại Chợ Giữa, thích chèo đò ngang và tắm lội trong dòng sông Sầm Giang “rì rào dừa nước hai bên” (trong một câu thơ mà Xuân Diệu viết tặng tôi nhân dịp nghe đờn ca tài tử trên sông). Đêm đêm, vang tiếng hò đối đáp trên sông! Nơi này đã gắn liền với tôi rất nhiều kỷ niệm thân yêu, mộc mạc. Sầm Giang là con sông nối liền hai làng Vĩnh Kim Đông và Vĩnh Kim Tây, mà Chợ Giữa thuộc Vĩnh Kim Đông, cho nên những người ở Vĩnh Kim Tây mỗi sáng đều đi đò ngang sang Vĩnh Kim Đông để họp chợ. Vì thế mà tôi rất thích thay anh lái đò để chèo những chuyến đò ngang chở người lại qua. Trên những chuyến đò đó, tôi từng nhiều lần được thấy hình ảnh người mẹ đi chợ về, trên bờ đứa con ngồi chờ mẹ, rồi khi người mẹ đưa chiếc bánh phồng cho đứa con thì đứa nhỏ chạy lại ôm mẹ thật chặt, trong ánh mắt hiện lên niềm quấn quýt thương yêu rất xúc động và đậm đà tình mẫu tử. Qua những chuyến đò ngang ngày ấy, tôi đã làm một sợi dây nối kết đưa người mẹ về với con, và có lần tôi có dịp cứu 2 đứa trẻ sắp chết đuối.
Tôi cũng đã có dịp ghi lại những cảm xúc đó trong bài thơ “Vịnh cây chèo”, một bài tập trong lớp dạy văn và chữ Hán cho cấp tiểu học ở Trường Tam Bình (Vĩnh Long) của thầy Thượng Tân Thị - một thi nhân đã sáng tác 10 bài “Khuê phụ thán”, lúc tôi 13 tuổi:
“Một mình làm chúa giữa dòng sông
Bát cạy ngược xuôi tiếng đập đùng
Quyết chí đưa người qua bể khổ
Hết lòng cứu kẻ thoát trầm luân”
Duy cũng biết làm thơ từ lúc nhỏ, lại được những nhà văn lớn như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh chăm lo từ bé, nên chất văn chương bén rễ dần trong Duy là lẽ tự nhiên. Bài thơ đầu tiên của Duy phóng khoáng, nghịch ngợm mang đầy dấu ấn của tuổi thơ:
“Nhà tôi ở phố hàng Dầu
Số nhà 54, đứng đầu du côn”
Từ nhỏ đã có phong cách phóng túng, không chịu gò bó, thơ văn tự do nghịch ngợm, nhưng chất thơ trong người Duy rất dồi dào, về sau trong những bài hát do Duy sáng tác luôn luôn đầy thi vị.
Trong gia đình bên ngoại Phạm Duy có người họ Lưu, dòng dõi Lưu Vĩnh Phúc, bị Pháp gọi là “giặc”. Trong hồi ký, Duy viết: “Thế ra trong tôi có dòng máu nổi loạn à? Người Pháp gọi Lưu Vĩnh Phúc là giặc - Giặc Cờ Đen - nhưng đối với tôi, ông là người làm Cách Mạng”... Duy đã sớm nhận ra được những nỗi thống khổ của dân mình do thực dân Pháp gây nên, và tự nhận thức được những gì mà ông Duy làm không phải là việc làm của một kẻ “nổi loạn” chống lại luật pháp của kẻ mang quân đi đánh chiếm quê hương mình. Cái “nổi loạn” của người ông bên ngoại Duy là nổi loạn để làm cách mạng, để thoát khỏi cái ách gông xiềng, thuộc địa. Và cũng thật ngẫu nhiên, Duy cũng tình cờ được tiếp xúc với những nhà cách mạng yêu nước qua những bài hát tuyên truyền thời đó. Duy cảm thấy thích những bài hát này và những hành động cách mạng của các vị tiền bối đã khiến Duy xúc động, vì Duy tận mắt mục kích được hành động của những người anh hùng bằng xương bằng thịt ngay chính trên đất nước này chớ không phải nơi nào xa vời.
Và thật lạ, tôi cũng có cơ hội sớm tiếp xúc với những nhà cách mạng bằng xương bằng thịt ngay trên quê hương như Duy, nhưng không phải do tình cờ mà do họ là những người cùng tổ chức với mẹ tôi. Mẹ tôi là một người sớm gia nhập “Thanh Niên Cách mạng đồng chí hội”, tiền thân của Đảng Cộng sản và trong lúc tôi còn nhỏ đã giới thiệu với tôi những người bạn đồng hành, toàn là những người xả thân vì nước.
Tôi được những người cách mạng cùng tổ chức với mẹ cho nghe những bài hát như “Ơi hỡi đồng bào”, mà lạ thay Phạm Duy cũng tình cờ biết được bản đó. Tôi cũng được tiếp cận với một số bài do những nhà cách mạng phỏng theo làn điệu dân ca Pháp mà đặt lời Việt để nhắc nhở dân tộc Việt Nam là một dân tộc bị mất nước, bị trị. Thuở đó, tôi thường hát đi hát lại:
“Ơi hỡi đồng bào, ơi hỡi đồng bào!
Mau tỉnh dậy! Mau tỉnh dậy!
Nước mất! Nước đã mất rồi!
Dân lầm than! Dân lầm than!”
Bài ca lời Việt phỏng theo bài dân ca Pháp “Frère Jacques” (Thầy dòng tên Jacques) thì tại Hà Nội, Phạm Duy cũng đã nghe bài ấy:
“Hỡi hỡi đồng bào! Hỡi hỡi đồng bào!
Tỉnh dậy mau! Tỉnh dậy mau!
Nước ta đã mất rồi
Mau tỉnh mau, mau tỉnh mau!”
Ngày còn thơ ấu, tôi học trường tiểu học tại Tam Bình - Vĩnh Long. Tôi rất thích môn Récitation (trả bài học thuộc lòng bằng tiếng Pháp) và được thầy dạy cho cách đọc ngụ ngôn của La Fontaine (Le Loup et L’agneau), vừa đọc vừa ra bộ, diễn xuất làm con chó sói và con trừu (cừu). Cách học đó thật thích hợp với tánh ưa biểu diễn của tôi.
Còn Duy học trường tiểu học tại Hàng Vôi - Hà Nội. Duy cũng rất thích Récitation, được thầy dạy đọc, dạy diễn xuất người sĩ quan và người lính bị thương trong bài “Après la bataille” (Sau trận đánh) của Victor Hugo.
Trong thời kỳ tiểu học, tôi rất thích những bài học về sử ký hay luân lý mà hát lên theo điệu đờn ca tài tử, có khi bằng cả tiếng Pháp: “Mes chers enfants” theo điệu Hành Vân. Phạm Duy cũng thích y một bài đó bằng tiếng Pháp.
Cùng một bài Bình Bán Vắn mà tôi học 2 bài tiếng Việt:
“Liu tồn liu xáng u
Xáng trên đầu ba bốn cục u…”
Và tiếng Pháp:
“Il était une fois…
Une jeune fille appelée Jeanne d’Arc
Son père était Jacques d’Arc
Sa mère Isabelle Rosner”
(Ngày xửa, ngày xưa,
Có người thiếu nữ tên là Jeanne d’Arc
Cha tên là Jacques d’Arc
Mẹ là Isabelle Rosner)
Cũng giai điệu bài Bình Bán, Phạm Duy học lời ca khác:
“Tôi chờ cô tối qua
Đến bây giờ chẳng thấy cô qua…”
Mặc dầu không được học hết trung học vì bị người anh bắt chuyển sang học nghề, nhưng Duy vẫn rất ham học hỏi, rất thích tiếng Pháp và đặc biệt rất thích đọc sách. Nhờ trong nhà có người anh là Phạm Duy Khiêm rất giỏi về Pháp văn (ông là Thạc sĩ văn chương Pháp), lại có một tủ sách nên Duy thường hay lén đọc và đã làm quen với những nhân vật trong nhiều bộ tiểu thuyết bằng tiếng Pháp của các tác gia nổi tiếng.
Ở trong Nam, tại làng tôi có một người tự học tiếng Pháp và có một tủ sách riêng, tên là Trần Năng Thận, tôi hay gọi là bác Sáu Thận. Bác không cho ai mượn sách cả vì sợ bị người khác làm hư. Nhưng khi thấy tôi cẩn thận lúc đọc sách nên bác cho tôi thong thả muốn đọc bao nhiêu cũng được. Do đó, tôi cũng đã biết đến nhiều nhân vật trong các cuốn tiểu thuyết của những tác gia lớn giống như Phạm Duy. Đọc sách rồi, tôi thuật lại cho cô và mấy em tôi nghe nội dung sách bằng tiếng Việt. Cô tôi không đọc được tiếng Pháp mà vẫn biết rõ cốt truyện của tiểu thuyết Notre Dame de Paris của Victor Hugo, trong đó, anh chàng gù lưng Quasimodo yêu nàng vũ nữ Esmeralda...
Ngoài ra, anh em chúng tôi còn ưa thích cái việc đóng tuồng theo những nhân vật anh hùng hiệp sĩ, kiếm khách. Duy thì ưa đóng tuồng theo phong cách kiếm hiệp, còn tôi thì thích đóng tuồng cải lương. Tôi đã có thời kỳ mê đóng vai Tarzan - người hùng của rừng xanh, từng cởi trần đánh đu trên cây da, hú lên những tiếng hú vang dội như Tarzan ở rừng sâu. Còn Duy thì lại trở thành hiệp sĩ Zorro đeo mặt nạ, mang gươm đòi công lý.
Tôi thích xem bóng đá và cũng từng tổ chức nhiều cuộc đấu bóng đá cho Hội Thể thao Trường Pétrus Ký, ra Hà Nội luôn ủng hộ đội bóng đá của trường đại học bằng những hành khúc của Lưu Hữu Phước. Chúng tôi hát bản “Marche des Étudiants” (Sinh viên hành khúc) mỗi khi quả bóng lọt vào lưới đối phương.
Duy cũng mê đá bóng kinh khủng, luôn luôn theo dõi thành tích của Hội ÉCLAIR (Tia Sáng) vốn là hội bóng nhà, trụ sở ở ngay phố Hàng Tre. Mê đến độ nhớ tên các cầu thủ theo thứ tự ra quân, như nhớ một bài thơ không có vận:
Ty, (thủ môn) Tâm, Biềng (hậu vệ)
Mao, Tâm, Thịnh (trung phong)
Phao, Mai, Hựu, Trọng, Tín (tiền đạo)
Hồi còn nhỏ, tôi rất ưa xem xi-nê, thích nhất là cô đào Danielle Darieux. Duy cũng ưa xem xi-nê, mà thích nhất là cô đào Anabella. Té ra hai em chúng tôi cũng có sở thích giống nhau: cả hai nàng diễn viên mà hai anh em thích đều có đôi mắt xanh và mái tóc vàng. Thật là mơ mộng!
Trong những trò giải trí của con nít thời bấy giờ, tôi thích xem hát xiệc nhưng đồng thời cũng thích luôn trò ảo thuật, thôi miên và rất mê gánh hát của Mai Thành Cát. Duy cũng ưa hát xiệc, nhưng thích nhất những trò điều khiển thú dữ và mê gánh hát của Tạ Duy Hiển.
Và thêm nữa, hai tâm hồn lãng mạn cũng từng thả hồn vào những con sóng xanh ngoài đại dương. Chúng tôi rất yêu biển!
Hai anh em Duy và Khê đều mang thân phận trẻ mồ côi. Người thì mồ côi cha, kẻ thì mồ côi mẹ, và sau này là mồ côi luôn cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, có cái may là hai đứa nhỏ vẫn được người thân chăm sóc, dạy dỗ đàng hoàng, cho nên không có mặc cảm của một đứa trẻ mồ côi, không bị hoàn cảnh hẩm hiu làm cho cảm thấy nhiều đau khổ, mà cả hai đều tự tạo cho mình một cuộc đời của riêng mình, không chờ đợi sự che chở, dạy dỗ của cha mẹ một cách tuyệt đối giống như bao bạn bè cùng trang lứa.
  
2. Bước chân thanh niên vào đời
Thuở đó, ca sĩ Tino Rossi được người Việt tôn sùng. Những người nào thích ca sĩ này thì vào nhóm mang tên là “Ái Tino”, nếu ai không thích thì vào nhóm “Ố Tino”. Trong Nam, tôi đứng về những người “Ái Tino”, chẳng những thích nghe Tino Rossi biểu diễn mà chính tôi cũng học thuộc và biểu diễn những bài do Tino giới thiệu qua dĩa hát, còn bắt chước sắm luôn những trang phục y hệt như thần tượng. Tại Hà Nội, cũng có sự kiện 2 phe như thế, Phạm Duy cũng ở trong nhóm Ái Tino nhưng Phạm Duy không chỉ ưa Tino Rossi mà còn thích Albert Préjean và ca sĩ trào phúng Georges Milton.
Khi tôi chỉ huy dàn nhạc Schola Club, bài đầu tiên dàn nhạc giới thiệu là bài “C’est à Capri” (Tại thành phố Capri, nơi tôi đã gặp nàng). Trong những bài Phạm Duy thích, Duy vẫn còn nhắc lại bài đó.
Lúc ở Pháp, tôi rất thích nữ ca sĩ Juliette Greco, chuyên hát những bài theo chủ nghĩa hiện sinh với chất giọng khàn khàn rất đẹp. Đồng thời, cũng có một nữ ca sĩ rất trẻ tên Nicole Louvier mới xuất hiện, phong cách của Nicole là tự hát và tự đệm guitar. Cô lại biết sáng tác những bài hát có giai điệu ngọt ngào, mang hơi hướng âm nhạc phương Đông. Tôi hết sức thích phong cách của cô này, nên đã từng đề nghị sử dụng đờn tranh để đệm đờn cho cô hát. Louvier rất thích nên đã có mời đài phát thanh (Radio France) tới ghi âm lại những bài cô hát mà tôi đàn tranh để làm kỷ niệm, nhưng cô nổi tiếng không bao lâu rồi giây phút huy hoàng ấy cũng thoáng qua.
Tôi không ngờ rằng Phạm Duy cũng đã gặp ca sĩ đó và sáng tác lời Việt Nam cho những bài ca của cô. Lúc Phạm Duy sang Pháp, Duy cũng thích 2 người ca sĩ đó nhứt: Juliette và Nicole. Nhưng Phạm Duy có lẽ tiếp xúc với họ gần gũi hơn tôi, nên nhớ đến một điều rất thực là “cô bé Nicole dễ thương mà hôi nách”! Phạm Duy lại còn đặt lời Việt cho bản “Qui me délivra” (Duy để tựa là “Ai sẽ giải thoát tôi?”) mà Nicole tự sáng tác và hát.
Trong lãnh vực điện ảnh cũng vậy, chúng tôi đều làm những việc giống nhau: viết phụ đề phim, lồng tiếng phim (từ tiếng Pháp, Anh sang tiếng Việt) và cả việc đóng phim. Nhưng rồi sau khi có được tiền thù lao rất hậu, tôi lại trở về soạn Luận án Tiến sĩ tại Đại học Sorbonne. Mỗi ngày, tôi vẫn xếp hàng để ăn cơm tại quán ăn sinh viên cho đỡ tốn. Đối với tôi, tham gia vào điện ảnh là để có một số tiền sanh sống mà làm luận án Tiến sĩ, mặc dầu được nhiều hãng phim bên Anh mời sang đóng nhiều phim khác, nhưng tôi từ chối. Phong cách đó cũng rất tài tử.
Ngược lại, Phạm Duy khi bước chân vào điện ảnh cũng làm tất cả những công việc như tôi đã làm, nhưng với tư cách là một nhân viên chuyên nghiệp của Trung tâm Điện ảnh Việt Nam. Phạm Duy đã có lần làm cả đạo diễn cho nhiều phim. Trong thời gian 10 năm làm việc ở Trung tâm Điện ảnh, với khởi đầu là việc viết truyện phim cho tới khi trở thành phó giám đốc trung tâm, Phạm Duy đã thực hiện nhiều bộ phim giá trị về âm nhạc, kịch nghệ Việt Nam, như phim về hát bội, các điệu hò và một thiên nghiên cứu về nhạc Chăm.
Duy đã trải qua cuộc sống tại nông thôn rất lâu, sống chan hòa với những người nông dân và cảnh vật miền quê, lại hưởng được những mối tình thôn dã. Chính cuộc sống như thế đã giúp cho Duy có thêm kinh nghiệm ở đời, vừa làm giàu thêm chất liệu cho sự sáng tác của Phạm Duy sau này.
Tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội từ năm 1941, sống cuộc đời sinh viên trường thuốc, không có cơ hội vui sống cảnh thiên nhiên thôn dã, gặp gỡ những người nông dân như Phạm Duy. Những người tôi gặp gỡ hầu hết là sinh viên trường đại học, nữ sinh Trường Đồng Khánh thuộc giới tiểu tư sản, lại bắt đầu sống giữa những người thanh niên lúc đó đang theo một phong trào mang tên là “vui vẻ, trẻ trung”, chỉ biết ăn mặc đẹp, tán gái thị thành, khiêu vũ những đêm cuối tuần trong các vũ trường. Tôi cũng đã gặp nhiều thiếu nữ Hà thành, nhiều cô rất đẹp và giỏi. Các cô đó quyết định rằng “phi đại học bất thành phu phụ”, phải là người lên tới đại học thì các cô mới ưng. Nhưng tôi không bao giờ bị các cô cám dỗ mà quên đi nhiệm vụ chính là học hành. 
Cuối năm 1944 - đầu 1945, sinh viên Hà Nội đã chứng kiến được những nạn nhân chết đói bên lề đường nên khi trở về Nam sau phong trào xếp bút nghiên, tôi lập ra một nhóm diễn hài kịch của Huỳnh Văn Tiểng và hát những bài tân nhạc của Lưu Hữu Phước, đi khắp Hậu Giang tổ chức những đêm văn nghệ bán vé lấy tiền mua gạo cứu đói. Chúng tôi rất được trí thức ở các tỉnh ủng hộ bằng cách bán vé, có người lại mua vé cho các trường để học sinh đi xe miễn phí, cùng đi khắp nơi và khi trở về Sài Gòn, chúng tôi có dịp diễn tại rạp hát Aristo, lúc đó nổi tiếng là một rạp hát giới thiệu tân nhạc nhiều nhứt.
Cùng trong lúc đó, Phạm Duy không còn tham gia gánh Đức Huy đang hát cho đài Pháp Á những bản tân nhạc 3 lần trong một tuần. Nhưng khi biết được có nạn đói do người Pháp và người Nhựt tranh chấp nhau, không cho chở gạo thừa thãi miền Nam ra miền Bắc đang thiếu thốn nên gây ra một nạn đói rất khủng khiếp, Phạm Duy cũng lấy tiếng hát của mình tham gia một nhóm thanh niên giới thiệu tân nhạc, có lần biểu diễn tại rạp Aristo để lấy tiền mua gạo cứu đói. Chúng tôi không gặp nhau mà cùng có những cách làm giống nhau ở chỗ đem tài nghệ của mình để phục vụ đồng bào trong lúc khó khăn.
Năm 1947, tôi bị bắt nhốt vào khám Catinat vì bị nghi là Việt Minh tại thành. Nhưng sau 3 tuần lễ, nhờ sự can thiệp của một vài người quen, đồng thời Ban kháng chiến tại thành đã lo lót cho một số mật thám, nên tôi được thả ra.
Trong khám, tôi được 3 phe ủng hộ: phe kháng chiến cùng tôi chia sẻ những viên đường từ bên ngoài tiếp tế vào; phe nhóm những người Quảng Đông (bị nhốt vì làm giấy thông hành giả cho Việt Minh) thích tôi vì đã thuật lại những chuyện vui cho nhóm này nghe, và phía du côn chiếm cả khu cầu tiêu là khu rộng rãi nhất do mùi hôi thúi cho nên không ai chịu nằm gần đó. Trong số những người tù nhân du côn đó, có một anh trước kia giúp việc cho người bà con của tôi, mà là “sếp sòng” đám này, gọi tôi bằng “cậu Hai” nên không ai dám làm gì tôi hết. Tại đó, các anh em tù nhân lại đục một ống nước để cho nước nhỏ giọt, lấy nước đó rửa mặt hoặc hứng vào lon để dành xối vào người khi nóng bức.
Năm 1951, Phạm Duy cũng bị bắt và nhốt vào khám Catinat cùng một lúc với Lê Thương và Trần Văn Trạch, nhưng bốn tháng sau mới được thả ra. Trong khám, Duy gặp một người từng có tiền sự vào tù ra khám, hiện đang bị nhốt vào Catinat để chờ ngày bị đưa ra Côn Đảo nên được tù nhân gọi là “ngục vương”. Ông này có cảm tình với Duy nên cho Duy dựa lưng vào một bức tường gần cầu tiêu để ngủ. Ở tù mà hai anh em chúng tôi cũng được người ta thương mến, thật là khó có trường hợp nào giống nhau đến vậy!
Tôi thích làm văn nghệ hơn làm chánh trị. Với tánh cách của tôi, tôi thấy trong chánh trị phần nhiều phải nói tiếng nói của lý trí. Một khi tiếng nói của lý trí đã lấn át rồi thì tiêu diệt cả tình cảm. Còn lý trí của tôi thì phải có đường cho tình cảm thoát ra, lý trí chỉ được sử dụng như một phương tiện để kiểm tra tình cảm đừng đi quá đà mà thôi.
Đời tôi không muốn cầm súng bắn ai, mà cũng không muốn ai cầm súng bắn mình, cho nên khi trình bày với cấp lãnh đạo kháng chiến, tôi đã xin phép để được làm những công việc hậu phương như làm công việc cứu thương trong bệnh viện, hay làm trong dàn nhạc... Khi nghe những lời trình bày của tôi, những người có trách nhiệm trong Ủy ban kháng chiến với một tinh thần cởi mở đã chấp nhận quan điểm của tôi, bổ nhiệm tôi làm Nhạc trưởng quân đội Nam bộ, với cấp Đại đội trưởng, được quyền lưu thông khắp Nam bộ và sung công những nhạc cụ, nhạc khí, kể cả nhạc sĩ nào cần thiết. Tôi đi kháng chiến với lý tưởng của một người thanh niên yêu nước và làm việc theo khả năng có thể của mình để giúp cho đất nước.
Phạm Duy cũng vậy, càng đi sâu, càng biết nhiều chuyện trong chánh trường, Duy càng thấy những mâu thuẫn giữa các đảng phái, đến nỗi Duy cho rằng đó không là những gì lạ lẫm nữa. Bản thân Duy cũng cảm thấy rằng mình không phù hợp với việc làm chánh trị. Nói như vậy, nhưng không phải lúc đất nước lâm cảnh khốn cùng mà Duy bỏ mặc làm ngơ. Duy cũng đi kháng chiến cứu nước, dấn thân không kém những người chiến sĩ khác. Trên con đường dấn thân kháng chiến đó, Duy đã nhiều lần nhìn thấy những cảnh thực xảy ra trước mắt mình chứ không phải chỉ là những điều do chính Duy tưởng tượng. Duy đã trải nghiệm, đã kinh qua những xúc cảm theo thời cuộc trên con đường chiến đấu vì lòng yêu nước của mình. Trong những bài hát của mình, Duy đã đem những hình ảnh thực tế đó vào mà bày tỏ tinh thần yêu nước, yêu dân tộc và đặc biệt là tinh thần hòa giải. Duy chẳng những thông cảm với người chiến sĩ vì nước xả thân trên mặt trận mà còn ca ngợi những chiến công của họ trên chiến trường, chẳng những hát về những người lính ngoài tiền tuyến, ca ngợi tính chiến đấu mà vẫn không quên những người nơi hậu phương đã âm thầm giúp đỡ tinh thần, vật chất cho người chiến sĩ yên tâm cầm súng ra trận, không quên những nỗi đau khổ, nhớ thương của người vợ ngày ngày ngóng tin chồng, người con đợi cha về, người mẹ lo lắng cho đứa con đang đi đánh giặc ngoài xa... 
Cũng như tôi, Duy là người yêu văn nghệ. Duy sống cho con đường nghệ thuật của mình hoàn toàn, đặt cả tâm huyết ở đó. Cả đời này, vì nghệ thuật mà Duy đã cống hiến trọn vẹn cả tình cảm lẫn tài hoa.
   
3) Phạm Duy trong mắt tôi
Đối với tôi, Phạm Duy là một người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ “nhạc sĩ”). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất “Phạm Duy”, nhưng cái riêng đó không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam.
Duy đã làm những cuộc phiêu lưu “chiêu hồn nhạc” hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và phong phú vô cùng! Duy “chiêu” được “hồn” ông thần Nhạc và thành công trong nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng “mê” lối “chiêu hồn” của Duy rồi chăng? Thành công - đối với Duy mà nói - không phải chỉ sớm nở tối tàn, mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật. Có những thể loại nhạc đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau “chịu” đi theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc... cũng làm lay động con tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian.
Duy không chỉ sáng tác được nét nhạc hay bằng khả năng cảm nhạc thiên bẩm, mà còn có thể tự mình đặt lời nhạc rất đẹp, rất thi vị, mang đậm tâm hồn, tư tưởng của người Việt Nam. Đó không phải là khả năng tự có một sớm một chiều, mà do sự quan sát, học hỏi, rèn luyện của Duy, cộng thêm cái khiếu cảm nhận tinh tế trong đời sống hằng ngày, trong những cuộc “phiêu lưu” đó đây, rong ruổi khắp bốn phương trời từ Đông sang Tây, để góp nhặt từng câu chuyện từ chính mình, góp nhặt những câu chuyện của quê hương, dân tộc, phận người... mà dệt nên những lời tình tự xứng đáng được lưu vào trang nhạc sử Việt.
Bên cạnh một con người Phạm Duy - nhạc sĩ sáng tác, bản thân Duy còn là sự hóa thân của rất nhiều những con người khác mang những khía cạnh khác mà không phải ai cũng có thể nhìn nhận thấy rõ ràng, đầy đủ. Thuở còn trai trẻ, cậu thanh niên Phạm Duy (hay ta phải gọi bằng cái tên Mộng Vân - áng mây mộng ước - do chính cậu tự đặt ra cho mình?) đã từng là một kẻ du ca rong chơi năm tháng trên nhạc lộ thênh thang cùng với sức trẻ yêu đời, lao vào đời bằng quả tim rực cháy tuổi thanh xuân. Và dẫu cho có bao nhiêu năm qua đi nữa, Duy vẫn là một người ca sĩ tài hoa thực thụ, một ca sĩ chuyên nghiệp rất danh tiếng thuở trước tại Đài Pháp Á, một ca sĩ tiên phong trong phong trào đưa nhạc mới lên hát giữa các màn chuyển cảnh trên sân khấu gánh hát cải lương Đức Huy - Charlot Miều... Trong những chương trình âm nhạc, những buổi biểu diễn văn nghệ trong nước hay tại nước ngoài, “ca sĩ” Phạm Duy luôn làm cho người khác thấy được cái tài biểu diễn ca hát thiên bẩm, khi tự mình hát lên những sáng tác của mình một cách sống động nhứt. Một người nhạc sĩ có đầy nội lực hút hồn người khi ôm đàn say sưa hát những bài ca với chất giọng truyền cảm của một ca sĩ. Chính Duy đã làm được điều lạ thường đó và cho tới ngày nay, Duy vẫn là kẻ du ca hát lên những lời ca đẹp và thơ, được nhiều thế hệ thuộc lòng mỗi khi Duy đem tác phẩm âm nhạc của mình giới thiệu trên sân khấu cả nước.
Ngoài tài sáng tác không thể phủ nhận, tài ca hát thu hút, Duy khiến cho người khác không khỏi say mê lạc bước vào giọng nói trầm ấm, duyên dáng, thi vị của chất giọng Hà Nội thanh lịch khi Duy dẫn dắt câu chuyện âm nhạc của chính mình. Trời phú cho Duy sự đa năng trong nghề nghiệp, trong dòng máu nghệ sĩ vốn đã tài tình. Nếu nép sau tấm màn sân khấu là người nhạc sĩ, đứng trên sân khấu biểu diễn với phong cách một ca sĩ, thì Duy cũng đầy phong thái duyên dáng khi thực hiện vai trò người dẫn chương trình. Thật là một kỳ tài! Duyên ăn nói của Duy không thua kém những nhà văn thuyết trình trước công chúng, đôi khi lại có phần hấp dẫn hơn vì trong chất văn chương còn thấm nhuần hơi nhạc. Nghe Duy kể từng kỷ niệm, trải từng cung bậc cảm xúc trong lúc giới thiệu âm nhạc có khi còn thích thú hơn là đọc một tập khảo cứu về những nhạc phẩm này.
Trước khi sang Pháp để tiếp cận với Âm nhạc học (học tại lớp dạy Âm nhạc học của thầy Jacques Chailley năm 1954) thì Phạm Duy đã là một nhà “Dân tộc Âm nhạc học” hẳn hòi rồi! Ở Việt Nam, Duy đã tự mình ghi âm, ghi hình, sắp loại các bài Dân ca và các bài Lý, những câu Hò ở nông thôn Việt Nam... và tự ký âm các bài nhạc đó. Duy đã có cách nhìn rất khoa học trong việc phân loại, sắp xếp và ghi chép những vấn đề liên quan trong khi tìm hiểu về Dân ca, Dân nhạc Việt Nam. Việc làm của Phạm Duy lúc đó cho ta thấy rằng Phạm Duy có phong cách của một người nghiên cứu Dân tộc Nhạc học, có đầu óc tìm tòi và làm việc chuyên nghiệp không thua kém gì những nhà nghiên cứu thực thụ.
Ngoài việc sưu tầm và nghiên cứu Dân ca lúc đầu, sau này trong những chuyến đi xuyên Việt, Phạm Duy lại có dịp tiếp cận với nhiều bộ môn âm nhạc khác như: Ca Huế, Đờn Ca Tài Tử, các điệu Hát Lý, điệu Hò của Trung, Nam bộ, và đặc biệt hơn nữa là thể loại Âm nhạc Dân tộc thiểu số ít ai chú ý tới... Mỗi lần tiếp cận là mỗi lần Duy ghi chép rất kỹ lưỡng, sâu sắc để sau này có dịp cho ra đời cuốn “Đặc khảo về Dân ca Việt Nam” mà khi được đọc, tôi đã rất ngạc nhiên; đồng thời, cũng thán phục tinh thần nghiên cứu của bạn mình. Duy theo dõi nhiều và đi sát phong trào nhạc mới từ lúc khởi thủy cho đến những giai đoạn phát triển ra nhiều trào lưu. Duy cũng có được những điều kiện thuận lợi khi quen biết với những bạn bè, các bậc tiền bối văn nghệ sĩ, nhất là giới nhạc sĩ và từng nhiều lần trao đổi, trò chuyện với họ, biết được từng thời điểm ai làm gì, sáng tác như thế nào... Đó là một lợi thế của người nhạc sĩ có óc nghiên cứu và phân tách tài tình từ trong máu như Duy. Từ những lợi thế như vậy, mỗi nhạc phẩm của Duy đưa ra đều mang tánh cách thời sự, gắn liền với từng sự kiện xảy ra trong đất nước: thời bình, thời chiến, thắng trận, thất bại, thế thời đổi thay... và không thiếu những hình ảnh rất chân thật, sống động ở những nơi mà dấu chân Duy đã đi qua, in lại trong ký ức một cách sâu sắc rồi trở thành những hình tượng nghệ thuật đặc biệt trong âm nhạc. Tôi cho rằng trong con người Duy, không những có sức khám phá của một nhà khoa học mà còn hội đủ các yếu tố cần có nơi một nhà nghiên cứu, một sử gia, một nhà xã hội học, một văn nhân biết ghi lại quá trình làm việc và suy tư của mình.
Bên cạnh những Phạm Duy nghệ sĩ và Phạm Duy tài tình trong nghiên cứu, cũng ít ai để ý tới một Phạm Duy - nhà kinh doanh, nhà sản xuất âm nhạc cực kỳ nhạy bén, mát tay. Duy tự mở studio riêng cho mình, đi tiên phong trong việc dùng kỹ thuật hiện đại để phục vụ cho công việc sáng tạo nghệ thuật. Xem có vẻ như Duy luôn muốn thử thách mình ở mọi lãnh vực, hệt như cái bản tánh hiếu kỳ ưa thích tìm hiểu mà ông Trời ban cho. Mà thật lạ, lãnh vực nào Duy cũng làm rất tốt và thành công. Óc khám phá không bao giờ để Duy ngồi yên. Duy tự tay thâu âm băng dĩa nhạc, sử dụng tài tình máy vi tính, tự thiết kế và phát hành sản phẩm âm nhạc của mình, theo rất sát công nghệ hiện đại không thua kém chi việc theo sát phong trào âm nhạc khắp nơi. Đồng thời, có thể coi Duy giống như người làm quảng cáo tài năng khi chính bản thân Duy tự đi giới thiệu sản phẩm của mình đến với công chúng... Với bấy nhiêu công việc làm đó cũng đủ thấy Duy là một người đa tài, bản lãnh.
Duy mặc dầu Trời sanh có tánh ngang tàng, nhưng cũng là người hiểu tôn ti trật tự khi vẫn biết nghe lời người anh của mình là Phạm Duy Khiêm. Trong lúc đang ưa thích học về văn hóa và học rất giỏi mà phải bỏ để vào một trường học nghề (bá nghệ) theo sự quyết định của người anh, dầu có đắn đo hay không thỏa mãn, nhưng Duy vẫn nghe theo lời anh của mình. Suốt cuộc đời, đứa con Phạm Duy lúc nào cũng nghe theo lời của mẹ, vâng theo sự chỉ dạy, săn sóc, đảm nhiệm trông coi việc học tập từ những người bạn của cha mình (các ông Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh). Duy cũng là người con thương cha thương mẹ, thương anh em trong gia đình (nhắc về người anh Phạm Duy Nhượng); nói rộng ra, trong xã hội thì Phạm Duy có cả tinh thần yêu thương đất nước một cách sâu sắc đậm đà và không lay chuyển. Cho nên, trong mỗi trường hợp, nhiều khi có những hành động mà người thường khó hiểu, cho rằng Phạm Duy là người ham danh ham lợi, nhưng riêng tôi thì lại thấy rằng không có lúc nào mà Phạm Duy không yêu nước Việt Nam. Phải thực sự yêu quê, yêu nước mới có thể sáng tác ra những bài ca tuyệt đẹp cả nhạc lẫn lời và những bài hát đi sâu vào tim của mỗi người Việt Nam ở các tầng lớp và mọi thế hệ trong xã hội.
Về cuộc sống của Duy, trong mắt tôi, Duy là một người trọng gia đình, luôn nhớ đến vợ con của mình, luôn muốn vợ chồng, con cái đều cùng chung sống dưới một mái nhà, dẫu cho trong đời Duy đã từng là một kẻ “giang hồ phiêu bạt”. Khi tôi đến thăm vợ chồng Phạm Duy, thì luôn thấy cảnh sum họp gia đình rất đầm ấm. Điều đó khiến cho tôi thêm phần quý trọng người bạn thân của mình, và cho rằng nhờ cách ứng xử khéo léo trong, ngoài của Duy mà có thể giữ được nếp nhà một cách thuần tuý Việt Nam như vậy. Với các con, mặc dầu mỗi người đều có cá tánh riêng, đều ưa thích tự do phóng túng như Duy, nhưng người cha chưa hề bó buộc con cái. Đối với bố, các cháu đều có sự kính phục yêu thương.   
Tại Mỹ, Duy còn lập phòng thu riêng tại nhà và tự mình sản xuất băng đĩa, mọi việc đều do các con của Duy đứng ra giúp bố thực hiện. Kể cả việc mua nhà cũng vậy. Khi tính đến việc mua nhà thì cũng ít khi nghĩ phải ở xa nhau. Ít có gia đình nào tại Mỹ lại có cha mẹ, con cái sống chung như gia đình Duy. Các con thì mỗi tháng mời cha mẹ và anh em cùng ăn cơm chung với nhau tại những nhà hàng có thức ăn ngon, do mỗi người đãi một lần. Dẫu Duy là người phóng túng nhưng vẫn giữ những nề nếp truyền thống của người Việt Nam, giữ lại được những nét sinh hoạt của người miền Bắc trên xứ sở tự do này. Duy khéo léo sắp xếp, ứng xử để gia đình có cuộc sống như cuộc sống của những gia đình truyền thống Việt Nam. Ở nước Mỹ - nơi mà người ta coi trọng quyền lợi và cuộc sống cá nhân, gia đình Phạm Duy là một gia đình khó kiếm.
Có những lúc thăng trầm, Duy nhận tiếng khen cũng nhiều mà lời lẽ chê bai cũng không phải ít. Nhưng Duy là người biết phục thiện, biết nghe lời khen lẫn những tiếng chê, không bao giờ để trong bụng sự hận thù. Tinh thần ấy thể hiện trong nhạc phẩm Mẹ Việt Nam:
“Mẹ Việt Nam không đòi xương máu
Mẹ Việt Nam kêu gọi thương nhau”
Vì những lẽ kể trên mà tôi đã gọi Duy là một người nhạc sĩ toàn diện với tất cả ý nghĩa của danh từ đó. Suốt chiều dài thời gian của dân tộc, Duy đã “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”. Từng sự kiện xảy ra với quê hương, Duy đều đi sát bên, đều cảm nhận bằng thứ tình cảm của một người con của dân tộc, người cháu, người anh, người em của thế hệ mình.
Phạm Duy là con người muốn sống tự do, không muốn sống theo quy luật, lề lối một cách áp đặt, bó buộc. Trên đường chánh trị thì không có đảng phái. Về mặt tín ngưỡng thì không nghiêng về phía tôn giáo nào. Duy sống theo con người của Duy, một con người tự do tự tại, phóng túng và ngang tàng, nhưng cũng “thẳng” và “thật” đối với chính cuộc sống của mình.
Một số người cho rằng Duy không có lập trường chánh trị, nhưng họ chưa, hoặc không chịu nhìn vào cái tình yêu nước thương nòi luôn sôi sục trong con người Duy. Duy là một người con có hiếu với cha mẹ và có một lòng yêu nước theo quan điểm của mình. Từ trong những tác phẩm âm nhạc, người ta đã thấy rõ tình yêu Việt Nam mà Duy hằng gieo vào lòng bao người yêu nhạc qua những “tiếng nước tôi”, qua những hình ảnh gần gũi quen thuộc gợi lên bao nhiêu kỷ niệm về dân tộc và con người Việt Nam. Không chỉ hiện diện trên từng bản nhạc, lời ca, phải có tình yêu thực sự bắt nguồn từ chính con tim nồng nàn yêu thương thực sự mới khiến cho tình yêu đó vĩnh hằng cùng năm tháng. Duy luôn luôn yêu quê hương mình, đó là sự thực, bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu. Đối với Duy, lúc nào và ở đâu cũng một lòng quý trọng tự do của đất nước, không bao giờ chấp nhận sự đô hộ của ngoại bang. Nhưng Duy luôn tôn trọng lập trường của những người khác như có lần Duy đã nói với tôi. Và mục đích cuộc đời của Duy chỉ là làm cách nào để cho đất nước giàu mạnh hơn trong mọi mặt. Chính Duy đã hết lòng tham gia vào văn hóa văn nghệ để làm giàu thêm cho lãnh vực này của dân tộc.
Trong cách ứng xử ở đời, Duy luôn có một thái độ hòa giải và luôn mong rằng dân tộc Việt, dầu ở miền nào, đều coi nhau như anh em ruột thịt “nhìn Trung Nam Bắc xếp hàng mến nhau” (Tình ca) với tấm lòng rộng rãi bao la, yêu thương và tha thứ (Mẹ Việt Nam - trong chương “Biển Mẹ”), chẳng bao giờ muốn “đòi xương máu” mà chỉ “kêu gọi thương nhau” (Mẹ Việt Nam - đoạn chót).
Thỉnh thoảng, trong những trường hợp bất khả kháng về chánh trị, hoặc là những sự hấp dẫn nhứt thời về đời sống vật chất, Duy có những sáng tác không phù hợp với bản chất của chính mình, nhưng đó chỉ là vài trường hợp rất ít trong những giai đoạn rất ngắn so với cuộc đời và gia tài sáng tác đồ sộ của Duy. Theo tôi, tuy Duy không phải là một con người toàn thiện toàn mỹ, nhưng là một người đối với mình trước sau như một, và phải nhìn nhận rằng, bạn của tôi là một người yêu quê hương đất nước!
Ước mong rằng Duy luôn có được cuộc sống an nhiên tự tại, an bình với đời, với người và với mình, làm được những việc Duy yêu thích mà thấy rằng cuộc đời vẫn đẹp, để “... khi đêm chết chưa về” thì “nắng chiều hồng tươi hơn nắng trưa”.
   
Duy thương mến!
Khê vẫn còn nhớ lần đầu tiên nghe Duy trình bày CD-ROM “Con đường cái quan” do chính tay Duy tự làm trên đất Mỹ, không những với lời và nhạc đầy cảm xúc mà còn nhìn thấy được những phong cảnh đẹp của quê hương Việt Nam, Khê đã ôm Duy và khóc. Chúng ta có chung những tình cảm, những đồng điệu mà không phải ai cũng có thể hiểu được tất cả. Duy ơi, chúng ta đã đến, đã đi và đã về, đã làm và đã sống, đã yêu và đã mơ, đã thăng và đã trầm, đã cười và đã khóc... suốt hai thế kỷ này. Mong rằng tình thân của chúng ta mãi vĩnh hằng, mãi đẹp như những lời Khê từng chúc Duy, cũng như chúc cho anh em mình khi tròn cửu thập:
“Biết nhau quá tuổi đôi mươi
Hôm nay mừng bạn chín mươi tuổi rồi
Mặc cho vật đổi sao dời
Đến khi trăm tuổi còn ngồi bên nhau
Đến khi trăm tuổi đẹp lời chúc nhau”
 
Sẽ “còn ngồi bên nhau”, phải không Duy?
  
Bình Thạnh, Sài Gòn,
mùa Đông Nhâm Thìn 2012
Trần Văn Khê

(Theo Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số báo 808 & 809 -
http://kienthucngaynay.info , 31-01-2013)