KINH
GIÀ-LAM
伽藍經 (Già lam kinh), Trung A-hàm, MA 16
Tuệ Sỹ dịch và chú
(Tương
đương với Kinh Kalama, AN 3:65)
Một
thời Đức Phật
trú tại Già-lam viên [1], cùng đại
chúng Tỳ-kheo, đến Ki-xá Tử [2],
trụ trong vườn Thi-nhiếp-hòa
[3], phía Bắc thôn Ki-xá Tử.
Bấy
giờ những người
Già-lam ở Ki-xá Tử
nghe đồn
Sa-môn Cù-đàm thuộc dòng họ Thích,
đã từ
bỏ dòng
họ Thích, xuất gia học
đạo, đang trú tại
Già-lam viên, và cùng đại chúng Tỳ-kheo
đến Ki-xá Tử
này, trụ trong
rừng Thi-nhiếp-hòa ở phía
Bắc thôn Ki-xá Tử. Vị Sa-môn
Cù-đàm ấy có tiếng
tăm lớn, truyền
khắp mười phương
rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm là Như Lai,
Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế
Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật,
Thế Tôn. Vị
ấy ở trong
thế gian này giữa Chư Thiên,
Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ loài
người cho đến loài trời,
tự tri tự
giác, tự tác
chứng, thành tựu và an trụ.
Pháp mà vị ấy thuyết, khoảng
đầu thiện, khoảng
giữa thiện, cứu
cánh cũng thiện, có nghĩa,
có văn, hiển hiện
phạm hạnh thanh tịnh
trọn đủ’. Nếu
gặp được Đức
Như Lai, Vô Sở
Trước,
Đẳng Chánh Giác để
tôn trọng,
lễ bái cúng dường, thừa
sự, thì sẽ
được nhiều
thiện lợi. Chúng ta hãy cùng nhau đến gặp Sa-môn Cù-đàm
để lễ bái, cúng đường”.
Những
người Già-lam ở
Ki-xá Tử,
nghe như vậy rồi,
mỗi người cùng với
quyến thuộc của
mình kéo nhau ra khỏi Ki-xá Tử,
đi về
phía Bắc,
tới rừng Thi-nhiếp-hòa.
Họ muốn gặp Đức Thế Tôn
để lễ bái
cúng dường.
Đi đến chỗ Phật ngụ, những
người Già-lam ấy hoặc
có người lễ
bái cúi đầu
dưới chân Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chào hỏi Đức Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chắp tay hướng đến Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người từ đàng xa thấy Đức Phật rồi im lặng ngồi xuống.
Lúc đó,
những người Già-lam đều
ngồi yên. Đức Phật
thuyết pháp cho họ, khai thị,
giáo giới, khiến cho hoan hỷ,
được lợi ích. Sau khi bằng vô lượng phương
tiện thuyết pháp, khai thị,
giáo giới, khiến cho hoan hỷ,
được lợi ích, Ngài ngồi im lặng.
Bấy
giờ những người
Già-lam sau khi được Đức
Phật thuyết pháp, khai thị, giáo giới, khiến
cho hoan hỷ, được lợi
ích, họ đều từ
chỗ ngồi đứng dậy,
sửa áo trịch vai bên hữu,
chắp tay đến hướng
Đức Phật, rồi
bạch Đức Thế Tôn
rằng:
“Thưa
Cù-đàm, có một vị Sa-môn,
Bà-la-môn đi đến Già-lam chỉ tự khen ngợi tri kiến
của mình mà chê bai tri kiến
của người khác. Thưa
Cù-đàm, lại có một
vị Sa-môn, Bà-la-môn đi đến
Già-lam cũng chỉ
tự khen
ngợi tri kiến của
mình mà chê bai tri kiến của
kẻ khác. Thưa Cù-đàm,
chúng tôi nghe vậy liền
sanh nghi hoặc: Những vị Sa-môn,
Bà-la-môn ấy, vị
nào thật?
Vị nào hư?” [4]
Đức Thế
Tôn nói rằng:
“Này các người
Già-lam, các người chớ sanh
nghi hoặc.[5]
Vì sao vậy? Vì nhân có nghi hoặc liền sanh ra do dự. [6]
Này các người
Già-lam, các người tự mình
không có tịnh trí để
biết
có đời sau hay không có đời sau. Này các người Già-lam, các người cũng
không có tịnh trí để
biết
điều đã
làm có tội hay không có tội. Này các người Già-lam, nên biết các nghiệp
có ba cái là nguyên nhân, là sự
tập
khởi, là căn bản
là duyên của nó [7]. Những gì là ba? Này các người Già-lam, tham là nhân, là tập,
là bản, là duyên của các nghiệp.
Này các người Già-lam, nhuế
và si là nhân, là tập, là bản, là duyên của các nghiệp.
“Này các người
Già-lam, người có tham bị
tham che lấp,
[8] tâm không nhàm đủ, hoặc
sát sanh, hoặc lấy của
không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết
mà nói dối, hoặc lại uống
rượu. Này các người Già-lam, người có nhuế
bị nhuế che lấp, tâm không nhàm đủ, hoặc sát sanh, hoặc lấy của
không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết
mà nói dối, hoặc lại
uống rượu. Này các người Già-lam, người có si bị si
che lấp, tâm không nhàm đủ, hoặc
sát sanh, hoặc lấy của
không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết
mà nói dối, hoặc lại
uống rượu.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc giết
hại, dứt bỏ sự giết hại,
dẹp bỏ
dao gậy;
có tàm, có quý, có tâm từ
bi, làm lợi
ích cho tất cả, cho đến
côn trùng. Vị ấy đối với
sự sát sanh, tâm đã trừ sạch. “Này các người Già-lam, Đa
văn Thánh đệ
tử xa
lìa việc lấy của
không cho, đoạn trừ việc lấy của
không cho; vui vẻ trong việc
nhận của được
cho, thường ưa sự bố thí, vui vẻ
không keo kiệt,
không mong người kia đền trả.
Vị ấy đối với
việc lấy của
không cho, tâm đã trừ sạch.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc phi phạm
hạnh, đoạn
trừ việc phi phạm hạnh; siêng tu phạm hạnh, siêng tu diệu hành, thanh tịnh, không uế, ly dục, đoạn dâm. Vị ấy đối với việc việc phi phạm hạnh, tâm đã trừ sạch.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc nói dối,
đoạn trừ sự nói dối; nói lời
chân thật, ưa thích sự chân
thật, an trụ
nơi
chân thật không di động, tất
cả những điều vị
ấy nói đều
đáng tin, không lừa gạt
thế gian. Vị
ấy đối
với việc nói dối,
tâm đã trừ
sạch.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa sự
nói hai lưỡi,
đoạn trừ việc nói hai lưỡi, không phá hoại kẻ
khác, không nghe nơi người này nói lại
người kia muốn phá hoại
người này, không nghe nơi người
kia nói lại với người
này muốn phá hoại người
kia; những người xa lìa nhau thì muốn kết hợp
lại, thấy người
kết hợp lại
thì vui vẻ, không kết bè đảng,
không khen việc kết bè đảng.
Vị ấy đối với
việc việc nói hai lưỡi,
tâm đã trừ
sạch.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa việc nói thô ác, đoạn trừ việc nói thô ác. Nếu có những
lời mà từ
khí thô bạo,
âm thanh hung dữ trái tai, mọi
người không vui, mọi người
không ưa, làm cho người khác khổ não,
làm cho họ không được an ổn,
vị ấy đoạn
trừ những lời
nói như vậy. Nếu
có những lời hòa nhã dịu
dàng, xuôi tai, đi sâu vào lòng người, đáng thích, đáng
yêu, làm cho người kia an lạc,
âm thânh vừa đủ
rõ ràng, không làm cho người kia sợ
sệt,
làm cho người kia được an ổn,
vị ấy nói những lời
như vậy. Vị ấy
đối với việc
nói lời thô ác, tâm đã tịnh
trừ.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa lời nói phù phiếm, đoạn
trừ lời nói phù phiếm; nói đúng lúc, đúng sự thật, nói đúng pháp, nói đúng nghĩa, nói về tịch tĩnh, ưa
nói về tịch tĩnh,
hợp việc, hợp
thời, thích nghi, khéo dạy
dỗ, khéo quở
rầy.
Vị ấy đối với
việc nói phù phiếm, tâm đã
tịnh trừ.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa tham lam, đoạn
trừ tham lam, không ôm lòng não hại,
thấy của cải
và các nhu cầu sinh sống của
người khác không móng lòng tham lam, muốn
cho được trở
về mình.
Vị ấy đối với
việc tham lam tâm đã tịnh
trừ.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa sân nhuế, đoạn trừ
sân nhuế,
có tàm, có quý, có tâm từ
bi, làm lợi
ích cho tất cả, cho đến
loài côn trùng. Vị ấy đối
với sân nhuế
tâm đã
tịnh trừ.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa lìa tà kiến, đoạn trừ
tà kiến,
thực hành chánh kiến, không điên
đảo; thấy như vậy, nói như
vậy:
‘Có sự bố thí, có sự
trai phước,
và cũng có chú thuyết, có nghiệp
thiện ác, có nghiệp báo thiện
ác. Có đời này và đời sau. Có cha, có mẹ, trên đời có những
bậc chân nhân đi đến
thiện xứ, khéo vượt
qua, khéo hướng đến, trong đời
này và đời sau mà tự
tri tự giác,
tự tác chứng thành tựu
và an trụ. Vị
ấy đối
với việc tà kiến,
tâm đã tịnh trừ.
“Này các người
Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử thành tựu tịnh
nghiệp nơi thân, thành tựu tịnh nghiệp
nơi khẩu và ý. Xa lìa nhuế, xa lìa não hại, trừ bỏ thùy miên, không trạo cử, cống cao, đoạn trừ nghi, vượt qua mạn, chánh niệm, chánh trí, không có ngu
si; tâm vị ấy tương ứng với từ, biến mãn một phương, thành tựu và an trụ. Cũng vậy, trong hai, ba, bốn
phương, tứ
duy, thượng,
hạ, cùng khắp tất
cả, tâm tương ứng
với từ, không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, rất
rộng lớn, vô lượng,
khéo tu tập, biến mãn tất
cả thế
gian, thành tựu và an trụ. Cũng
vậy, tâm bi, hỷ; tâm tương
ứng với xả,
không thù không oán, không sân nhuế, không não hại, rộng lớn
vô lượng, khéo tu tập, biến
mãn tất cả
thế gian,
thành tựu và an trụ. Cũng
vậy, này các người Già- lam, Đa
văn Thánh đệ
tử tâm
không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, liền được
bốn trụ
xứ an
ổn [9]. Những gì là bốn?
“‘Nếu
có đời này đời sau, có quả báo
của nghiệp thiện
và ác. [10] Khi ta đã được
nghiệp tương ứng với
chánh kiến này rồi, ta thọ trì
đầy đủ, thân hoại
mạng chung chắc chắn
sanh đến thiện xứ,
cho đến sanh lên các cõi trời’.
Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn
Thánh đệ tử tâm không kết,
không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ nhất.
“Lại
nữa, này các người Già-lam, ‘Nếu không có đời này và đời
sau, không có quả báo của
nghiệp thiện và ác.” [11] Như
vậy,
ta ở ngay trong đời này không phải do cớ
ấy mà bị người khác bài bác; nhưng lại
được bậc chánh trí khen ngợi, người tinh tấn,
người có chánh kiến nói là có’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn
Thánh đệ tử tâm không kết,
không oán, không não hại, đó
là được trụ
xứ an
ổn thứ
hai.
“Lại
nữa, này các người Già-lam, ‘Nếu có tạo tác gì, chắc
chắn ta không có tạo ác, [12] ta không niệm ác. Vì sao vậy? Vì tự mình
không tạo ác, khổ
do đâu
mà sanh?’ Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn
Thánh đệ tử tâm không kết,
không oán, không não hại; đó
là trụ xứ an ổn
thứ ba.
“Lại
nữa, này các người Già-lam, ‘Nếu có tạo tác, chắc
chắn ta không tạo ác, nhưng
ta không phạm đời, dù kẻ sợ hay kẻ
không sợ,
[13] luôn luôn nên thương xót tất
cả thế
gian, tâm ta không tranh chấp với tất
cả thế
gian, không vẩn đục, nhưng
hân hoan’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn
Thánh đệ tử tâm không kết,
không oán, không não hại; đó
là trụ xứ an ổn
thứ tư.
“Như vậy, này các người Già-lam, Đa
văn Thánh đệ
tử tâm
không kết, không oán, không sân hận,
không não hại; đó là được
bốn trụ
xứ an
ổn”. Những người
Già-lam bạch Phật:
“Thưa
Cù-đàm, đúng vậy,
Đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hại, liền
được bốn trụ xứ an ổn. Những
gì là bốn?
“‘Nếu
có đời này đời sau, có quả báo
của nghiệp thiện
và ác. Khi ta đã được nghiệp tương
ứng với chánh kiến này rồi, ta thọ trì đầy đủ, thân hoại mạng chung chắc chắn sanh đến thiện xứ cho đến sanh lên các cõi trời’. Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không não hại; đó là trụ xứ an ổn thứ nhất.
“Lại
nữa, thưa Cù-đàm,
‘Nếu không có đời này và đời
sau, không có quả báo của
nghiệp thiện và ác. Như vậy, ta ở
ngay trong đời
này không phải do cớ
ấy mà bị người khác bài bác; nhưng lại
được bậc chánh trí khen ngợi, người tinh tấn,
người có chánh kiến nói là có’. Như vậy, thưa
Cù- đàm, Đa văn
Thánh đệ tử tâm không kết,
không oán, không não hại, đó
là được trụ
xứ an
ổn thứ
hai.
“Lại
nữa, thưa Cù-đàm,
‘Nếu có tạo tác gì, chắc
chắn ta không có tạo ác, ta không niệm ác. Vì sao vậy? Vì tự mình
không tạo ác, khổ
do đâu
mà sanh?’ Như vậy, thưa
Cù-đàm, Đa văn
Thánh đệ tử tâm không kết,
không oán, không não hại; đó
là trụ xứ an ổn
thứ ba.
“Lại
nữa, thưa Cù-đàm,
‘Nếu có tạo tác, chắc
chắn ta không tạo ác, ta không phạm đời sợ hay
không sợ, luôn luôn nên thương xót tất
cả thế
gian, tâm ta không tranh chấp với tất
cả thế
gian, không vẩn đục, nhưng
hân hoan’. Như vậy, thưa
Cù-đàm, Đa văn
Thánh đệ tử tâm không kết,
không oán, không não hại; đó
là trụ xứ an ổn
thứ tư.
“Như vậy, thưa Cù-đàm,
Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân hận, không não hại; đó
là được bốn trụ xứ an ổn.
“Thưa
Cù-đàm, chúng con đã biết.
Bạch Thiện Thệ,
chúng con đã hiểu. Bạch
Thế Tôn, chúng con trọn đời
tự quy y với Phật,
Pháp và Chúng Tỳ-kheo. Duy nguyện Thế
Tôn chấp
nhận cho chúng con làm Ưu-bà-
tắc, bắt đầu
từ hôm nay, trọn đời
tự quy y, cho đến lúc mạng
chung”.
Phật
thuyết như
vậy.
Tất cả
những
người Già-lam và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
---------------------------------
Ghi
chú:
* Tương đương với Kinh Kalama, AN
3:65
[1] Già-lam viên 伽藍園.
Pāli, A. i. 189: tại thị trấn của những người Kālāma tên là Kesaputta, ở
Kosala.
[2] Ki-xá tử 羈舍子;
Pāli: Kesaputta, xem cht. trên.
[3] Thi-nhiếp-hòa lâm 尸攝惒林. Pāli: Siṃsapā.
[4] Pl.: ahudeva kaṇkhā, ahudeva vicikicchā, “(chúng tôi) hoài nghi và phân
vân!”
[5] Hán: mạc sanh nghi hoặc 莫生疑惑.
Cf. Pāli, A. i. 188: alañhi vo, kālāmā,
kaṅkhituṃ alam vicikicchium.
Bất biến từ alaṃ
ở đây thường hiểu theo nghĩa khẳng định:
“Thích hợp thay cho các ngươi, những người Kālāmā, để mà hoài nghi!” Nghĩa là, hoài nghi là đúng.
Nhưng bản Hán hiểu theo nghĩa tiêu cực, trong câu cấm chỉ: “Thôi đủ rồi để mà
nghi hoặc!” Nghĩa là, chớ có hoài nghi! Đoạn trả lời của Phật tiếp theo trong
bản Pāli là đoạn kinh nổi tiếng, rất nổi
tiếng, về sự không chấp nhận giáo điều, cho nên, ở đây Phật chấp nhận thái độ
hoài nghi đối với những giáo thuyết mà mình được nghe.
[6] Pl.: kaṅkhanīyeva… vicchikicchā uppannā.
[7] Hán: tập nhân bản hữu 因習本有;
tức nhân, tập, duyên, sanh: bốn hành tướng của những cái làm nguyên nhân.
Pāli, thành cú: esva hetu etaṃ nidānaṃ esa samudayo esa paccayo, đó là nhân, là
(bản) duyên, là tập (khởi), là duyên (sinh).
[8] Pl. ibid.: luddho purisapuggalo lobhena abhibhūto,
người xan tham bị tham lam khống chế.
[9] Hán: an ổn trú xứ 安穩住處: tô tức xứ. Pāli: assāsa, sự nghỉ ngơi (lấy lại hơi thở
quân bình), sự bình an.
[10] Pl.: sace kho pana atthi paraloka, giả sử có
thế giới khác (đời sau).
[11] Pl.: sace kho pana natthi paraloko, natthi
sukatadukatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, giả sử không có thế giới khác,
không có quả dị thục của những nghiêp thiện hay bất thiện.
[12] Pl. : sace kho pana karoto karīyati pāpaṃ, na kho
panāhaṃ kassaci pāpaṃ cetemi, “giả sử có làm điều gì ác, nhưng ta không có
ý ác đối với bất cứ ai.”
[13] Hán: bố dữ bất bố 怖與不怖, chỉ người run sợ tức kẻ
yếu, và người vững vàng tức kẻ mạnh.
Pāli: yvāhaṃ na kiñci vyābādhemi tasaṃ vā thāvaraṃ vā, ta không làm hại
cái gì cả, dù đông vật hay bất động vật.
No comments:
Post a Comment