Sunday, 27 August 2017

Kinh Già-lam (tương đương với kinh Kalama)

 KINH GIÀ-LAM 
伽藍經 (Già lam kinh), Trung A-hàm, MA 16 
Tuệ Sỹ dịch và chú
(Tương đương với Kinh Kalama, AN 3:65)

Mt thi Đức Pht trú ti Già-lam viên [1], cùng đại chúng T-kheo, đến Ki-xá Tử [2], trtrong vườn Thi-nhiếp-hòa [3], phía Bc thôn Ki-xá T.
By ginhng người Già-lam Ki-xá Tnghe đồn Sa-môn Cù-đàm thuc dòng hThích, đã tbdòng hThích, xut gia hc đạo, đang trú ti Già-lam viên, và cùng đại chúng T-kheo đến Ki-xá Tnày, trtrong rng Thi-nhiếp-hòa phía Bc thôn Ki-xá T. VSa-môn Cù-đàm y có tiếng tăm ln, truyn khp mười phương rng: ‘Sa-môn Cù-đàm là Như Lai, Vô STrước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hnh Túc, Thin Th, Thế Gian Gii, Vô Thượng Sĩ, Điu NgTrượng Phu, Thiên Nhân Sư, Pht, Thế Tôn. Vị ấy trong thế gian này gia Chư Thiên, Ma, Phm, Sa-môn, Bà-la-môn, tloài người cho đến loài tri, ttri tgiác, ttác chng, thành tu và an tr. Pháp mà vị ấy thuyết, khong đầu thin, khong gia thin, cu cánh cũng thin, có nghĩa, có văn, hin hin phm hnh thanh tnh trn đủ’. Nếu gp được Đức Như Lai, Vô STrước, Đẳng Chánh Giác để tôn trng, lbái cúng dường, tha s, thì sẽ được nhiu thin li. Chúng ta hãy cùng nhau đến gp Sa-môn Cù-đàm để lbái, cúng đường”.
Nhng người Già-lam Ki-xá T, nghe như vy ri, mi người cùng vi quyến thuc ca mình kéo nhau ra khi Ki-xá T, đi vphía Bc, ti rng Thi-nhiếp-hòa.  Hmun gp  Đức Thế Tôn để  lễ  bái cúng dường.
Đi đến chPht ng, nhng người Già-lam y hoc có người lbái cúi đầu dưới chân Pht ri ngi sang mt bên, hoc có người chào hi Đức Pht ri ngi sang mt bên, hoc có người chp tay hướng đến Pht ri ngi sang mt bên, hoc có người từ đàng xa thy Đức Pht ri im lng ngi xung.
Lúc đó, nhng người Già-lam đều ngi yên. Đức Pht thuyết pháp cho h, khai th, giáo gii, khiến cho hoan h, được li ích. Sau khi bng vô lượng phương tin thuyết  pháp, khai th, giáo gii, khiến cho hoan h, được li ích, Ngài ngi im lng.
By ginhng người Già-lam sau khi được Đức Pht thuyết pháp, khai th, giáo gii, khiến cho hoan h, được li ích, họ đều tchngi đứng dy, sa áo trch vai bên hu, chp tay đến hướng Đức Pht, ri bch Đức Thế Tôn rng:
“Thưa Cù-đàm, có mt vSa-môn, Bà-la-môn đi đến Già-lam chtkhen ngi tri kiến ca mình mà chê bai tri kiến ca người khác. Thưa Cù-đàm, li có mt vSa-môn, Bà-la-môn đi đến Già-lam cũng chtkhen ngi tri kiến ca mình mà chê bai tri kiến ca kkhác. Thưa Cù-đàm, chúng tôi nghe vy lin sanh nghi hoc: Nhng vSa-môn, Bà-la-môn y, vnào tht? Vnào hư?” [4]
Đức Thế Tôn nói rng:
“Này các người Già-lam, các người chsanh nghi hoc.[5]  Vì sao vy? Vì nhân có nghi hoc lin sanh ra do d. [6] Này các người Già-lam, các người tmình không có tnh trí để biết có đời sau hay không có đời sau. Này các người Già-lam, các người cũng không có tnh trí để biết điu đã làm có ti hay không có ti. Này các người Già-lam, nên biết các nghip có ba cái là nguyên nhân, là stp khi, là căn bn là duyên ca nó [7]. Nhng gì là ba? Này các người Già-lam, tham là nhân, là tp, là bn, là duyên ca các nghip. Này các người Già-lam, nhuế và si là nhân, là tp, là bn, là duyên ca các nghip.
“Này các người Già-lam, người có tham btham che lp, [8] tâm không nhàm đủ, hoc sát sanh, hoc ly ca không cho, hoc hành tà dâm, hoc biết mà nói di, hoc  li ung rượu. Này các người Già-lam, người có nhuế bnhuế che lp, tâm không nhàm đủ, hoc sát sanh, hoc ly ca không cho, hoc hành tà dâm, hoc biết mà nói di, hoc li ung rượu. Này các người Già-lam, người có si bsi che lp, tâm không nhàm đủ, hoc sát sanh, hoc ly ca không cho, hoc hành tà dâm, hoc biết mà nói di, hoc li ung rượu.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa vic giết hi, dt bsgiết hi, dp bdao gy; có tàm, có quý, có tâm tbi, làm li ích cho tt c, cho đến côn trùng. Vị ấy đối vi ssát sanh, tâm đã trsch. “Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa vic ly ca không cho, đon trvic ly ca không cho; vui vtrong vic nhn ca được cho, thường ưa sbthí, vui vkhông keo kit, không mong người kia đền tr. Vị ấy đối vi vic ly ca không cho, tâm đã trsch.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa vic phi phm hnh, đon trvic  phi phm hnh; siêng tu phm hnh, siêng tu diu hành, thanh tnh, không uế, ly dc, đon dâm. Vị ấy đối vi vic vic phi phm hnh, tâm đã trsch.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa vic nói di, đon trsnói di; nói li chân tht, ưa thích schân tht, an trnơi chân tht không di động, tt cnhng điu vị ấy nói đều đáng tin, không la gt thế gian. Vị ấy đối vi vic nói di, tâm đã trsch.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa snói hai lưỡi, đon trvic nói hai lưỡi, không phá hoi kkhác, không nghe nơi người này nói li người kia mun phá hoi người này, không nghe nơi người kia nói li vi người này mun phá hoi người kia; nhng người xa lìa nhau thì mun kết hp li, thy người kết hp li thì vui v, không kết bè đảng, không khen vic kết bè đảng. Vị ấy đối vi vic vic nói hai lưỡi, tâm đã trsch.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa vic nói thô ác, đon trvic nói thô ác. Nếu có nhng li mà tkhí thô bo, âm thanh hung dtrái tai, mi người không vui, mi người không ưa, làm cho người khác khnão, làm cho hkhông được an n, vị ấy đon trnhng li nói như vy. Nếu có nhng li hòa nhã du dàng, xuôi tai, đi sâu vào lòng người, đáng thích, đáng yêu, làm cho người kia an lc, âm thânh va đủ rõ ràng, không làm cho người kia sst, làm cho người kia được an n, vị ấy nói nhng li như vy. Vị ấy đối vi vic nói li thô ác, tâm đã tnh tr.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa li nói phù phiếm, đon trli nói phù phiếm;  nói đúng lúc, đúng stht, nói đúng pháp, nói đúng nghĩa, nói vtch tĩnh, ưa nói vtch tĩnh, hp vic, hp thi, thích nghi, khéo dy d, khéo qury. Vị ấy đối vi vic nói phù phiếm, tâm đã tnh tr.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa tham lam, đon trtham lam, không ôm lòng não hi, thy ca ci và các nhu cu sinh sng ca người khác không móng lòng tham lam, mun cho được trvmình. Vị ấy đối vi vic tham lam tâm đã tnh tr.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa sân nhuế, đon trsân nhuế, có tàm, có quý, có tâm tbi, làm li ích cho tt c, cho đến loài côn trùng. Vị ấy đối vi sân nhuế tâm đã tnh tr.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ txa lìa tà kiến, đon trtà kiến, thc hành chánh kiến, không điên đảo; thy như vy, nói như vy:
‘Có sbthí, có strai phước, và cũng có chú thuyết, có nghip thin ác, có nghip báo thin ác. Có đời này và đời sau. Có cha, có m, trên đời có nhng bc chân nhân đi đến thin x, khéo vượt qua, khéo hướng đến, trong đời này và đời sau mà ttri tgiác, ttác chng thành tu và an tr. Vị ấy đối vi vic tà kiến, tâm đã tnh tr.
“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tthành tu tnh nghip nơi thân, thành tu tnh nghip nơi khu và ý. Xa lìa nhuế, xa lìa não hi, trbthùy miên, không tro c, cng cao, đon trnghi, vượt qua mn, chánh nim, chánh trí, không có ngu si; tâm vị ấy tương ng vi t, biến mãn mt phương, thành tu và an tr. Cũng vy, trong hai, ba, bn phương, tduy, thượng, h, cùng khp tt c, tâm tương ng vi t, không thù, không oán, không sân nhuế, không não hi, rt rng ln, vô lượng, khéo tu tp, biến mãn tt cthế gian, thành tu và an tr. Cũng vy, tâm bi, h; tâm tương ng vi x, không thù không oán, không sân nhuế, không não hi, rng ln vô lượng, khéo tu tp, biến mãn tt cthế gian, thành tu và an tr. Cũng vy, này các người Già- lam, Đa văn Thánh đệ ttâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hi, lin được bn trxan n [9]. Nhng gì là bn?
“‘Nếu có đời này đời sau, có qubáo ca nghip thin và ác. [10] Khi ta đã được nghip  tương ng vi chánh kiến này ri, ta thtrì đầy đủ, thân hoi mng chung chc chn sanh đến thin x, cho đến sanh lên các cõi tri’. Như vy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không sân nhuế, không não hi; đó là trxan n thnht.
“Li na, này các người Già-lam, ‘Nếu không có đời này và đời sau, không có qubáo ca nghip thin và ác.” [11] Như vy, ta ngay trong đời này không phi do cớ ấy mà bngười khác bài bác; nhưng li được bc chánh trí khen ngi, người tinh tn, người có chánh kiến nói là có’. Như vy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không não hi, đó là được trxan n thhai.
“Li na, này các người Già-lam, ‘Nếu có to tác gì, chc chn ta không có to ác, [12] ta không nim ác. Vì sao vy? Vì tmình không to ác, khdo đâu mà sanh?’ Như vy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không não hi; đó là trxan n thba.
“Li na, này các người Già-lam, ‘Nếu có to tác, chc chn ta không to ác, nhưng ta không phm đời, dù kshay kkhông s, [13] luôn luôn nên thương xót tt cthế gian, tâm ta không tranh chp vi tt cthế gian, không vn đục, nhưng hân hoan’. Như vy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không não hi; đó là trxan n thtư.
“Như vy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không sân hn, không não hi; đó là được bn trxan n”. Nhng người Già-lam bch Pht:
“Thưa Cù-đàm, đúng vy, Đa văn Thánh đệ ttâm không thù, không oán, không sân nhuế, không não hi, lin được bn trxan n. Nhng gì là bn?
“‘Nếu có đời này đời sau, có qubáo ca nghip thin và ác. Khi ta đã được nghip tương ng vi chánh kiến này ri, ta thtrì đầy đủ, thân hoi mng chung chc chn sanh đến thin xcho đến sanh lên các cõi tri’. Như vy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không sân nhuế, không não hi; đó là trxan n thnht.
“Li na, thưa Cù-đàm, ‘Nếu không có đời này và đời sau, không có qubáo ca nghip thin và ác. Như vy, ta ngay trong đời này không phi do cớ ấy mà bngười khác bài bác; nhưng li được bc chánh trí khen ngi, người tinh tn, người có chánh kiến nói là có’. Như vy, thưa Cù- đàm, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không não hi, đó là được trxan n thhai.
“Li na, thưa Cù-đàm, ‘Nếu có to tác gì, chc chn ta không có to ác, ta không nim ác. Vì sao vy? Vì tmình không to ác, khdo đâu mà sanh?’ Như vy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không não hi; đó là trxan n thba.
“Li na, thưa Cù-đàm, ‘Nếu có to tác, chc chn ta không to ác, ta không phm đời shay không s, luôn luôn nên thương xót tt cthế gian, tâm ta không tranh chp vi tt cthế gian, không vn đục, nhưng hân hoan’. Như vy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không não hi; đó là trxan n thtư.
“Như vy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ ttâm không kết, không oán, không sân hn, không não hi; đó là được bn trxan n.
“Thưa Cù-đàm, chúng con đã biết. Bch Thin Th, chúng con đã hiu. Bch Thế Tôn, chúng con trn đời tquy y vi Pht, Pháp và Chúng T-kheo. Duy nguyn Thế Tôn chp nhn cho chúng con làm Ưu-bà- tc, bt đầu thôm nay, trn đời tquy y, cho đến lúc mng chung”.
Pht thuyết như vy. Tt cnhng người Già-lam và các T-kheo sau khi nghe Pht thuyết, hoan hphng hành.
---------------------------------
Ghi chú:
* Tương đương với Kinh Kalama, AN 3:65
[1] Già-lam viên 伽藍園. Pāli, A. i. 189: tại thị trấn của những người Kālāma tên là Kesaputta, ở Kosala.
[2] Ki-xá tử 羈舍子; Pāli: Kesaputta, xem cht. trên.
[3] Thi-nhiếp-hòa lâm 尸攝惒林. Pāli: Siṃsapā.
[4] Pl.: ahudeva kaṇkhā, ahudeva vicikicchā, “(chúng tôi) hoài nghi và phân vân!”
[5] Hán: mạc sanh nghi hoặc 莫生疑惑. Cf. Pāli, A. i. 188: alañhi vo, kālāmā, kaṅkhituṃ alam vicikicchium.  Bất  biến  từ alaṃ ở đây thường hiểu  theo nghĩa khẳng định: “Thích hợp thay cho các ngươi, những người Kālāmā,  để mà hoài nghi!” Nghĩa là, hoài nghi là đúng. Nhưng bản Hán hiểu theo nghĩa tiêu cực, trong câu cấm chỉ: “Thôi đủ rồi để mà nghi hoặc!” Nghĩa là, chớ có hoài nghi! Đoạn trả lời của Phật tiếp theo trong bản Pāli là đoạn kinh nổi tiếng,  rất nổi tiếng, về sự không chấp nhận giáo điều, cho nên, ở đây Phật chấp nhận thái độ hoài nghi đối với những giáo thuyết mà mình được nghe.
[6] Pl.: kaṅkhanīyeva… vicchikicchā uppannā.
[7] Hán: tập nhân bản hữu 因習本有; tức nhân, tập, duyên, sanh: bốn hành tướng của những cái làm nguyên nhân. Pāli,  thành cú: esva hetu etaṃ nidānaṃ esa samudayo esa paccayo, đó là nhân, là (bản) duyên, là tập (khởi), là duyên (sinh).
[8] Pl. ibid.: luddho purisapuggalo lobhena abhibhūto, người xan tham bị tham lam khống chế.
[9] Hán: an ổn trú xứ 安穩住處: tô tức xứ. Pāli: assāsa, sự nghỉ ngơi (lấy lại hơi thở quân bình), sự bình an.
[10] Pl.: sace kho pana atthi paraloka, giả sử có thế giới khác (đời sau).
[11] Pl.: sace kho pana natthi paraloko, natthi sukatadukatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, giả sử không có thế giới khác, không có quả dị thục của những nghiêp thiện hay bất thiện.
[12] Pl. : sace kho pana karoto karīyati pāpaṃ, na kho panāhaṃ kassaci pāpaṃ cetemi, “giả sử có làm điều gì ác, nhưng ta không có ý ác đối với bất cứ ai.”
[13] Hán: bố dữ bất bố 怖與不怖, chỉ người run sợ tức kẻ yếu, và người vững vàng tức kẻ mạnh.  Pāli:  yvāhaṃ na kiñci vyābādhemi tasaṃ vā thāvaraṃ vā, ta không làm hại cái gì cả, dù đông vật hay bất động vật.





No comments: