Friday, 4 July 2008

Metta Sutta - Kinh Lòng Từ

Karanīya Mettā Sutta
The Discourse on Loving-kindness

Karanīyam attha kusalena
yantam santam padam abhisamecca,
Sakko ujū ca suhujū ca
suvaco cassa mudu anatimānī,


Người khôn khéo làm điều lợi ích
Để có được hạnh phúc an bình:
Phải tài năng, ngay thẳng, công minh
Có lời nói dịu dàng, khiêm tốn

Santussako ca subharo ca
appakicco ca sallahuka-vutti,
Santindriyo ca nipako ca
appagabbho kulesu ananugiddho.

Sống tri túc, dễ dàng chịu đựng
Ít bận rộn, vui đời giản dị
Thanh tịnh lục căn, và thận trọng
Không hỗn xược, chẳng hay xu nịnh

Na ca khuddam samācare kiñci
yena viññū pare upavadeyyum.
Sukhino vā khemino hontu
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.

Không tạo tác các việc xấu ác
Mà thánh hiền có thể chê bai.
Nguyện an vui đến cho muôn loài
Nguyện chúng sinh thảy đều an lạc

Ye keci pāna bhūtatthi
tasā vā thāvarā vā anavasesā,
Dīghā vā ye mahantā vā
majjhimā rassakā anukathūlā,

Không bỏ sót một chúng sinh nào
Dù ốm yếu hoặc thường khỏe mạnh
Giống lớn to hoặc loại dài cao
Cỡ trung bình, hoặc ngắn, nhỏ, thô

Ditthā vā ye ca aditthā
ye ca dūre vasanti avidūre,
Bhūtā vā sambhavesī vā
Sabbe sattā bhavantu sukhitattā

Dù hiện rõ hay không hiện rõ
Ở gần ta hoặc ở nơi xa
Ðã sinh rồi hoặc sắp sinh ra
Nguyện chúng sinh thảy đều an lạc

Na paro param nikubbetha
nātimaññetha katthaci nam kiñci,
Byārosanā patīghasaññā
nāññamaññassa dukkhamiccheyya

Mong mọi người bất luận ở đâu
Không lừa dối, cũng không khinh rẻ
Lúc căm hờn hoặc khi giận dữ
Ðừng mưu toan gây khổ cho nhau

Mātā yathā niyam puttam
āyusā ekaputtam anurakkhe,
Evampi sabba bhūtesu
māna sambhāvaye aparimānam


Như mẹ hiền thương yêu con một
Dám hy sinh bảo vệ cho con
Với muôn loài ân cần không khác
Lòng từ mẫn vô lượng vô biên.

Mettañca sabba lokasmim
māna sambhāvaye aparimānam,
Uddham adho ca tiriyañca
asambādham averam asapattam.

Tung rải từ tâm khắp vũ trụ
Mở rộng tình thương không giới hạn
Tầng trên, phía dưới, và khoảng giữa
Không vướng mắc, oán thù, ghét bỏ.

Titthañcaram nisinno vā
sayāno vā yāvatassa vigatamiddho,
Etam satim adhittheyya
brahmam etam vihāram idhamāhu.

Khi đi, khi đứng hoặc nằm ngồi
Trong mọi lúc tinh cần tỉnh thức
Phát triển luôn dòng chánh niệm nầy
Là phạm trú cao thượng nhất đời.

Ditthiñca anupagamma
sīlavā dassanena sampanno,
Kāmesu vineyya gedham,

Na hi jātu gabbha seyyam punaretī ti.

Không nắm giữ các điều tà kiến
Có giới hạnh, chánh trí cao vời
Và vượt thắng đắm say trần dục
Không thai sinh vào cõi não phiền.


*

Từ tâm
(AN 11.16)

Này các Tỳ-khưu, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một?

(1) Ngủ an lạc, (2) thức dậy an lạc, (3) ngủ không ác mộng, (4) được loài người ái mộ, (5) được phi nhân ái mộ, (6) chư Thiên bảo hộ, (7) không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, (8) tâm được định mau chóng, (9) sắc mặt trong sáng, (11) mệnh chung không hôn ám; (11) nếu chưa thể nhập thượng pháp (A-la-hán quả); được sanh lên Phạm thiên giới.

Này các Tỳ-khưu, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích.

*

No comments: