Showing posts with label news. Show all posts
Showing posts with label news. Show all posts

Monday, 3 May 2021

Món phở của người Việt gây tranh cãi khắp thế giới

Món phở của người Việt gây tranh cãi khắp thế giới
Lili Tu
BBC Travel
2 tháng 5, 2021

Khi một blogger ẩm thực người Mỹ tên là Tieghan Gerard ngây thơ gọi món mì ăn liền cô nấu là "phở gà", câu nói đó đã gây ra cơn bão tranh luận về món ăn này.

Cô bị cáo buộc là muốn "tẩy trắng" món phở nổi tiếng của người Việt, làm tổn hại văn hóa và con người.

Dù nhà sản xuất kênh Half Baked Harvest với hàng triệu người theo dõi sau đó đã xin lỗi và đổi tên món ăn của cô lại là "mì gà ăn với súp cay và mè", nhưng nhiều người Mỹ gốc Việt tin rằng việc đổi tên này là chưa phù hợp, và vấn đề thực ra nghiêm trọng hơn chứ không chỉ là chuyện một món ăn, nhất là trong tình trạng tội phạm thù địch nhắm vào người Mỹ gốc Á dâng cao như hiện nay.

Dù thảm họa ẩm thực này xuất hiện trên Instagram và khiến mọi người từ giới đầu bếp, người nổi tiếng, đến dân ghiền ẩm thực phản đối, nhưng về mặt tích cực thì nó khiến mọi người chiêm nghiệm kỹ hơn về món ăn quốc hồn quốc túy nổi tiếng của người Việt trong lịch sử lâu đời cả ở Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới.

Phở, với nước dùng sôi sùng sục, thơm ngọt, bổ dưỡng, được nêm gia vị nhẹ chan vào sợi bánh phở đã được chần nóng, là món khá mới trong danh sách các món ăn đặc trưng của người Việt - nó chỉ mới xuất hiện trong các ghi chép từ đầu thế kỷ 20 - nhưng lịch sử của món ăn khiêm nhường này vừa tinh tế vừa phức tạp như chính hương vị của nó.

"Tôi đã ăn phở suốt cả đời, nhưng câu chuyện về phở rất sâu sắc," Andrea Nguyễn, tác giả viết sách nấu ăn người Mỹ gốc Việt nổi tiếng và là người thắng giải cuộc thi James Beard, nói. "Và vì vậy, bạn có thể nghĩ rằng bạn biết rành món phở, nhưng thực ra không phải vậy, bởi vì món phở có những đổi thay."

Dù đa phần các nhà sử học đồng tình rằng phở được phát minh hồi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở miền bắc Việt Nam, trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, nhưng nguồn gốc của món này vẫn không rõ ràng.

Một số người tin rằng phở là một món ăn kiểu địa phương, được cải biên từ món hầm kiểu Pháp với bò và rau có tên pot-au-feu, tên gọi hơi giống về ngữ âm so với chữ "phở".

Một số người khác cho rằng món này bắt nguồn từ những nhóm người Hoa đến định cư ở miền bắc Việt Nam và bán một món ăn tên là ngưu nhục phấn (牛肉粉 , tức là mì bò). Phần Hán tự 'phấn' (粉) được phát âm là "fuh", cũng tương tự như chữ tiếng Việt "phở".

Alex Trần, một đầu bếp người Việt và tác giả viết về ẩm thực sống ở New Zealand, cho rằng nguồn gốc của phở có thể là sự hòa phối của cả hai món trên.

"Không nghi ngờ gì, sợi phở và các gia vị khác được dùng để nấu nước dùng có liên hệ với người Hoa sống ở miền Bắc. Tuy nhiên, thịt bò không phải là loại thịt hàng ngày mà người Việt ăn vì ta sử dụng trâu bò để cày ruộng. Chỉ dưới thời Pháp thuộc, thì chuyện ăn thịt bò mới xuất hiện và trở nên phổ biến."

Dù nguồn gốc của phở từ đâu, thì mọi người đều yêu thích món ăn này như món quốc hồn quốc túy và là niềm tự hào cháy bỏng của dân địa phương lẫn khả năng gây tranh cãi dữ dội, vì mỗi vùng có cách nấu và sử dụng nguyên liệu riêng mà họ yêu thích.

"Cá nhân tôi sẽ gọi đây là món ăn gầy dựng tình đoàn kết và gây chia rẽ," đầu bếp Trần cho biết. "Đây là niềm tự hào quốc gia của chúng tôi, nhưng chúng tôi chưa bao giờ có thể đồng tình với nhau là phở nào mới là "phở thật". Nếu bạn muốn làm người Việt đánh nhau, cứ hỏi họ phở nào ngon nhất."

PHỞ NAM ĐỊNH

Trong khi nhiều người sành ăn phở sống ở nước ngoài sẽ quen thuộc với phở nấu kiểu miền Nam phong vị Sài Gòn, có nước dùng vị ngọt hơn và sử dụng các loại gia vị và rau ăn kèm thoải mái hơn, thì phiên bản món phở đầu tiên được cho là bắt nguồn từ miền Bắc, từ tỉnh Nam Định, cách Hà Nội khoảng 100km về phía nam.

Tại nơi đây, ở vùng đồng bằng Sông Hồng giàu có, màu mỡ, đường chân trời thẳng băng ngập đồng lúa, cây chuối và rặng tre.

Vùng nông nghiệp này có phần đa cư dân làm nông dân truyền thống, đây cũng là quê hương của hầu hết những đầu bếp nấu phở nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Rất nhiều người trong số họ có liên hệ với gia đình Phở Cồ, ở làng Vân Cù, nằm ở phía nam thành phố Nam Định.

Ngôi làng yên bình với đồng lúa xanh biếc bao quanh, tương phản với những ngôi nhà mái ngói đỏ.

Ở cổng làng có một cửa hiệu chưng tấm biển bán phở qua nhiều thế hệ. Nơi đây là quê hương của ông Vũ Ngọc Vượng và cậu của ông là Cồ Việt Hùng, 87 tuổi, một trong những đầu bếp nấu phở lớn tuổi nhất còn sống.

Bản thân Vũ Ngọc Vượng là một đầu bếp bấu phở từng đoạt giải, sở hữu chuỗi 5 nhà hàng phở cùng một xưởng làm bánh phở tại Hà Nội.

Theo ông Vượng, khi hết mùa thu hoạch lúa, các cụ tổ nhà ông đi đến các thị trấn, thành thị làm nghề bán dạo.

Họ làm và bán món bánh đa cua, nấu bằng cua đồng, với sợi bánh đa dẹt màu trắng hơi giống bánh phở.

Họ cũng có một món ăn truyền thống và độc đáo, đó là món xáo, thường nấu với ít thịt trâu thái mỏng với nước dùng ninh xương, chan bún, ăn kèm với hành lá và rau thơm.

Dù không ai biết đích xác phở ra đời thế nào, nhưng hầu hết mọi người tin rằng dân làng thấy có cơ hội làm ăn vào năm 1898 khi thực dân Pháp bắt đầu xây dựng nhà máy dệt Nam Định.

Kỹ thuật viên người Pháp và hàng ngàn công nhân đổ về vùng làm việc trong nhà máy dệt lớn nhất Đông Dương, và hai món ăn này có vẻ như được kết hợp với nhau, gia giảm chút ít cho hợp với khẩu vị của người Pháp.

"Người Pháp thích thịt bò nên dân làng cải biên một chút bằng cách thêm thịt bò vào bánh đa cua," ông Vượng kể. "Ngoài ra, mọi người cũng được người Pháp đến xây nhà máy cho lại xương thừa mà họ không ăn, dân làng đem xương về và nấu thành nước dùng. Họ kể chúng tôi nghe đó là cách món phở thành hình."

Khi công nhân xây dựng di chuyển từ Nam Định ra Hà Nội để thi công dự án cầu Long Biên, món phở giàu dinh dưỡng nhanh chóng lan xa khỏi ngôi làng.

Với gánh phở trên vai, người làng nghèo đói theo chân công nhân xây dựng, kiếm sống tốt nhờ nghề bán phở, và món ăn một tô này trở thành món ngon người dân thủ đô yêu thích.

"Người đầu tiên từ gia đình họ Cồ đưa phở đến Hà Nội là ông Cồ Hữu Vặng. Nếu còn sống chắc cụ nay phải 130 hay 140 tuổi rồi," ông Vượng kể. "Cụ đến Hà Nội và thuê một căn nhà. Đàn ông trong làng đến và nấu phở, họ gánh gánh phở đi bán khắp Hà Nội ban ngày và trở về nhà ngủ ban đêm."

Con trai và con gái cụ Cồ Hữu Vặng cuối cùng bèn mở quán phở trong khu Phố Cổ Hà Nội, và một số tiệm trong số đó, giờ đây do thế hệ thứ ba của gia đình nấu, vẫn nằm trong số danh sách các hàng phở được đánh giá cao nhất trong thành phố, ví dụ như Phở Gia Truyền Bát Đàn và Phở Bò Việt Hòa Cụ Chiêu.

"90% dân làng tôi đã di cư đến Hà Nội sống và bán phở, chỉ còn 10% người làng vẫn ở Nam Định," ông Vượng nói.

PHỞ BẮC, PHỞ TRUNG, PHỞ NAM

Từ đây, món phở phát triển theo nhiều hướng khác nhau.

Trong món phở Nam Định, thịt bò thái mỏng được xào tái với tỏi cùng các loại rau xanh và vài lát cà chua, bày lên trên bánh phở đã chần nóng, sau đó chan nước dùng thơm lừng. Trong khi đó, dân Hà Nội ăn phở với kiểu cách tối giản hơn rất nhiều.

Ở Hà Nội, nói về phở là nói về chất lượng nước dùng, thậm chí nhiều người còn cảm thấy bỏ thêm rau thơm sẽ làm hỏng vị phở.

Theo bà Bùi Thị Sương, đại sứ văn hóa ẩm thực Việt, nước dùng phở bò ở Hà Nội nấu chỉ bằng xương bò và thịt bò, còn nước dùng phở gà thì chỉ dùng gà.

Càng đi về phía nam bạn sẽ thấy những đặc tính không còn giống như vậy. Chẳng hạn như nước dùng bún bò Huế ở miền Trung sử dụng cả thịt bò và heo cùng với cách nêm nếm phức tạp hơn.

"Cách sử dụng duy nhất một loại thịt trong nước dùng rất giống với ẩm thực kiểu Pháp, khiến cho món ăn thêm phần tinh tế và đậm đà," bà Sương nói.

Ngày nay, rất nhiều người theo trường phái thuần túy nói rằng phở "gốc" là phở từ Hà Nội.

Ông Vượng tin rằng chỉ cần nếm thử nước dùng là biết được một bát phở có ngon hay không. Ông giải thích rằng nước dùng ngon nên có vị ngọt đằm từ tủy xương nấu trong nhiều giờ, nhưng nước phải trong, có màu nhẹ như khói và nêm gia vị nhẹ nhàng.

"Gia vị nấu phở phải có vị đằm tinh tế chứ không nồng, gắt. Khi khách nếm, họ không nên cảm thấy vị nào đậm hơn vị nào," ông giải thích.

Dù phở bò là món ăn quen thuộc ở Hà Nội cho mãi đến giữa thế kỷ 20, nhưng món ăn này vẫn tiếp tục biến đổi.

Vào năm 1939, chính quyền cố gắng kiểm soát tình trạng giết thịt bò bằng cách cấm bán thịt bò vào thứ Hai và thứ Sáu, và người Hà Nội phải chế lại món phở để đỡ thèm.

Phở gà cũng được dân thủ đô yêu thích, và ngày nay, cùng với phở bò, đây là phiên bản của món phở được mọi người ở Việt Nam và khắp nơi yêu mến.

Tác giả ẩm thực Nguyễn nói khoảnh khắc ăn phở mà bà nhớ nhất ở Hà Nội là được ăn một "tô phở gà tuyệt đỉnh". "Nói vậy có nghĩa là tô phở có vị hệt như phở mẹ tôi nấu, nhưng nó có đủ các phần thịt gà mà tôi chưa từng ăn trước đó," bà kể lại. "Nước dùng thịt gà được nấu rất ngon, và có vị như thuốc bổ. Nó như một loại thuốc tuyệt vời."

Năm 1954, khi thời kỳ thực dân Pháp đô hộ kết thúc và Việt Nam chia cắt làm hai miền, hàng triệu người Bắc di cư vào miền Nam.

Phở theo chân người di dân đến vùng đất mới và thích nghi với khẩu vị, văn hóa địa phương và nguyên liệu có sẵn của mỗi vùng.

Vị của phở cũng có thể ngọt hơn, mặn hơn hoặc cay hơn, tùy theo mức độ nấu theo người địa phương.

Điểm còn giữ nguyên là nước dùng nấu từ xương trong vắt, sợi bánh phở trắng mềm, thịt thái mỏng và hành lá.

Các nguyên liệu dùng trang trí, gia vị và các thức ăn kèm cũng đa dạng hơn. Chẳng hạn như ở Hội An, thuộc vùng Nam Trung Bộ, phở ăn kèm với đậu phộng giã dập, với loại ớt rim với dầu, và đu đủ xanh muối xổi, rau húng quế, ớt tươi, chanh và bánh mì chiên giòn xắt lát ăn kèm.

Sự đa dạng văn hóa ở Sài Gòn, với cộng đồng đông người gốc Hoa và người Campuchia và có thêm nhiều loại nguyên liệu mới, món ăn chuyển biến xa hơn nữa.

Người ta sử dụng đường phèn theo kiểu nấu ăn của người Hoa, dùng củ cải trắng, và nguyên liệu từ món hủ tiếu của người Campuchia, thêm vào nước dùng để cân bằng lại vị mặn và khiến nước dùng ngọt hơn.

"Vị phở Sài Gòn có xu hướng ngọt nhiều hơn mặn, trong khi ở Hà Nội thì vị mặn nhiều hơn ngọt. Còn một điểm khác về Sài Gòn và kiểu nấu ăn của ẩm thực miền Nam là khẩu phần ăn lớn hơn. Vì vậy tô phở cũng bự hơn nhiều," Nguyễn cho biết.

Và trong lúc người Hà Nội khi ăn phở kiểu truyền thống chỉ kèm thêm lá húng Láng, thứ rau thơm chỉ trồng được ở làng Láng của Hà Nội, thì ở Sài Gòn, các loại gia vị khác như tương đen, tương ớt và các thức ăn kèm khác như giá, rau quế, ngò và ngò gai cũng được phục vụ tại bàn để thực khách có thể tự thêm vào món ăn theo ý thích riêng.

"Người Nam rất dễ tính," bà Sương nói. "Họ không quan trọng có thay đổi chút ít trong cách nêm nếm. Thực ra kiểu này khiến họ thấy mới hơn."

Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào mùa xuân năm 1975, nhiều người từ miền Nam, hầu hết là ở Sài Gòn, vượt biên đi Mỹ và đến nhiều nơi khác trên thế giới, mang món phở nấu kiểu Nam đi cùng.

Phở bắt rễ ở bất cứ nơi đâu có người Việt sống và giờ đây đã trở thành món ăn nổi tiếng nhất của người Việt.

Nguyễn quan sát rằng khi ẩm thực Việt Nam trở nên nổi tiếng hơn, thực khách nước ngoài bắt đầu được biết đến nhiều kiểu nấu phở và đổi vị, cũng như ẩm thực vùng miền Trung Hoa - từ Sơn Đông đến Tứ Xuyên - cũng ngày càng trở nên thời thượng trong vài năm qua.

"Món ăn đã thay đổi từ món ban đầu do người tị nạn Việt Nam đem đến đây, và trở nên gần hơn với vị mà bạn ăn ở Việt Nam," bà giải thích.

Đổi thay cũng đang diễn ra ở Việt Nam. Các chuỗi hàng phở sử dụng bò nhập khẩu do người Việt từ nước ngoài đem về giờ đây đang định hình lại thị trường phở ở Việt Nam. "Vậy là bạn biết món ăn này có qua có lại, chiều ảnh hưởng rất thông suốt," Nguyễn giải thích.

Bản chất phở là món ăn linh hoạt và dễ thích nghi. Nhưng khi phở tiếp tục biến đổi, thì quan ngại là - như trong vụ món ăn của Gerard - trong quá trình đó món ăn sẽ có thể dần mất đi cái hồn của nó.

"Tôi nghĩ rằng điều quan trọng ở đây là mọi người hiểu xuất xứ của phở. Và với những người thực sự sáng tạo với món này, họ cần phải hiểu món ăn đến từ đâu và tôn trọng những người làm ra nó," Nguyễn nói.

Bà Sương đồng ý công thức nấu không phải dẫm chân tại chỗ, và bà nghĩ rằng không ai có thể nấu phở chính xác như 100 năm trước.

"Truyền thống và hiện đại cần đi song song để phở có thể phát triển," bà nói. "[Nhưng] chúng ta cần phải bảo vệ nguồn gốc của phở để biết nguồn gốc của mình."

*

Phở Sài Gòn

------------------

Pho: The humble soup that caused an outrage
Lili Tu
BBC Travel
22 April 2021

When an American blogger named Tieghan Gerard naively dubbed her quick noodle soup recipe "chicken Pho", it caused a storm in a soup bowl. She was accused of whitewashing the iconic Vietnamese dish and misappropriating a culture and its people. Although the creator of Half Baked Harvest with millions of followers apologised and renamed her recipe "sesame chicken and noodles in spicy broth", many Vietnamese Americans believe the title change was not sufficient and that the issue extends far beyond food, especially with the current rise in hate crimes targeting Asian Americans.

While the culinary catastrophe played out on Instagram and had everyone from chefs to influencers to food lovers up in arms, the upside was that it shone a fresh light on Vietnam's beloved national dish and its long history both in Vietnam and across the world.

Pho, a fragrant, nourishing and gently spiced beef and rice noodle soup, is relatively new in the Vietnamese culinary canon – only appearing in written records in the early 20th Century – but the history of this humble soup is both as subtle and complex as its flavour.

"I have had Pho for all my life, but the story of Pho is very rich," said Andrea Nguyen, acclaimed Vietnamese American cookbook writer and James Beard winner. "And so, you think you know Pho, but you really don't because Pho changes."

While most historians agree that Pho was invented in the late 19th and early 20th Century in northern Vietnam during French colonial times, its origins are murky. Some believe Pho was an adaptation of the French one-pot beef and vegetable stew pot-au-feu, which shares a phonetic similarity to "phở". Others say it was from the Chinese communities who settled in the north of Vietnam and sold a dish called 牛肉粉 (beef with noodles). The Chinese character for 粉 is pronounced "fuh", which is similar to the Vietnamese "phở".

Alex Tran, a Vietnamese chef and food writer who is currently based in New Zealand, suggests the origin of Pho may be a combination of both. "Rice noodles and other spices used in making the broth undoubtedly have a connection with Chinese people in the north. However, beef is not the daily meat of the Vietnamese as we use buffaloes for farming. Only under the French colonial regime did the consumption of beef start to appear and bloom."

Whatever Pho's origins, it is both beloved across the country as its national dish and a matter of fierce local pride and contention, where each region has its own preferred take on the ingredients.

"I personally would call it a dish that unites and tears us apart," Tran said. "This is our national pride, but we would never settle on which type of Pho is the 'real Pho'. If you want to make Vietnamese fight each other, ask them which Pho is the best."

While many overseas Pho connoisseurs will be familiar with Saigon's southern-style of Pho, which has a sweeter broth and a liberal use of garnishes and condiments, the first version of the soup is thought to have originated in the north, 100km south of the Vietnamese capital of Hanoi, in Nam Dinh province.

Here, south of the rich, fertile Red River Delta, a wide flat horizon embraces rice paddies, banana trees and bamboo hedges. This agricultural region, where most of the workforce were traditionally farmers, is also where most of the best-known Pho masters in Vietnam come from. Many of them are linked to the Co family in Van Cu village, south of Nam Dinh city.

The peaceful village is surrounded by traditional green rice paddies that contrast with the red tile house roofs. At the village entrance is a shop with a Pho sign that has hung there for many generations. This is the hometown of Vu Ngoc Vuong and his uncle Co Viet Hung, who at 87 is one of the oldest Pho masters alive. Vu Ngoc Vuong is an award-winning Pho master himself, with a chain of five Pho restaurants plus a rice noodle workshop in Hanoi.

According to Vuong, when not cultivating rice, his ancestors travelled to towns and cities where they worked as street vendors. They made and sold bánh đa cua, a type of river crab soup using the tiny crabs that were abundant in the rice fields to make a seafood broth that's served with a type of white flat rice noodles, similar to Pho noodles. They also ate a traditional soup unique to the region called xáo, which was made with slices of water buffalo meat cooked in a simple bone broth with rice vermicelli noodles, spring onions and herbs.

Although no one is sure exactly how Pho came about, most believe that villagers saw an opportunity in in 1898 when French colonialists started constructing the Nam Dinh textile plant. French technicians and thousands of workers flooded into the region to work on Indochina's largest silk plant, and these two soup dishes were likely combined and modified to cater to French tastes.

"The French like beef so the villagers tweaked it by adding beef to the bánh đa cua," Vuong said. "Also, they were given the discarded bones by the French who came to build the textile plant, so they took them back and boiled those to make the broth. They told us that was how Pho was created."

As construction workers moved from Nam Dinh to Hanoi to work on the Long Bien bridge project, the nourishing noodle soup quickly spread beyond the village. Carrying portable Pho stalls on poles over their shoulders, impoverished villagers followed the construction workers, making a good income from selling Pho, and the meal-in-a-bowl soon became a favourite for people living in the capital.

"The first person from the Co family who brought Pho to Hanoi was Co Huu Vong. If he was still alive, he would be 130 or 140 years old," Vuong said. "He came to Hanoi and rented a house. Young men from the village came and made Pho; they took their mobile stalls around Hanoi during the day and went back to the house to sleep at night."

Co Huu Vong's sons and daughters eventually set up Pho shops in Hanoi's Old Quarter, and a few of those, now run by the third generation, are among the highest regarded Pho vendors in the city, such as Phở Gia Truyền Bát Đàn and Phở Bò Việt Hoà Cụ Chiêu. "Ninety percent of my village have moved to Hanoi to live and run Pho businesses, only 10% have stayed in Nam Dinh," Vuong said.

From here, Pho went in very different directions. In Nam Dinh's version, beef slices are wok-fried with garlic, greens and a piece of tomato, then placed on top of blanched noodles before pouring a huge ladle of the aromatic broth into the bowl. Meanwhile, Hanoians took a far minimalist approach to the dish.

In Hanoi, Pho is all about the quality of the broth, with some feeling that even herbs can distract from the flavour. According to Mrs Bui Thi Suong, a cultural ambassador for Vietnamese cuisine, beef Pho broth in Hanoi is made of just beef bones and beef meat; while chicken Pho broth only has chicken. Heading further south you don't see that same specificity. Bun Bo Hue broth in Hue in central Vietnam, for example, uses both beef and pork plus more complex seasonings.

"The single use of an animal type in broth is very similar to the French cooking, which makes the taste more delicate and refined," Suong said. Today, many purists say that the most "authentic" Pho is from Hanoi.

Vuong believes that the broth is the litmus test of a good Pho. He explained that a good broth should have a deep and sweet flavour from the marrow bones that have been simmering for hours, yet it needs to be clear, amber-like colour and subtly spiced. "Spices used in Pho should be subtle undertones of flavour rather than complex layers. When the customers taste it, they shouldn't feel any spice stronger than others," he said.

Although beef Pho was the go-to in Hanoi up until the mid-20th Century, the dish continued evolving. In 1939, the government tried to curb the slaughtering of cows by forbidding the sale of beef on Mondays and Fridays, and Hanoians had to reinvent Pho to satisfy their cravings. Chicken Pho was embraced by residents of the capital, and today, along with beef, it remains a much-loved version in Vietnam and beyond.

Nguyen says her fondest moment eating Pho in Hanoi was "a spectacular chicken Pho". "By that, I mean it tasted just like my mother's Pho, yet it had all of the chicken parts that I have never eaten before," she said. "The chicken broth was so beautifully made, and it tasted like tonic. It's like a wonderful medicine."

In 1954, as the French colonial period ended and Vietnam divided into two, millions of northern Vietnamese migrated towards the south. Pho came with the migrants to the new lands and was adapted to the local taste, culture and produce of each region. The flavours of Pho could be sweeter, saltier or spicier depending on the degree of local preference. What remained consistent was the clear bone broth, the soft white rice noodles, the tender meat slices and green spring onion. The garnish, condiments and additions are where things diverged. In Hoi An, on Vietnam's south-central coast, for example, Pho is served with crushed peanuts, a local chilli oil called ớt rim, pickled green papaya, Thai basil, fresh chilli, lime and fried baguette slices on the side.

Saigon's cultural diversity, with its large Chinese and Cambodian communities and the availability of new ingredients, further fuelled the dish's evolution. Rock sugar from Chinese cooking, and white radish, an ingredient of Cambodian noodle soup kuy teav, were added to the broth to balance the saltiness and make it sweeter. "The flavour of Saigon Pho tends to be more sweet than savoury, whereas Hanoi is more savoury than sweet. And the other thing about Saigon and southern style foods is that everything is larger. So the bowls of Pho are far bigger," said Nguyen.

And while Hanoians only traditionally used mint from the capital's Láng area, in Saigon, condiments like fermented bean and chilli sauce and garnishes such as bean sprouts, basil, cilantro and rice-paddy herb were placed at the table so diners could customise the soup to their preference.

"Southern people are very easy going," said Suong. "They don't mind a bit of change in the use of seasoning. It is actually refreshing for them."

After the Vietnam War ended in spring 1975, many people from the south, mostly Saigon, fled to the US and other parts of the world, taking southern-style Pho with them. Pho has taken root wherever the Vietnamese are and has now become the most recognised Vietnamese dish around the world.

Nguyen observes that as Vietnamese food becomes more popular, people outside Vietnam are starting to be educated on its many variations and permutations, just as regional Chinese cooking – from Shandong to Sichuan – has becoming increasingly trendy in recent years. "It changes from what was brought over here initially by Vietnamese refugees, and becomes perhaps closer to the experience that you would get in Vietnam," she said.

Changes are happening in Vietnam, too. Imported beef and Pho chains run by expatriate Vietnamese are redefining the Pho landscape in Vietnam. "So you know it goes back and forth, the direction is very fluid," Nguyen added.

Pho by nature is a versatile and easily adaptable dish. But as Pho keeps evolving, the concern – as seen in the outrage over Gerard's dish – is it might lose its soul in the process.

"I think that what's important is for people to understand the origins of Pho. And for people to be really creative with it, they need to understand where Pho came from and appreciate the people who make it," said Nguyen.

Suong agrees that recipes aren't stagnant and thinks that no one could cook Pho exactly like it was 100 years ago. "The traditional and the modern need to be in parallel so Pho can evolve," she said. "[But] we need to protect the origin of Pho so we know our roots."

*

Phở Nam Định






Saturday, 26 September 2020

Thăm viếng các chùa ở Bangkok, Thái Lan.

Mấy năm trước, khi cùng bà xã về thăm gia đình ở Bangkok, tôi lập một chương trình đi viếng các chùa trong quận Phra Nakhon (พระนคร), trung tâm hành chính của Bangkok (xem vòng tròn màu đỏ trong bản đồ). Nơi đây có nhiều chùa xưa và nổi tiếng. Qua Google và các sách hướng dẫn du lịch, tôi lập một danh sách các chùa có tên viết theo ký tự la-tinh và chữ Thái, kèm theo địa chỉ. Có tất cả khoảng 20 ngôi chùa tôi dự định sẽ đến viếng.

Nhà gia đình chúng tôi ở gần phi trường Don Muang, ngoại thành Bangkok. Mỗi ngày vào buổi sáng sớm, khoảng 7:30 sáng, tôi đón xe lửa đi 25 km về thành phố. Trạm cuối cùng là Hua Lamphong, cách trung tâm quận Phra Nakhon khoảng 3 km. Xem dấu hiệu ngôi sao màu tím trong bản đồ kèm theo.

Từ trạm xe lửa trung ương đó, tôi đón xe ôm hoặc xe tuk-tuk đến một chùa trong vùng Phra Nakhon, rồi dành trọn ngày đi bộ viếng các chùa khác gần đó. Toàn khu vực Phra Nakhon có đường kính khoảng 3.5 km (xem vòng tròn màu đỏ trong bản đồ), có thể thong thả đi bộ, không khó khăn. Tôi chia khu vực này làm 3 vùng, mỗi ngày đi viếng một vùng, khoảng 6-7 ngôi chùa. Tôi cũng dành thì giờ đón đò, vượt sông Chao Phya, qua bên kia bờ sông để viếng Wat Arun, Wat Rakhang và vài chùa khác.

Đi như thế trong 3 ngày là xong. Các bạn có thể ở khách sạn trong khu vực này. Có đủ loại khách sạn, từ vài chục đô-la đến vài trăm đô-la một đêm. Rồi từ đó đi viếng các chùa tương tự như tôi đã thực hiện. Thời tiết Bangkok giống như Sài Gòn, nên chọn đi tham quan vào tháng 12 dương lịch, trời tốt, mát mẻ, không mưa.

Người Anh có câu: Where there's a will, there's a way - Nơi nào có ý chí, nơi đó có con đường. Nếu quyết tâm thì sẽ thực hiện được, không khó khăn.

---------------

Ghi thêm: Chùa Thái ở vùng Phra Nakhon, Bangkok

1. Wat Benchamabophit – วัดเบญจมบพิตร
2. Wat Bowonniwet - วัดบวรนิเวศ
3. Wat Buranasiri Mattayaram - วัดบุรณศิริมาตยาราม
4. Wat Chana Songkhram – วัดนะสงคราม
5. Wat Iam Woranuch - วัดเอี่ยมวรนุช
6. Wat Intharawihan - วัดอินทรวิหาร
7. Wat Mahannapharam - วัดมหรรณพาราม
8. Wat Mahathat – วัดมหาธาตุ
9. Wat Mai Armataros - วัดใหม่อมตรส
10. Wat Makut Kasatriyaram – วัดมกุฏกษัตริยาราม
11. Wat Noranarth Soontarikaram - วัดนรนาถสุนทริการาม
12. Wat Parinayok - วัดปรินายก
13. Wat Phra Chetuphon - วัดพระเชตุพน (Wat Pho - วัดโพธิ์ )
14. Wat Phra Kaew - วัดพระแก้ว
15. Wat Ratchapradit – วัดราชประดิษฐ์
16. Wat Ratchabophit - วัดราชบพิธ
17. Wat Ratchaburana – วัดราชบูรณะ
18. Wat Ratchanatdaram - วัดราชนัดดาราม
19. Wat Saket – วัดสระเกศ
20. Wat Sam Phraya - วัดสามพระยา|
21. Wat Sangwet Witsayaram – วัดสังเวชวิศยาราม
22. Wat Somanas - วัดโสมนัส
23. Wat Suthat Thepwararam – วัดสุทัศนเทพวราราม
24. Wat Tri Thotsathep – วัดตรีทศเทพ
25. Wat Yannawa – วัดยานนาวา

Bên kia bờ sông Chao Phraya:

26. Wat Arun – วัดอรุณ
27. Wat Rakhang Khositaram – วัดระฆังโฆสิตาราม
28. Wat Khruawan - วัดเครือวัลย์
29. Wat Molilokkayaram - วัดโมลีโลกยาราม
30. Wat Kalayanamit – วัดกัลยาณมิตร
31. Wat Prayurawongsawat - วัดประยุรวงศาวาส

----------


Wednesday, 29 April 2020

30/4: Thành kính tưởng niệm

Thành kính tưởng niệm những người đã chết trong cuộc chiến, 1954-1975, và những người đã chết trên đường di tản, tị nạn, 1975-1995. 
 
Nguyện cho tất cả được tái sinh về cõi an vui.

----------------
Theo Wikipedia, có khoảng 2,5 triệu người Việt thuộc các thành phần, phe phái khác nhau đã chết trong cuộc nội chiến 1954-1975. Sau đó, 1975-1995, có khoảng 2 triệu người di tản, tị nạn, rời khỏi Việt Nam. Ước tính khoảng 10% (200,000 người) đã bỏ mạng trên biển.

*



Ghi chú:

1) Theo Wikipedia, khoảng 2,5 triệu người -- thuộc nhiều thành phần, phe phái -- đã chết trong cuộc chiến.
(Vietnam War casualties, https://en.wikipedia.org/wiki/Vietnam_War_casualties )


2) Encyclopeadia Britannica tóm tắt (https://www.britannica.com/event/Vietnam-War):

The human costs of the long conflict were harsh for all involved. Not until 1995 did Vietnam release its official estimate of war dead: as many as 2 million civilians on both sides and some 1.1 million North Vietnamese and Viet Cong fighters. The U.S. military has estimated that between 200,000 and 250,000 South Vietnamese soldiers died in the war. In 1982 the Vietnam Veterans Memorial was dedicated in Washington, D.C., inscribed with the names of 57,939 members of U.S. armed forces who had died or were missing as a result of the war. Over the following years, additions to the list have brought the total past 58,200. (At least 100 names on the memorial are those of servicemen who were actually Canadian citizens.) Among other countries that fought for South Vietnam on a smaller scale, South Korea suffered more than 4,000 dead, Thailand about 350, Australia more than 500, and New Zealand some three dozen.

3) Sau đó, 1975-1995, có khoảng 2 triệu người di tản, tị nạn, rời khỏi Việt Nam. Ước tính khoảng 10% (200,000 người) đã bỏ mạng trên biển.

According to the United Nations High Commissioner for Refugees, between 200,000 and 400,000 boat people died at sea. Other wide-ranging estimates are that 10 to 70 percent of Vietnamese boat people died at sea. (https://en.wikipedia.org/wiki/Vietnamese_boat_people).

4) Đọc thêm:
Indochina refugee crisis, https://en.wikipedia.org/wiki/Indochina_refugee_crisis

*-----*

Friday, 28 February 2020

KHUYẾN CÁO DU HÀNH – DỊCH CÚM CORONA COVID-19

Trong suốt chuyến du hành về VN lần này, từ ngày 6 đến 27/02/2020, tôi luôn luôn theo dõi các khuyến cáo của chính phủ Mỹ và chính phủ Úc, cho các công dân Mỹ và Úc đang du hành khắp nơi trên thế giới, đăng ở 3 trang web sau đây:

1) Úc: Smart Traveller - www.smartraveller.gov.au
https://www.smartraveller.gov.au/destinations/asia/vietnam

2) Mỹ: Travel Advisory - travel.state.gov
https://travel.state.gov/content/travel/en/traveladvisories/traveladvisories/vietnam-travel-advisory.html

3) Mỹ: Centers for Disease Control and Prevention
https://wwwnc.cdc.gov/travel/destinations/traveler/none/vietnam

*

Tổng quát và tóm lược, các khuyến cáo này chia thành 4 cấp độ (level), cập nhật thường xuyên:

- Cấp độ 1: Exercise Normal Precautions hay Exercise normal safety precautions - Du hành với mức độ thận trọng thông thường.

- Cấp độ 2: Exercise a High Degree of Caution hay Exercise Increased Caution – Du hành với mức độ thận trọng gia tăng.

- Cấp độ 3: Reconsider your Need to Travel hay Reconsider Travel – Hãy xét lại có nên du hành đến đó hay không?

- Cấp độ 4: Do Not Travel – Không nên du hành đến đó.

*

Trong suốt tháng 2-2020, tôi theo dõi các lời khuyến cáo này, hầu như mỗi ngày. Cho đến nay, 28/02/2020, khuyến cáo về du hành Việt Nam vẫn ở Cấp độ 1, không thay đổi.

Vì vậy, tôi quyết định tiếp tục cuộc du hành như đã hoạch định từ trước. Trước và trong chuyến du hành, tôi có bàn với vợ tôi rằng nếu ngày nào đó mà sự thẩm định của cả 3 trang web trên thay đổi, nâng mức độ thận trọng lên Cấp 2 hay cao hơn là chúng tôi hủy bỏ cuộc hành trình và lập tức quay về Úc. Tuy nhiên, trong suốt 3 tuần lễ qua, mức độ khuyến cáo về du hành Việt Nam vẫn ở mức Cấp độ 1.

Dĩ nhiên mình cần phải thận trọng về mức độ vệ sinh và an toàn cá nhân, nhưng mình vẫn tiếp tục sinh hoạt di chuyển giao du bình thường. Phần còn lại là để Pháp vận hành, tùy theo duyên nghiệp của mỗi cá nhân.

*

Tuesday, 9 October 2018

Một cuộc hành trình kỳ diệu

Hành trình kỳ diệu tìm cha mẹ đẻ của một con nuôi gốc Việt.
Chuyện do David Lemke kể

*

Nguyễn Quốc Túy sinh năm 1970, cũng có thể là 1971, ở Sa Đéc, một thị trấn nhỏ ở Đồng bằng Sông Cửu Long, miền nam Việt Nam. Túy bị đem cho nhà thờ địa phương, cũng là một cô nhi viện, khi mới bảy ngày tuổi. Cuộc chiến dài và đẫm máu ở Việt Nam khi đó vẫn đang tiếp diễn ở vùng đầm lầy phía nam Sài Gòn.

Khi lên một tuổi, Túy bị bại liệt. Các cơ chân của cậu không phát triển được nữa. Đến khi lên ba, cậu được chuyển tới một cô nhi viện có điều kiện sinh hoạt khá hơn ở Sài Gòn. Do sức khỏe nên cậu nhanh chóng được đưa vào danh sách cho làm con nuôi.

Cách xa hàng nghìn dặm, một cặp vợ chồng ở bờ biển phía tây nước Mỹ đang sẵn lòng đem đến cho cậu một mái ấm mới.

CẬU BÉ TRONG DANH SÁCH BỊ BỎ RƠI

Cha mẹ tương lai của Túy, Kristin và Thomas Buckner, muốn có một gia đình đa văn hóa, và họ muốn trao cho những em nhỏ "bị lãng quên" cơ hội phát triển. Họ đã có một con ruột, Paul, và bắt đầu nhận con nuôi từ khắp nơi trên thế giới.

“Chúng tôi muốn có một gia đình lớn,” Thomas nói, "nhưng vào lúc đó trên thế giới người ta bàn luận sôi nổi về nạn nhân mãn. Chúng tôi quyết định sẽ chỉ sinh một đứa con, bởi còn có rất nhiều em nhỏ khác cần có gia đình." Kristin - nay mang lại tên họ thời con gái là Brockschmidt, sau khi bà và Thomas ly hôn - nói đùa:

“Có một thực tế ít ai biết là cũng giống như khi bạn vô tình có bầu, có con ngoài dự kiến, bạn cũng có thể bất ngờ phát hiện ra là mình muốn nhận con nuôi. Tại Việt Nam, Túy nằm trong danh sách bị bỏ rơi. Họ nói rằng không có ai tới thăm kể từ khi cậu được đưa vào cô nhi viện.”

“Cậu bé được cho là khoảng ba tuổi,” bà nói và nhớ lại những cuộc trò chuyện của bà với một cơ quan chuyên làm thủ tục nhận con nuôi của Mỹ hồi 40 năm trước.

Thomas nói rằng Túy chỉ về với gia đình họ - vào mùa thu 1974 - bởi kế hoạch nhận nuôi một bé trai người Việt khác của họ diễn ra chậm chạp.

“Chúng tôi khi đó muốn nhận một cháu mà chúng tôi gọi là Robin, nhưng rồi thủ tục bị chậm trễ do vấn đề thiểu năng trí tuệ của cháu. Thế là chúng tôi đồng ý nhận một cháu trai khác - và đó là Túy.”

Túy trở thành đưa con thứ tư trong nhà Buckner. Rồi thêm hai đứa trẻ nữa, trong đó có Robin, được đón nhận về chung gia đình. Túy cười lớn, “chúng tôi là nhà Buckner Bunch, bắt chước theo chương trình truyền hình Mỹ, The Brady Bunch.”

Túy (phải) với các nữ tu trước khi cậu bị mắc bệnh bại liệt


TRÍ TUỆ QUÁI DỊ

Những ngày đầu tiên của Túy tại Berkeley, nam California, không dễ dàng gì. Tâm lý lo lắng bất an của cậu đã được nhân viên cô nhi viện ghi chép cẩn thận. Chuyển sang sống trong một môi trường mới không làm cậu giảm bớt những lo lắng sợ hãi. Rất bản năng, Túy luôn cất giấu từng mẩu thức ăn mà cậu được đưa cho.

“Cậu bé giữ thức ăn thừa trong cái túi do một người bạn gia đình làm cho, và mang cái túi đó theo bất kỳ đâu,” Kristin nói.

“Cậu bé cũng giấu đồ chơi mình thích vào các khe lò sưởi để có thể tìm lại được. Trong sáu tháng đầu tiên, tôi mang cháu theo khắp nơi để cháu cảm thấy yên tâm.”

Dần dần, Túy trở nên cởi mở hơn và tin cậy cha mẹ cùng các anh chị em mới, gia đình mới của mình. Cậu cũng trở nên tự tin hơn khi vượt qua được những thách thức thể lực hàng ngày từ đôi chân không có cơ bắp của mình.

Kristin nhớ lại một chuyến đi chơi tới công viên ở khu đồi Berkeley, nơi Túy nhìn các anh chị em vui đùa ở sân chơi trẻ em. Bà quan sát thấy cậu bò tới chỗ thang lên cầu trượt, tự trèo lên, từ trên cao nhìn ra xung quanh rồi tự trượt xuống. “Đó là thời khắc tôi biết cháu sẽ ổn, và đó là những thách thức mà Túy phải vượt qua.”

Túy đã phải trải qua cuộc phẫu thuật bởi chân cậu bắt đầu phát triển dài ra nhưng cơ bắp và hệ thần kinh ở đó thì không. Cậu đi lại bằng cách chống nạng và dùng nẹp đỡ, cậu nhanh chóng học nói tiếng Anh. Khi chưa đầy sáu tuổi, cậu đã biết đi bộ đường dài, đi xe đạp, leo núi và trượt tuyết bằng cách dùng thiết bị hỗ trợ.

Thế nhưng khi bước vào việc học hành với hệ thống giáo dục California, đã có những trở ngại cho quá trình tiến bộ của cậu. Giáo viên thì cho rằng cậu lười biếng. “Tôi chỉ đọc được một câu, rồi thôi.” Cả Kristin và Thomas đều lo lắng về việc Túy không hiểu sao lại kém trong phần học đọc tiếng Anh căn bản.

“Một đêm mẹ tôi nghĩ ra một ý,” Túy nói. "Bà vào phòng tôi, đưa cho tôi một trong những cuốn sách tôi cần đọc, nhưng đưa ngược. Tôi đọc được. Thế là gia đình phát hiện ra rằng tôi bị chứng rối loạn đọc chữ nghiêm trọng.”

Với chứng bệnh này, các anh chị em bắt đầu gọi cậu là có "trí tuệ quái dị" (“diabolically intelligent”).

“Khi tất cả bọn trẻ ra ngoài chơi thì tôi lại ngồi làm thứ gì đó," Túy nói. “Tôi chơi cờ vua rất tốt. Tôi bắt đầu đẽo gọt gỗ. Tôi đọc các quyển niên giám mà mọi người chắc không thể tin đâu.”

Nhưng niềm hứng thú trong việc làm các thứ đồ và tìm giải pháp cho các thứ của Túy dần ảnh hưởng tới việc học hành của cậu ở trường trung học.

“Nó có thể lấy các mắc áo làm từ dây thép ở nhà đi, và bỏ các giờ học toán để đi làm các miếng ghép hình - thứ mà quý vị sẽ cần phải có sự khéo léo mới làm được,” Kristin nói. “Tuy những thứ đó làm bạn bè thán phục, nhưng việc bỏ giờ học thì không. Rõ ràng là một trường trung học công có quy mô to lớn đã không đem đến cho nó sự hỗ trợ hay những cơ hội để nó học hỏi những thứ mà nó cần.”

Vậy là sau một thời gian ngắn học tại một trường tư địa phương ở Oakland gần đó, Túy rời gia đình. Cậu đi hơn 2 ngàn dặm tới Big Island ở Hawaii, nơi cậu đã có những kỳ nghỉ hè với gia đình - để vào học ở một trường nội trú tư nhỏ hơn nhiều.

Tại đó, Túy cảm thấy độc lập hơn. Cuộc sống ở đảo phù hợp với cậu. Cậu thấy gắn bó mạnh mẽ với văn hóa Hawaii, tới mức cậu coi mình là một người dân đảo. Cậu thậm chí còn mở một cửa hàng trong khu nội trú của trường, bán mỳ, kẹo và nước uống có gas để kiếm thêm chút bạc lẻ.



GOOD MORNING VIỆT NAM!

Túy đã chấp nhận rằng mình khi bước vào thời tuổi trẻ là người sống không có mục đích và rất dễ bị phân tán suy nghĩ. Nhưng vào năm 1991, anh có cơ hội tới Việt Nam cùng với mẹ nuôi, Kristin.

Cha mẹ anh luôn cởi mở về việc anh có cội rễ từ đâu, và Kristin đã từng đưa anh đi vài lần tới Á châu. Nhưng đây là lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh, họ, những thường dân Mỹ, có cơ hội tới thăm Việt Nam. Kristin khi đó đang giúp tổ chức chuyến đi bộ vì hòa bình đầu tiên tại Việt Nam để phản đối lệnh cấm vận thương mại của Hoa Kỳ. Chuyến đi gồm các cựu chiến binh người Mỹ, các nhân viên hoạt động vì hòa bình, và những Việt kiều trở về.

“Hồi 1991, Việt Nam là một nơi hoàn toàn khác so với bây giờ,” Túy nói.

“Khó để mô tả, nhưng có cái gì nằm trong chuyến trở về đất nước mình. Cho tới khi đó, Việt Nam không để lại trong tôi cảm giác gì. Nhưng khi vừa hạ cánh, tôi thấy cảm xúc dâng trào. Sân bay Hà Nội khi đó thực sự là rất nhỏ. Hành khách đi bộ từ máy bay vào nhà ga. Tôi dừng giữa chừng và cúi hôn mặt đất. Tôi cảm thấy mình cần phải làm vậy.”

Trong toàn bộ các cuộc tuần hành theo kế hoạch, có lẽ kỳ lạ nhất là đoạn đường đi ở Đảo Khỉ - một trong 1.600 hòn đảo ở Vịnh Hạ Long, di sản Unesco. Đã có những chú khỉ tò mò cứ nhìn theo đoàn người. Túy nhớ rõ là tất cả đã ăn tối ra sao trong buổi đêm ở đảo chính, Cát Bà.

“Chúng tôi ngồi quanh từng bàn, rồi những vị chủ nhà người Việt, trong đó có một vị tướng quân đội, mời chúng tôi cùng ăn tối. Rốt cuộc chúng tôi uống khá nhiều. Tôi có chiếc cassette với bản nhạc trong phim của Robin William - Good Morning Vietnam. Tôi thuyết phục họ nghe bản đó, tôi ngồi cùng vị tướng và uống rượu Nga rẻ tiền tới say khướt. Vừa kỳ quặc, vừa tuyệt vời!”

Túy và Kristin hy vọng là sẽ được tới vùng Đồng bằng Sông Cửu Long - nơi Túy chào đời - sau khi chuyến đi bộ kết thúc. Thế nhưng các hạn chế đi lại đối với người nước ngoài khiến đó là điều không thể. Chuyến đi đã có tác động lâu dài đối với Túy. Anh cảm thấy như có cả một thế giới mới mở ra với mình.

Trồng một cây cột hòa bình tại Sài Gòn


CÔNG VIỆC CÒN DANG DỞ

Trở về Mỹ, Túy lao vào nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Anh tìm kiếm, làm quen với những người Việt Nam được bạn bè của cha mẹ anh nhận làm con nuôi.

Gia đình DeBolt, cũng sống ở nam California, được nhiều người ở Mỹ biết đến là một gia đình lớn với nhiều người con nuôi, trong đó có bảy người là trẻ khuyết tật đến từ Việt Nam. Một trong những người con đó nằm trong số hàng ngàn trẻ em và trẻ sơ sinh được không vận ra khỏi Việt Nam trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Các em được các gia đình ở Mỹ, Canada, Úc và châu Âu nhận làm con nuôi.

Túy trở thành bạn thân với Ly, Tích và David. Họ dành thời gian đi chơi với nhau, chơi một trò đánh bài kiểu Việt Nam, Tiến Lên, ăn các món ăn đồ Việt Nam, uống cà phê sữa đá. Tới 1993, khi Ly bay về Việt Nam để kết hôn, Túy đồng ý đi cùng bạn bè về ba tháng. Lúc này, anh đã có thể đi lại ở Việt Nam dễ dàng hơn hồi 1991. Anh cũng có những công việc còn dang dở ở Đồng bằng Sông Cửu Long.

“Tôi chỉ muốn ngắm thị trấn Sa Đec và cô nhi viện nơi tôi được đưa đến,” anh nói. “Tôi hy vọng được nói lời cảm ơn tới các bà sơ ở đó, và được nhìn thấy những người sống ở nơi đó thì cũng giống như được nhìn thấy cha, mẹ ruột của mình.”

Túy và bạn bè trú tại một khách sạn ở TP Hồ Chí Minh. Chủ khách sạn, một sỹ quan quân đội nghỉ hưu và vợ, giúp họ thuê xe hơi và đưa Túy, Tích và David tới vùng sông Cửu Long hẻo lánh đó. Đường sá xấu, các cây cầu bị cuốn trôi khiến chuyến đi vất vả hơn họ tưởng. Đi lại ở Việt Nam không phải là điều đơn giản, và với người khuyết tật thì mọi sự còn khó khăn hơn. Vậy là quyết định được đưa ra: vợ chồng người chủ khách sạn sẽ đi trước bằng tàu thủy xuống Sa Đéc, mang theo giấy tờ của Túy, tới thăm cô nhi viện.

Vài giờ sau, họ quay trở lại, mang theo tin tức. Vị nữ tu ký giấy tờ cho Túy, Sơ Desiree, nay sống tại thành phố Cần Thơ gần đó. Việc tìm được bà không khó khăn gì. Không có thông tin gì về cha mẹ Túy, nhưng bà biết về người mẹ đỡ đầu của anh.

“Sơ Desiree thật là tuyệt,” Túy nói. “Tôi không nghĩ rằng tôi sẽ tìm được ai, cho nên tìm ra bà sơ đã ký giấy khai sinh cho tôi quả là điều kỳ diệu.”

Trong hai tháng rưỡi sau đó, Túy ở cùng bạn bè tại Đà Nẵng. Anh đã có một khoảng thời gian tuyệt vời, nhưng trong lòng cảm thấy tan nát. Anh vẫn khát khao muốn được tận mắt nhìn thấy Sa Đéc, cho nên anh quyết định thử một lần nữa, sẽ tới đó trước khi rời Việt Nam, để cuối cùng sẽ có thể khép lại một chương trong cuộc đời mình.

Ba ngày trước khi bay trở về Mỹ, Túy rời Thành phố Hồ Chí Minh, lần này vẫn cùng các bạn và vợ chồng người chủ khách sạn. Lần này, sau hơn năm giờ đồng hồ lái xe trên những con đường đầy ổ gà, họ đã tới nơi.

Việc một nhóm người Mỹ gốc Việt khuyết tật tới nơi ngay lập tức gây ồn ã. Ở chợ, mọi việc buôn bán gần như ngưng lại ngay lập tức, mọi người bắt đầu kéo đến tụ tập trước cổng cô nhi viện. Túy nhớ là anh đã chào bọn trẻ, và ngồi trên những chiếc ghế xi măng nứt nẻ nhìn vào những bức tường quét ve vàng đã nhạt phai. Các nữ tu cho Túy xem một cuốn sổ ghi chép toàn bộ những đứa trẻ mồ côi từng sống ở đây.

Mở từng trang, Túy dò ra số 313 với bức hình của mình ngày bé, ghi tên Nguyễn Quốc Túy - trùng với tên ghi trong giấy khai sinh của anh. Bên dưới có vài chữ: “mẹ/cha - không rõ”.

“Tôi nghĩ, thật là lạ lùng, họ vẫn còn lưu giữ được các hồ sơ như thế này, và tên tiếng Việt của tôi quả là tên chính xác," Túy nói. Ở bên ngoài, bầu không khí phấn khích trên đường phố ngày càng dâng. “Một số người trong đám đông bên ngoài bắt đầu vào trong sân trước của nhà thờ để xem. Câu chuyện của tôi lan ra như đám cháy rừng ở khắp Sa Đéc.”

Rồi có một người phụ nữ đi vào nhà thờ. Các nữ tu biết rõ người này. Người phụ nữ được giới thiệu với Túy - đó là Phiên, có hình chụp khi còn là trẻ sơ sinh trong cuốn sổ cái của cô nhi viện. Túy được kể rằng ở cô nhi viện, những đứa trẻ lớn được giao nhiệm vụ chăm các em nhỏ hơn. Phiên là người đã chăm sóc Túy khi cô bảy tuổi.

Thật tình cờ là cô có mặt tại thị trấn vào cùng ngày hôm đó. Cô tới bệnh viện thăm người thân và ghé vào cô nhi viện thăm các bà sơ. Phiên bắt đầu nói chuyện sôi nổi với các bà sơ, nhưng Túy không biết tiếng Việt và không hiểu cô nói gì. David, người bạn gốc Việt của Túy, con nuôi của gia đình DeBolt, bắt đầu phiên dịch. Khi nghe những lời dịch lại, Túy nói, “đầu tôi như sôi lên”. Hóa ra Phiên có thông tin về mẹ Túy. Bà ấy vẫn còn sống.

“Bà ấy sống ở khá xa và đi mất nhiều thời gian, nhưng cô ấy có thể đi, đưa bà về gặp cậu,” David nói với Túy. “Tôi cảm thấy đờ đẫn, tê liệt,” Túy nói. “Tôi không biết là tôi sẽ phải chờ đợi bao lâu. Tôi cảm thấy hạnh phúc, sợ hãi và đau buồn.”

“Bà ấy là ai? Tại sao là bà ấy? Bà ấy là cái gì?” Tôi nghĩ. “Điều gì sẽ chứng mình cho bà ấy rằng tôi là ai, hay ngược lại? Liệu đó có phải là một cú lừa đảo để lợi dụng tôi không? Nếu thế thật thì tôi sẽ làm gì? Nếu không phải thì tôi sẽ phải làm gì?”

Trong lúc chờ đợi, Túy nhìn các bạn ăn trưa. Họ quây tụ ở những bậc thềm trước nhà thờ. “Thời gian trôi rất chậm, mọi thứ như bị xóa nhòa đi,” Túy nói. “Tôi nhớ là tôi chỉ nhìn đi nhìn lại vào biển người tụ tập bên ngoài.”

Cuối cùng, ở cổng như xảy ra một cuộc chấn động. Trông như thể người dân toàn thị trấn rẽ ra cho một nhóm nhỏ tiến vào. Khi nhóm người này tới được cổng chính, một phụ nữ lớn tuổi, nhỏ nhắn đeo kính chạy tới trước mặt Túy. Vội vã, Túy buột ra một câu nói tiếng Việt mà bạn bè anh đã dạy.

“Con trai của mẹ đã xa nhà 20 năm nhưng bây giờ con ấy đã trở về.”

Có một khoảnh khắc im lặng, rồi những người đứng nơi cổng bắt đầu huơ tay lên phía Túy. “Mọi người bắt đầu chỉ vào một người phụ nữ thứ hai, người vừa bước ra phía sau người thứ nhất,” anh nói. “Người đầu tiên mà tôi nói chuyện không phải là người đúng.”

“Có một khoảng im lặng chết người, cho tới khi có ai đó trong đám đông hô lên, ‘Vậy ai là con bà?’” Tích, bạn của Túy nói. “Mọi người cười, và không khí trở nên bớt căng thẳng.”

Người phụ nữ thứ hai bước tới chỗ Túy, nắm lấy gáy anh và kéo anh thấp xuống ngang tầm mình. Bà vạch tóc anh, khi đó để khá dài. “Tôi có một vết bớt trên đầu, có từ khi mới sinh,” Túy nói. “Đó là một trong những lý do khiến tôi để tóc dài, để che nó đi.”

Khi nhìn thấy cái bớt, bà thả anh ra và đập vào tay anh, nói: “Đây là con tôi!”

“Mọi người reo hò,” Túy nói. “Tôi vẫn không hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra, hay người ta đang nói những gì. Thế là David và Tích dịch cho tôi.”

“Khi đó, không còn chút nghi ngờ gì, người phụ nữ ấy đã chứng minh với tôi rằng bà là mẹ tôi, và tôi là con trai bà. Đó là thứ mà có lẽ chỉ người mẹ mới biết.”







CÒN CHA TÔI?

“Tôi khóc, hỏi mẹ cha tôi là ai, liệu ông ấy có mặt ở đây không,” Túy nói. “Bà nói ông ấy là người Philippines.”

“Như một cú tát vào mặt. Khi tôi ở Hawaii, tất cả người dân địa phương đều nói với tôi rằng trông tôi giống người Philippines, giống như thể họ trêu tôi vậy. Tôi nói tôi là người Việt thuần, nhưng hóa ra là họ đúng.”

Túy nói rằng anh và mẹ đẻ, bà Nguyễn Thị Bé, ngồi chuyện trò một lúc, qua lời phiên dịch của những người bạn.

“Tôi lặng đi trước những gì bà nói. Tôi có quá nhiều thứ muốn nói, mà không thể. Tôi thực sự cảm thấy xấu hổ, ngượng ngùng - tôi thấy lạc lõng về văn hóa.”

“Bà kể với tôi về việc tôi đã được sinh ra thế nào. Bà khi đó vô cùng đau yếu, không thể chăm nổi tôi. Sợ bản thân không qua khỏi, bà đã thu xếp đưa tôi cho nhà thờ. Khi khỏe lại, bà đã tìm cách đi kiếm tôi về, nhưng bà nói các nữ tu nói với bà rằng quy định là một khi đứa trẻ đã được cho đi thì không thể lấy lại được nữa. Khi chiến tranh kết thúc, mẹ tôi đã mất hết hy vọng được gặp lại tôi.”

Bà Bé trao cho Túy một cái tên và một địa chỉ liên quan tới cha anh - Fantaleon Sanchez, thành phố Calamba, Philippines.

*

Sáu tháng sau ngày đoàn tụ mẹ con, Túy đáp xuống thủ đô Manila. Anh cùng cha nuôi, Thomas, đi tìm cha đẻ của mình.

Thomas, một giọng ca baritone, được mời biểu diễn cùng dàn giao hưởng quốc gia của nước này - dường như đây là một cơ hội lý tưởng để tìm kiếm. Đó là năm 1994, internet còn đang trong giai đoạn trứng nước, và họ không có ý tưởng gì về việc chính xác là nên tìm kiếm thế nào ở Calamba, nơi khi đó có chừng 200 ngàn dân. Người tài xế đưa họ đi từ Manila đi chừng 30 dặm và khuyên nên ghé văn phòng chính quyền địa phương.

“Ngay khi bước vào tòa nhà, sẽ thấy văn phòng người mất tích,” Thomas nhớ lại.

Về mặt kỹ thuật thì trong chuyện này không có ai mất tích, người phụ trách việc này, có tên là Benito, nói và nhìn tấm ảnh Túy lấy từ người mẹ và người chị Việt của mình.

“Benito thông báo với chúng tôi rằng ông sẽ nói chuyện với tất cả các 'barrio' trong khu vực, tức là người coi sóc các mối quan hệ trong địa phương. Chỉ có vậy thôi. Rồi chúng tôi rời đi.”

“Tôi cảm thấy dễ chịu về việc đã tìm ra chỗ này,” Túy nói, “nhưng thành thật mà nói thì nó giống như là lại trải qua những cảm giác đó một lần nữa. Như trong mơ. Chỉ hy vọng mà không biết gì khác. Tôi thực sự muốn tìm thấy ông ấy, nhưng tôi thật ra thì không nghĩ là điều đó sẽ xảy ra.”

Thomas thực hiện lịch diễn xong và bay về nhà. Túy có thêm vài ngày ở Manila rồi cũng sẽ trở về Mỹ. Thế rồi có một cú điện thoại từ Benito.

“Ông ấy nói với tôi rằng ông đã tìm ra cha tôi. Người đàn ông đó đã có mặt ở Việt Nam trong thời chiến tranh, năm nay 65 tuổi và mang tên chính xác là Pantaleon Mance - nghe na ná như cái tên Fantaleon Sanchez mà mẹ tôi nhớ được. Tôi được nói rằng ông sẽ tới thăm tôi ở chỗ tôi đang trú chân [tại Manila] vào 8 giờ sáng ngày hôm sau.”

Cơn lạnh toát mồ hôi mà Túy từng cảm nhận hồi sáu tháng trước tại Sa Đéc lại xuất hiện. Sau một đêm mất ngủ, Túy mặc lên mình chiếc áo truyền thống của người Philippines mới mua, kiên nhẫn chờ đợi. “Khá là khác với buổi gặp mẹ ruột,” anh nói. “Tôi định là ông ấy phải chứng mình cho tôi thấy rằng ông ấy là cha tôi. Nếu các câu trả lời của ông ấy không chính xác thì buổi gặp sẽ kết thúc.”

Khi hai người trò chuyện, thì rõ ra là Pantaleon cũng có ý giống thế. Những câu hỏi, và những câu trả lời, trao qua đổi lại. Đến một lúc mọi sự rõ ràng rằng họ là cha con.

“Với cha, chỉ có riêng chúng tôi thôi. Hai người - hai người đàn ông - có thể trò chuyện với nhau. Với mẹ, có cả một đám đông, và chúng tôi chỉ có thể nói chuyện bằng thứ tiếng Anh đơn giản và bằng những cử chỉ ra dấu.”

"Chúng tôi thuê xe hơi đi Calamba để gặp những người chị em cùng cha khác mẹ của tôi, Tess và Faye, và rồi tới nhà người bạn của Pantaleon để ăn mừng. Tôi nhớ cảm xúc tràn ngập trong tôi khi ngồi trên xe. Hai ngày sau, cha tôi và các con ông ấy tiễn tôi ở sân bay. Cuộc đời tôi đã có thay đổi đột ngột, và tôi có những lựa chọn to lớn, cần phải ra quyết định...”




BẮT ĐẦU CUỘC ĐỜI MỚI

Không phải chỉ ở Philippines Túy mới có nhiều người thân mà anh chưa từng biết tới. Ở Việt Nam, anh cũng có một gia đình lớn. Ngoài mẹ ruột, bà Bé, anh còn có một người chị ruột tên là Phương, và năm người em cùng mẹ khác cha. Người chồng thứ hai của bà Bé gần đây qua đời do bị rắn cắn khi đi làm ruộng. Gia đình sống trong cảnh nợ nần, túng thiếu.

“Họ sống trong căn lều, nền đất dơ dáy và không có điện, còn tôi sống như trong nhung lụa, vào học trường nghệ thuật ở California,” Túy nhớ lại.

Mối liên hệ tình cảm giữa Túy với Việt Nam và người thân ở đó trở nên mật thiết. Trong những năm sau, anh tiếp tục đi về, và rồi dần dần cuộc sống của anh chuyển sang tập trung ở Việt Nam nhiều hơn là ở Mỹ. Anh xây dựng một khách sạn mini ở gần sân bay ở Thành phố Hồ Chí Minh cùng với một số bạn bè người Việt. Anh cũng mua một căn nhà ở Đà Nẵng, và học tiếng Việt.

Trong các chuyến đi tới Sa Đéc, Túy nói anh luôn giúp đỡ, nhưng không làm hư các anh chị em của mình. Dần dà, bà Bé và gia đình bắt đầu thoát khỏi cảnh đói nghèo. Túy cũng làm việc với bạn mình, David Dang, một trong những con nuôi của gia đình DeBolt, người vẫn giữ tên họ gốc. David thành lập Ablenet - một tổ chức phi lợi nhuận - với sứ mệnh đem các máy tính đã qua sử dụng từ Mỹ tới Việt Nam. Một trường học cũng được thành lập để dạy người Việt khuyết tật cách sử dụng máy tính và cách lập trình.

“Khi đó, nếu bị khuyết tật thì bạn chỉ là gánh nặng cho gia đình,” Túy nói. “Bạn chỉ có các xưởng dành cho người khuyết tật, ở dó đàn ông thì sửa xe đạp còn phụ nữ thì may vá hoặc làm đồ thủ công mỹ nghệ.” Ablenet kết nối hợp tác với một số tên tuổi lớn của Thung lũng Silicon. Nhưng sau vài năm, một phần do tình trạng quan liêu trì trệ ngày càng tăng ở Việt Nam, David đóng cửa công ty.

Năm 1996, Túy bị thương trong một tai nạn xe hơi ở Mỹ.



CLINTON

Cho tới trước đó, cơ bắp không phát triển ở chân khiến Túy phải dùng nạng và nẹp chân để di chuyển. Nhưng vụ tai nạn xe hơi buộc anh phải ngồi xe lăn vĩnh viễn. Túy bị rách nghiêm trọng một bên cơ quay, là nhóm bốn cơ bắp đi kèm nhau, cùng với gân giữ cho cánh tay và vai kết nối với nhau. Trong hai năm, khi mức độ chấn thương vai trở nên rõ ràng, Túy đã không thể đi đâu ra ngoài nước Mỹ được.

Nhưng vào một buổi chiều tháng Mười 2000, Túy nhận được cú điện thoại từ David Dang, và được trao một lời chào mời hấp dẫn khó cưỡng. Do những gì họ đã làm với Ablenet, họ được mời tham gia nhóm đại biểu IT đi cùng tổng thống Mỹ khi đó, Bill Clinton, trong chuyến đi lịch sử của ông tới Việt Nam.

Tổng thống Clinton là vị tổng thống đương nhiệm đầu tiên của Hoa Kỳ tới thăm Việt Nam kể từ sau chuyến đi của Richard Nixon tới Nam Việt Nam hồi 1969.

Khả năng sáng tạo từ nhỏ vẫn sống mãnh liệt trong con người Túy, và kể từ giữa thập niên 1990, anh đã hàn, dựng xe lăn, và thiết kế đồ trang sức. Trước khi đi Việt Nam, anh làm một loạt các huy hiệu kỷ niệm và dự định sẽ trao chúng cho một số người trong đoàn đi tháp tùng tổng thống.

Túy ngưỡng mộ Bill Clinton và anh mơ ước được gặp ông - nhưng cho tới khi chuyến đi gần kết thúc anh vẫn chưa có cơ hội được nhìn tổng thống, trừ những hình ảnh xem trên truyền hình.

Trong ngày cuối cùng của chuyến đi, Túy ngồi trên xe lăn đi vào Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Có một bữa trưa dành cho giới hoạt động trong lĩnh vực IT được tổ chức trong đó. Không có thang máy, cho nên Túy phải bò lên cầu thang, lôi theo chiếc xe lăn phía sau. Anh vào tới bên trong. Sau đó, do phải ngồi xe lăn, anh di chuyển tới phòng phía sau, hy vọng sẽ tìm được lối đi dễ hơn để xuống phố.

Anh bất ngờ nhận ra là mình lọt vào giữa nhóm Thượng nghị sỹ John Kerry, Dân biểu Loretta Sanchez, và Bộ trưởng Giao thông Norman Mineta. Túy giới thiệu bản thân. Họ nói chuyện với nhau. Anh được biết Tổng thống Clinton sẽ có bài phát biểu ở khu vực sảnh bên dưới.

Đó là cơ hội của Túy. Anh đi xuống khu vực nhỏ bên dưới cầu thang chính, nơi mọi người đang chuẩn bị khán đài. Anh dừng xe lăn ở phía trước và chờ đợi.

Khi Bill Clinton bước ra, sảnh đã đầy kín người. Túy nhớ lại là tổng thống nói về hy vọng của ông trong việc “bình thường hóa” quan hệ Việt - Mỹ, và về việc internet sẽ giúp ích cho Việt Nam trong tương lai. Túy nói rằng tổng thống cũng nói ông rất thích món phở. Cuối cùng, Tổng thống tiến tới phía trước và bắt tay mọi người.

Với nụ cười rạng rỡ, Túy dùng hai tay để bắt tay tổng thống, đúng theo văn hóa Việt Nam khi gặp người quan trọng. Bill Clinton bắt tay Túy theo cách tương tự. “Một diễn văn bất chợt này ra trong đầu tôi,” Túy nói. “Tôi nói rằng tôi đã theo dõi quá trình thay đổi của Việt Nam trong chín năm, và tôi muốn cảm ơn ông về việc bình thường hóa quan hệ.”

“Tôi nói với ông rằng tôi sinh ra ở đây, nhưng bị bại liệt và đã được một gia đình ở Mỹ nhận làm con nuôi, tôi đã lớn lên ở Berkeley. Tôi nói về cuộc đời tôi một cách nhanh chóng nhất có thể, nói về cuộc đi bộ vì hòa bình hồi 1991, về việc tôi đã tìm thấy gia đình Việt Nam của tôi ra sao hồi 1993. Tôi nói nhờ việc ông quyết định bình thường hóa quan hệ với Việt Nam mà có thêm nhiều Việt kiều có thể trở về, đoàn tụ với gia đình, với văn hóa và với đất mẹ.

“Tôi nghĩ rằng ông ấy lúc đó sẽ bỏ tay tôi ra, nhưng thay vào đó, ông trả lời rằng những người như tôi khiến cả chuyến đi thật có ý nghĩa, và ông rất vui vì đã thực hiện chuyến đi đó.”

Túy nói tổng thống hỏi liệu ông có thể chụp hình với anh được không, và gọi nhiếp ảnh gia chính thức của ông tới. Cái bắt tay kéo dài đã trở thành tin thời sự trên toàn quốc tại Việt Nam đêm hôm đó. Một lần nữa, giống như ngày anh đoàn tụ với mẹ đẻ tại Sa Đéc, Túy trở thành một người nổi tiếng mini.



NGÔI NHÀ CỦA NHỮNG BỨC ẢNH

Hàng trăm bức ảnh kể hàng trăm câu chuyện được gắn lên tường căn nhà lớn, hiện đại tại Sa Đéc. Chúng đều xoay quanh các hành trình của Túy. Nó hầu như giống với câu chuyện về nhân vật Forest Gump trong đời thật, trong hình hài người Việt.

Có những bức ảnh chụp nhanh khi Túy lần đầu gặp bà Bé, và khi anh đưa mẹ cùng chị gái sang Philippines hồi 2008 để gặp cha ruột, ông Pantaleon. Cũng có những bức ảnh chụp người phụ nữ Việt Nam mà Túy kết hôn hồi 2016. Hương, hay còn có tên là Katie, được một người bạn chung giới thiệu cho Túy sau khi cô từ Nhật trở về sau bốn năm theo học ngành kinh doanh. Cô tới làm việc tại công ty trang sức của Túy. Chuyện này dẫn tới chuyện khác, hai người yêu nhau.

Nay, lần đầu tiên trong suốt năm năm qua, cả đại gia đình Túy ở Việt Nam ngồi ăn tiệc với nhau. Bữa tiệc được tổ chức tại nhà của Phương, chị gái Túy.

Túy xây nhà cho mẹ, bà Bé, nhưng bà nay sống cùng anh và Hương trong căn hộ của họ tại Thành phố Hồ Chí Minh.



*

Tôi [*] ngồi với Túy, nhấp ngụm trà xanh nóng hổi từ chiếc chén nhỏ xíu, anh nói rằng câu chuyện về một đứa con nuôi tìm gặp lại được cha mẹ ruột không phải là điều gì mới lạ.

Nhưng câu chuyện chưa được kể, anh nói, là những gì diễn ra sau đó.

Đó là một quá trình dài để hội nhập, những thách thức mà người con nuôi phải đối diện khi cố tìm cách kết gắn với gia đình mới tìm thấy của mình. Tương tự thế, gia đình cũng cần hiểu về đứa con, người anh em trai hay chị em gái, bị thất lạc từ lâu của họ.

Túy yêu thương đại gia đình mình tại Việt Nam, tại Mỹ và tại Philippines. Năm 2016, trong đám cưới của mình, anh đã hoàn thành được một trong những mục tiêu cuộc đời là đưa tất cả các thành viên gia đình từ ba nhánh đó lại bên nhau. Sau khi ăn uống, đại gia đình ngồi với nhau trong phòng khách.

Túy, các anh chị em, mẹ và các cô của anh đều nói về những thử thách mà họ đã phải cùng nhau đối diện. Người em trai và em gái cùng mẹ khác cha với anh kể về việc họ đã thấy sợ hãi ra sao khi lần đầu thấy Túy, họ đã gặp khó khăn ra sao để hiểu được anh và tính cách của anh. Những giọt lệ lăn dài khi cả gia đình nói về những gì họ đã cùng trải qua.

“Giọt nước mắt vui sướng hay đau buồn?” Tôi hỏi. Không ngần ngại, và gần như cùng lúc, họ nói, “Vui!”.

[*] David Lemke, người kể câu chuyện nầy.

* * *


Sunday, 29 October 2017

Khánh Ly: Cuối cùng, chỉ còn lại tiếng hát

Khánh Ly: Cuối cùng, chỉ còn lại tiếng hát
Đậu Dung phỏng vấn, 21-10-2017

Ngồi nói chuyện cùng danh ca Khánh Ly sau chuỗi đêm nhạc “Khánh Ly–55 năm hát tình ca” diễn ra ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Lạt, Huế… vừa qua, bà nói, nghĩ về con số 55 năm thấy giật mình lắm. 55 năm, đủ chôn vùi tất cả. Cuối cùng, chỉ còn lại tiếng hát. Thôi, cũng đủ, cho một đời.

*

- Có thể thấy, mấy năm trở lại đây, Khánh Ly về nước hát liên tục. Có một vài người nói rằng, bà đang tận dụng thời gian còn lại của mình để kiếm tiền...

Khánh Ly: Người nào hát thì cũng lấy tiền cả thôi. Hình như chưa có ai hát mà không lấy tiền. Vấn đề là lấy nhiều hay lấy ít. Nhưng tôi nghĩ, cả điều đó cũng không quan trọng bằng việc Khánh Ly từng này tuổi rồi, vẫn còn được hát và hát được cho khán giả của mình nghe. Nếu mà nói mọi người đi hát chỉ để kiếm tiền thì lời nói này, hơi ác. Đừng nghĩ ác về người ta như thế. Không nên. Hãy cố nghĩ tử tế về người khác, không chỉ riêng Khánh Ly mà với bất kỳ ai. Có một câu trong một bộ phim nói rằng, hãy sống tốt khi còn bên nhau. Tôi biết, để được như thế rất khó nhưng mình cứ hy vọng vậy, mong là như thế đi. Đừng nhìn ai ở khía cạnh xấu, sẽ có lúc phải ân hận đó. Tôi không nhắc đến hai chữ “nhân-quả” ở đây vì mình cũng không mong ai gặp những chuyện không hay đó. Nhưng các cụ mình nói rồi, trồng cây nào thì hái quả đó.

- Còn lá rụng về cội thì sao, thưa bà?

Khánh Ly: Không hẳn. Ở đâu cũng là hát thôi. Nhưng khi mình có một chút thời gian, không còn nợ chồng, nợ con thì lúc đó, mình có thể đi hát ở những nơi mà mình muốn. Ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào. Bây giờ, mình chẳng phải trả nợ ai cả. Mình chỉ trả nợ mình thôi. Mà, Khánh Ly có nợ ai đâu nhỉ? À, không nếu nói một cách khác, mình nợ rất nhiều người.

- Ca sỹ Khánh Ly năm nay 73 tuổi rồi. Bà đối diện với hai chữ “sống – chết” ra sao?

Khánh Ly: Nó cũng bình thường thôi. Có sinh thì phải có tử chứ. Ai mà sống mãi được? Sống mãi chật đất à? Mọi người ai cũng phải ra đi cả. Từ từ rồi cũng đi hết. Không một ai sống mãi được đâu. Ông Bành Tổ còn chết, nói gì mình? Cho nên tôi nghĩ, còn sống được ngày nào thì hãy cứ làm điều gì đó có ích, dù chỉ mang lại cho người ta một nụ cười, chỉ để lau giùm đứa nhỏ một giọt nước mắt. Nếu bạn còn đỡ được một người ngã đứng lên, thì mình vẫn còn nên sống, vẫn còn lý do để sống.

- Cách đây một năm, bà có nói với tôi rằng, cuộc đời này đã làm cho Khánh Ly bầm dập nhiều. Vậy mà giờ đây, vẫn phải trả ơn đời ư?

Khánh Ly: Ôi cái chuyện bầm dập ai cũng gặp phải, có phải riêng mình đâu. Không cách này thì cách khác. Chẳng nên trách ai cả. Chỉ có điều, đời mình thì mình sống thôi. Và vẫn phải trả ơn đời, vẫn phải biết ơn đời…

- Và chương trình “Vòng tay nhân ái” mà bà tham gia, cũng là một cách trả ơn đời…?

Khánh Ly: Từ trước đến giờ, Khánh Ly chỉ có tiếng hát thôi. Ai muốn làm gì thì làm. Tiền tôi chẳng biết đến. Từng này tuổi rồi, tôi vẫn chẳng biết gì về tiền. Tôi chỉ biết, ai có tiền muốn đi theo để giúp những người khốn khó thì đi cùng. Tôi nghĩ, mình nên tới những chỗ đó, rồi kêu gọi mọi người tới, còn hơn ngồi ở nhà chẳng làm gì cả rồi tưởng tượng những điều không có thật. Nó không tốt, cũng không ích lợi gì cho ai cả. Phải đến nhìn những cảnh đời đó thì mới thấy rằng, mình là người may mắn. Còn nói được vì không câm. Còn nhìn được vì không khiếm thị. Còn nghe được vì không bị điếc. Còn đi được vì không tàn tật. Còn cầm bát cơm mà ăn, nghĩa là đôi tay còn sử dụng được. Vì vậy, ráng làm điều gì đó cho tốt đẹp đi. Còn hơn ngồi đó rồi nghĩ xấu cho người khác.

- Nếu tôi lấy 100% làm số đo thì Khánh Ly sống được bao nhiêu phần cho mình trong 100% ấy?

Khánh Ly: Đời tôi, tôi chỉ sống cho chồng con và khán giả là nhiều. Còn bản thân mình thì… chưa đâu.

- Bà định bao giờ mới sống cho mình đây?

Khánh Ly: Ngày cuối cùng. Một ngày cuối cùng thôi.

- Nếu có một ngày gọi là ngày cuối cùng như thế, bà sẽ làm gì cho bản thân mình?

Khánh Ly: Ngồi yên và không nghĩ gì cả, đó là sống cho mình.

- Nghe có vẻ bình thản. Nhưng ai mà chẳng sợ cái chết chứ?

Khánh Ly: Bây giờ, tôi có thể ngồi đây và mạnh miệng nói tôi không sợ gì cả. Nhưng ai mà biết được? Tôi mong mình không có thời gian để chờ đợi. Tôi muốn mình đang đi trên đường thì lăn đùng ra chết. Hoặc ngủ không dậy nữa. Đó là một hạnh phúc lớn lắm. Tôi vẫn luôn ráng sống làm người tử tế để tôi được chết như vậy.

Còn hiện tại, tôi chẳng nghĩ gì đâu. Tôi chỉ biết ngày hôm nay tạ ơn Chúa, Mẹ rằng mình còn sống, mình còn làm được một cái gì đó, mình còn hát được một bài nào đó, thế là hạnh phúc. Còn ai muốn nói gì cũng được. Ai muốn “đạp” mình cũng được. Ai muốn chửi mình cũng được. Đó là quyền của người ta. Tôi chưa thấy ai mang tâm hại người này người kia mà bị đóng thuế. Nếu tất cả mọi điều đều bị đóng thuế thì tôi nghĩ, chẳng ai nói xấu ai đâu. Của đau con xót mà.

- Khánh Ly hay nói câu ‘tôi chẳng biết cái gì cả’. Vậy Khánh Ly biết cái gì?

Khánh Ly: Tôi chỉ biết hát thôi.

- Nhưng biết hát liệu đã đủ chưa?

Khánh Ly: Tôi nghĩ là đủ. Vì Chúa, Mẹ chỉ cho tôi thế thôi. Tôi nghĩ, nếu mình còn sống, còn hát được và nếu tiếng hát của mình có thể giúp thêm một hạt cơm, hạt gạo cho nhà chùa, cho các trẻ em mồ côi thì đó cũng là hạnh phúc lớn rồi. Vậy thì, cũng đủ hãnh diện để tôi sống những ngày còn lại của mình.

- Đúng kiểu “Đời cho ta thế với những sớm tối không đổi thay…” thì phải, thưa bà?

Khánh Ly: Đúng rồi. Đời cho ta thế thì ta nhận thế thôi. Không đòi hỏi. Không phàn nàn. Không trách móc. Không hờn giận. Không gì cả.

- Ở tuổi này, ca sỹ Khánh Ly mới có suy nghĩ đó hay trước đó mấy chục năm, bà đã như vậy rồi?

Khánh Ly: Từ cách đây mấy chục năm rồi. Những lời này tiếng nọ ở đâu đổ lên đầu mình. Mình nghe hết chứ. Nhưng có sao đâu? Bởi đó là cuộc đời. Nếu không như thế thì không phải là cuộc đời rồi. Cuộc đời phải thế. Hỉ nộ ái ố, đủ cả. Mọi người có đá thì cứ ném, chẳng may trúng mình thì mình ráng chịu thôi. Biết làm sao giờ?

- Nghe Khánh Ly nói chuyện thì tôi thấy, hình như Khánh Ly đã “già từ ngày còn xanh”?

Khánh Ly: Ở ta, người ta gọi như thế là chín ép đấy. Chưa chín nhưng bắt nó phải chín.

- Nhưng như thế thì có tội nghiệp cho tuổi trẻ của mình không, thưa bà?

Khánh Ly: Rất tội nghiệp. Rất đáng thương. Nhưng tự mình thấy thế thôi chứ mình không có nhu cầu cần ai thương hại. Mình tự thương mình thôi. Mình tự thương mình là thật nhất.

- Tôi tò mò một điều rằng, Khánh Ly ở tuổi này còn tin vào tình yêu không?

Khánh Ly: Tình yêu có nhiều loại tình yêu. Không chỉ có tình yêu đôi lứa đâu. Tôi chỉ có một niềm tin thôi, tin vào tôn giáo, tin vào Chúa, Mẹ, tin vào Thượng Đế. Chúa, Đức Phật đâu có dạy mình giết người, làm điều gì ác; thành ra, tôi tin. Còn lại, tôi không tin vào bất cứ thứ gì cả.

- Kể cả chồng ư?

Khánh Ly: Kể cả chồng. Tôi rất yêu nhưng không tin.

-Nghe hơi cực đoan và tàn nhẫn với tình yêu của mình…

Khánh Ly: Chồng tôi chẳng làm cái gì có lỗi với tôi cả. Nhưng cuộc đời dạy tôi một điều rằng, không nên tin vào bất cứ điều gì, kể cả chồng, kể cả con.

- Khánh Ly hát cho triệu người nghe nhưng đã bao giờ, ngay khi đứng trên sân khấu, bà thấy tiếng hát của mình không diễn tả được tiếng lòng của mình chưa? Đã bao giờ bà bất lực chưa?

Khánh Ly: Khi đứng trên sân khấu hát, nghĩa là tôi đang hát cho nỗi lòng của mình đó. Nhưng mà, không chỉ hát về nỗi lòng của mình; qua tiếng hát, tôi tìm tri âm, tri kỷ. Vì tôi biết, nhiều người cũng ở trong tâm trạng như tôi. Họ không hát được, không nói được, họ cũng không biết chia sẻ với ai và cũng không ai chia sẻ với họ. Người ta chỉ thích chia sẻ những cái vui, những điều hào nhoáng, những thú xôn xao thôi. Ai thích chia sẻ cái buồn?

Còn bạn hỏi tôi đã bao giờ cảm thấy bất lực chưa? Thì tôi trả lời rằng chưa, ít ra là với mình. Nhờ tiếng hát, nhờ âm nhạc, Khánh Ly cởi bỏ được tấm áo nặng nề, cởi bỏ được (một phần) quá khứ, dĩ vãng, cởi bỏ được những ồn ào, xôn xao xung quanh. Đến với tiếng hát, tôi trút được tất cả nỗi muộn phiền của đời sống này.

- Lần đầu tiên tôi nghe bà hát là ca khúc “Một cõi đi về.” Khánh Ly bây giờ 73 tuổi rồi, “Một cõi đi về” của bà bây giờ là gì?

Khánh Ly: Thì cứ nghe lời ông Sơn đi: “Rọi suốt trăm năm một cõi đi về. Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng.Ngọn gió hoang vu thổi buốt xuân thì.”

Tuổi xuân nó ở trong trái tim, không phải ở trên khuôn mặt. Mình phải nghĩ, cuộc đời này màu hồng (dù mình biết nó không phải màu hồng đâu). Trong suy nghĩ của mình, mình phải bắt nó là màu hồng, muốn nó là màu hồng. Đó là một cách sống để mình có thể đi qua những ngày vui ít ỏi và cũng để quên những “ngày tháng tiêu điều” của cuộc đời.

*


Thursday, 9 February 2017

Các vị Tăng Thống của Phật giáo Thái Lan (Supreme Patriarch of Thailand)

Supreme Patriarch (Sangharaja) of Thailand: 

1. Somdet Phra Ariyavongsanana I (Sri), Sri, from 1782/83 (2325 BE) to 1794/75 (2337 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Rakhang Khositaram.

2. Somdet Phra Ariyavongsanana II (Suk), Suk, from 1794/75 (2337 BE) to 1816/87 (2359 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Mahathat Yuwaratrangsarit.

3. Somdet Phra Ariyavongsanana III (Mee), Mee, from 1816/87 (2359 BE) to 1819/20 (2362 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Mahathat Yuwaratrangsarit.

4. Somdet Phra Ariyavongsanana IV (Suk Nyanasamvara), Suk, from 1820/21 (2363 BE) to 1822/23 (2365 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Mahathat Yuwaratrangsarit.

5. Somdet Phra Ariyavongsanana V (Don), Don, from 1822/23 (2365 BE) to 1842/43 (2385 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Mahathat Yuwaratrangsarit.

6. Somdet Phra Ariyavongsanana VI (Nag), Nag, from 1843/44 (2386 BE) to 1849/50 (2392 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Ratchaburana.

7. Somdet Phra Maha Samana Chao Kromma Phra Paramanuchitchinorot (HRH Prince Vasugri Suvaṇṇaraṃsi), HRH Prince Vasugri, from 1851/52 (2394 BE) to 1853/54 (2396 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Phra Chetuphon Vimolmangklararm.

8. Somdet Phra Maha Samana Chao Kromma Phraya Pavares Variyalongkorn (HRH Prince Rurk Paññāaggo), HRH Prince Rurk, from 1853/54 (2396 BE) to 1892/93 (2435 BE), Order: Dhammayuttika Nikaya, Temple: Wat Bowonniwet Vihara.

9. Somdet Phra Ariyavongsagatanana I (Sa Pussadevo), Sa, from 1893/94 (2436 BE) to 1899/1900 (2442 BE), Order: Dhammayuttika Nikaya, Temple: Wat Ratchapradit Sathit Mahasimaram.

10. Somdet Phra Maha Samana Chao Kromma Phraya Vajirananavarorasa (HRH Prince Manusyanagamanob Manussanāgo), HRH Prince Manusyanagamanob, from 1910/11 (2453 BE) to 1921/22 (2464 BE), Order: Dhammayuttika Nikaya, Temple: Wat Bowonniwet Vihara.

11. Somdet Phra Sangharaja Chao Kromma Luang Jinavorn Sirivaddhana (HRH Prince Bhujong Jombunud Sirivaḍḍhano), HSH Prince Bhujong Jombunud, from 1921/22 (2464 BE) to 1937/38 (2480 BE), Order: Dhammayuttika Nikaya, Temple: Wat Ratchabophit Sathit Maha Simaram.

12. Somdet Phra Ariyavongsagatanana II (Phae Tissadevo), Phae Phongpala, from 1938/39 (2481 BE) to 1944 (2487 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Suthat Thepphaararam.

13. Somdet Phra Sangharaja Chao Kromma Luang Vajirananavongs (HH Prince Chuen Navavongs Sucitto), Mom Rajavongse Chuen Navavongs, from 1945 (2488 BE) to 1958 (2501 BE), Order: Dhammayuttika Nikaya, Temple: Wat Bowonniwet Vihara.

14. Somdet Phra Ariyavongsagatanana III (Plod Kittisobhaṇo), Plod Ketuthat, from 1960 (2503 BE) to 1962 (2505 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Benchamabophit Dusitvanaram.

15. Somdet Phra Ariyavongsagatanana IV (Yoo Ñāṇodayo), Yoo Changsopha (Sae-Chua), from 1963 (2506 BE) to 1965 (2508 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Saket.

16. Somdet Phra Ariyavongsagatanana V (Chuan Uṭṭhāyī), Chuan Sirisom, from 1965 (2508 BE) to 1971 (2514 BE), Order: Dhammayuttika Nikaya, Temple: Wat Makut Kasattriyaram.

17. Somdet Phra Ariyavongsagatanana VI (Pun Puṇṇasiri), Pun Sukcharoen, from 1972 (2515 BE) to 1973 (2516 BE), Order: Maha Nikaya, Temple: Wat Phra Chetuphon Vimolmangklararm.

18. Somdet Phra Ariyavongsagatanana VII (Vasana Vāsano), Vasana Nilprapha, from 1973 (2516 BE) to 1988 (2531 BE), Order: Dhammayuttika Nikaya, Temple: Wat Ratchabophit Sathit Maha Simaram.

19. Somdet Phra Nyanasamvara (Charoen Suvaḍḍhano), Charoen Khachawat, from 1989 (2532 BE) to 2013 (2556 BE), Order: Dhammayuttika Nikaya, Temple: Wat Bowonniwet Vihara.

20. Somdet Phra Ariyavongsagatanana VIII (Amborn Ambaro), Amborn Prasatthaphong, from 2017 (2560 BE) to Present, Order: Dhammayuttika Nikaya, Temple: Wat Ratchabophit Sathit Maha Simaram.
*

20 vị Tăng Thống của Phật giáo Thái Lan (hình mới sưu tập, sẽ chỉnh sửa sau):


Wednesday, 14 September 2016

Chính trị làm con người 'sợ sự thật'

Tôi không quan tâm nhiều đến các vấn đề chính trị, nhưng đọc bài viết dưới đây, trích từ trang web BBC ngày 13 tháng 9-2016, tôi giật mình vì liên tưởng đến thái độ tâm lý của nhiều người trong lĩnh vực tôn giáo – ngay cả chính tôi – cũng có nhiều điểm tương tự. 

Chúng ta thử đọc bài viết nầy, rồi bình tâm quan sát phản ứng của những khuynh hướng đối nghịch thường thấy tranh cãi trong tôn giáo – tương tự như phe tả và phe hữu trong lĩnh vực chính trị mà bài viết nhắm đến – và từ đó, có lẽ sẽ rút tỉa được nhiều điều thú vị để suy ngẫm và nhìn lại chính mình. 

Thí dụ: 
1) tín hữu Phật giáo và tín hữu Ki-tô giáo; 
2) trong Phật giáo: người theo Theravada và người theo Mahayana; 
3) trong truyền thống Theravada: người tu thiền chỉ (samatha) và người tu thiền quán (vipassana); 
4) trong truyền thống Theravada: người thích học tạng Kinh và người thích học tạng A-tỳ-đàm (Vi diệu pháp); 
5) v.v.

Và từ đó, tôi ngẫm nghĩ tựa đề bài viết, nếu sửa lại trong phạm vi tôn giáo, cũng có thể là: “Tôn giáo làm con người sợ sự thật”.

* * *

Chính trị làm con người 'sợ sự thật'
Tom Stafford, BBC 13-09-2016


Sự thông minh hay có học thức cũng đều không thể ngăn cản bạn tạo ra những thành kiến thiên vị - nhưng một thái độ tò mò trạch vấn có thể giúp bạn có được các phán đoán khôn ngoan hơn.

Khi hỏi một người Anh thuộc phe cánh tả về sự an toàn của vũ khí hạt nhân, bạn gần như có thể đoán được câu trả lời của họ. Khi hỏi một người Mỹ thuộc phe cánh hữu về những rủi ro mà tình trạng thay đổi khí hậu đem lại, bạn cũng có thể đoán được câu trả lời. Trong cả hai trường hợp, bạn dường như có thể dễ đoán đúng được câu trả lời hơn so với khi hỏi một người mà bạn không rõ có quan điểm chính trị như thế nào.

Những vấn đề như thế này nên là chủ đề nghiên cứu khoa học thay vì chính trị, nhưng đáng tiếc rằng thực tế không phải vậy.

Ngành tâm lý học từ lâu đã cho thấy giáo dục và kiến thức không đủ để ngăn quan điểm chính trị tác động đến cái nhìn sâu rộng hơn của mỗi người, ngay cả khi cái nhìn này không đúng với thực tế. Thay vào đó, khả năng nhìn nhận thực tế của bạn dựa vào một đặc điểm ít phổ biến hơn - sự tò mò.

Ống kính chính trị

Ngày càng nhiều bằng chứng chỉ ra rằng chính trị không chỉ giúp phán đoán cái nhìn của mỗi người về các vấn đề khoa học mà nó còn tác động đến cách họ diễn giải những thông tin mới. Đây là lý do vì sao bạn khó có thể 'chỉnh sửa' cái nhìn của ai đó bằng cách cung cấp cho họ thêm thông tin. Các nghiên cứu chỉ ra rằng con người thường có thói quen gạt bỏ những sự thật không phù hợp với quan điểm của họ.

Điều này dẫn tới những tình huống kỳ lạ, khi mà con người trở nên cực đoan trong cái nhìn phản khoa học - ví dụ như những người không tin vào các nguy cơ do tình trạng thay đổi khí hậu gây ra lại là những người hiểu biết hơn về khoa học so với những người có mức độ hoài nghi thấp hơn.

Thế nhưng liệu những người thông minh hơn có dễ thuyết phục hơn? Không hề. Các nghiên cứu khác chỉ ra rằng những người có trình độ giáo dục cao hay những người giỏi toán thường dễ có khả năng bác bỏ những thông tin đi ngược lại niềm tin của mình nhất.

Điều này cho thấy định kiến không phải chỉ là vấn đề về cảm tính. Thay vào đó, những người hiểu biết thường sử dụng sức mạnh tư duy nhằm củng cố cho niềm tin của mình và bác bỏ những bằng chứng đối nghịch với niềm tin đó.

Nghe có vẻ như là một bức tranh ảm đạm cho những ai quan tâm tới khoa học và lý lẽ. Thế nhưng một nghiên cứu từ một nhóm các triết gia, nhà làm phim và tâm lý học do Dan Kahan, từ Đại học Yale, dẫn đầu, đang làm loé lên những tia hy vọng mới.

Nhóm của Kahan quan tâm đặc biệt đến định kiến chính trị trong việc xử lý thông tin cũng như việc nghiên cứu đối tượng cho các phim tài liệu khoa học và muốn sử dụng nghiên cứu này để giúp các nhà làm phim.

Họ đã phát minh ra hai thước đo. Một dùng để đo hiểu biết khoa học của một người - bao gồm các câu hỏi về kiến thức và phương pháp khoa học cũng như những lý luận về định lượng. 

Thước đo thứ hai có phần sáng tạo hơn - dùng để đo sự tò mò của một người về các vấn đề khoa học - thay vì độ hiểu biết của họ về các chủ đề khoa học. Sự sáng tạo của thước đo này nằm ở chỗ cách thức đo độ tò mò về khoa học.

Bên cạnh các câu hỏi, những người tình nguyện được yêu cầu lựa chọn tài liệu họ muốn đọc. Nếu họ chọn đọc về khoa học thay vì thể thao hay chính trị, họ sẽ được xem là có độ tò mò về khoa học cao hơn.

Với hai thước đó này, nhóm nghiên cứu đã xem liệu họ có thể phán đoán được quan điểm của mỗi người về các vấn đề hiện nay hay không. Những người đạt điểm cao về mặt kiến thức khoa học lại là những người vô cùng dễ đoán. Những người theo phái cánh tả - ủng hộ tự do dân chủ - thường xem các sự kiện như Trái Đất ấm dần - là những mối đe doạ nghiêm trọng cho sức khoẻ và sự an toàn của nhân loại. Những người theo phái cánh hữu - phe Cộng hoà bảo thủ - lại xem nhẹ những vấn đề này.

Chưa hết, những người theo phe cánh tả được trang bị nhiều kiến thức khoa học hơn thường quan ngại hơn về các mối rủi ro, trong khi những người theo phe cánh hữu cũng với nhiều kiến thức khoa học, lại tỏ ra không lo lắng nhiều.

Điều này cho thấy kiến thức chỉ làm cho quan điểm hai bên càng đối nghịch nhau hơn.

Tuy nhiên thước đo sự tò mò về khoa học lại cho thấy một kết quả khác. Sự khác biệt giữa phe cánh tả và hữu vẫn tồn động và vẫn có sự khác biệt trong ước tính của mỗi bên về các mối rủi ro. Thế nhưng ý kiến của họ ít ra còn đi cùng một hướng. Ví dụ như những người tò mò về khoa học từ cả hai phe đều tỏ ra lo ngại trước việc khai thác dầu mỏ bằng công nghệ fracking.

Nhóm nghiên cứu đã xác nhận rằng những người tham gia được lựa chọn các câu chuyện về khoa học có nội dung ủng hộ hoặc đi ngược lại quan điểm của họ. Những người được đánh giá là có độ tò mò cao về khoa học đã bất chấp quan điểm của bản thân và lựa chọn những câu chuyện đi ngược lại với niềm tin của họ - dù họ theo phái tự do hay bảo thủ.

Và, nếu bạn vẫn còn nghi ngờ, các kết quả tương tự cũng được ghi nhận trong những vấn đề mà phe cánh tả gắn bó bới các niềm tin phản khoa học, thí dụ như GMO (“genetically modified organism” - “sinh vật biến đổi gen”) hay chủng ngừa.

Như vậy, sự tò mò có thể giúp chúng ta ngưng sử dụng khoa học để xác định mình thuộc phe phái chính trị nào. Nó cũng cho thấy rằng để mang lại sự hiểu biết sâu rộng hơn về các vấn đề ngày nay, các nhà giáo dục cần truyền đạt sự tò mò và thích thú trong khoa học và trong nghiên cứu bên cạnh các kiến thức căn bản.

*


How curiosity can protect the mind from bias
By Tom Stafford 
8 September 2016

Neither intelligence nor education can stop you from forming prejudiced opinions – but an inquisitive attitude may help you make wiser judgements.

Ask a left-wing Brit what they believe about the safety of nuclear power, and you can guess their answer. Ask a right-wing American about the risks posed by climate change, and you can also make a better guess than if you didn’t know their political affiliation. Issues like these feel like they should be informed by science, not our political tribes, but sadly, that’s not what happens.

Psychology has long shown that education and intelligence won’t stop your politics from shaping your broader worldview, even if those beliefs do not match the hard evidence. Instead, your ability to weigh up the facts may depend on a less well-recognised trait – curiosity.

The political lens

There is now a mountain of evidence to show that politics doesn’t just help predict people’s views on some scientific issues; it also affects how they interpret new information. This is why it is a mistake to think that you can somehow ‘correct’ people’s views on an issue by giving them more facts, since study after study has shown that people have a tendency to selectively reject facts that don’t fit with their existing views.

This leads to the odd situation that people who are most extreme in their anti-science views – for example skeptics of the risks of climate change – are more scientifically informed than those who hold anti-science views but less strongly.

But smarter people shouldn’t be susceptible to prejudice swaying their opinions, right? Wrong. Other research shows that people with the most education, highest mathematical abilities, and the strongest tendencies to be reflective about their beliefs are the most likely to resist information which should contradict their prejudices. This undermines the simplistic assumption that prejudices are the result of too much gut instinct and not enough deep thought. Rather, people who have the facility for deeper thought about an issue can use those cognitive powers to justify what they already believe and find reasons to dismiss apparently contrary evidence.

It’s a messy picture, and at first looks like a depressing one for those who care about science and reason. A glimmer of hope can be found in new research from a collaborative team of philosophers, film-makers and psychologists led by Dan Kahan of Yale University.

Kahan and his team were interested in politically biased information processing, but also in studying the audience for scientific documentaries and using this research to help film-makers. They developed two scales. The first measured a person’s scientific background, a fairly standard set of questions asking about knowledge of basic scientific facts and methods, as well as quantitative judgement and reasoning. The second scale was more innovative. The idea of this scale was to measure something related but independent – a person’s curiosity about scientific issues, not how much they already knew. This second scale was also innovative in how they measured scientific curiosity. As well as asking some questions, they also gave people choices about what material to read as part of a survey about reactions to news. If an individual chooses to read about science stories rather than sports or politics, their corresponding science curiosity score was marked up.

Armed with their scales, the team then set out to see how they predicted people’s opinions on public issues which should be informed by science. With the scientific knowledge scale the results were depressingly predictable. The left-wing participants – liberal Democrats – tended to judge issues such as global warming or fracking as significant risks to human health, safety or prosperity. The right-wing participants – conservative Republicans – were less likely to judge the issues as significant risks. What’s more, the liberals with more scientific background were most concerned about the risks, while the conservatives with more scientific background were least concerned. That’s right – higher levels of scientific education results in a greater polarisation between the groups, not less.

So much for scientific background, but scientific curiosity showed a different pattern. Differences between liberals and conservatives still remained – on average there was still a noticeable gap in their estimates of the risks – but their opinions were at least heading in the same direction. For fracking for example, more scientific curiosity was associated with more concern, for both liberals and conservatives.

The team confirmed this using an experiment which gave participants a choice of science stories, either in line with their existing beliefs, or surprising to them. Those participants who were high in scientific curiosity defied the predictions and selected stories which contradicted their existing beliefs – this held true whether they were liberal or conservative.

And, in case you are wondering, the results hold for issues in which political liberalism is associated with the anti-science beliefs, such as attitudes to GMO or vaccinations.

So, curiosity might just save us from using science to confirm our identity as members of a political tribe. It also shows that to promote a greater understanding of public issues, it is as important for educators to try and convey their excitement about science and the pleasures of finding out stuff, as it is to teach people some basic curriculum of facts.

* * *