Wednesday 21 October 2020

Các vị nữ cư sĩ thời Đức Phật

NỮ CƯ SĨ (AN 1:258-267)

1. Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, này các tỳ-khưu, người đi đến quy y đầu tiên là Sujātā, con gái của Senānī.

2. Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ ... bố thí, tối thắng là Visākhā Migāramātā.

3. Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ ... nghe nhiều, tối thắng là Khujjuttarā.

4. Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ ... an trú từ tâm, tối thắng là Sāmāvatī.

5. Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ ... tu thiền, tối thắng là Uttarā Nandamātā.

6. Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ ... bố thí các món ăn thượng vị, tối thắng là Suppavāsā, con gái bộ tộc Koliya.

7. Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ ... săn sóc người bệnh, tối thắng là nữ cư sĩ Suppiyā.

8. Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ ... có lòng tịnh tín bất động, tối thắng là Kātiyānī.

9. Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ ... nói chuyện một cách thân mật, tối thắng là nữ gia chủ Nakulamātā.

10. Trong các vị nữ cư sĩ đệ tử … có lòng tịnh tín đối với lời nghe đồn (nghe lóm), tối thắng là Kāḷī, nữ cư sĩ ở Kuraraghara.

*-----*

(1) Sujātā – Nữ cư sĩ quy y đầu tiên

Ái nữ của điền chủ Senānī trong làng Senānī gần Uruvelā. Lúc mang thai, nàng nguyện cúng dường cháo sữa đến thần cây cổ thụ trong làng nếu sinh được con trai. Ước nguyện được thành tựu, nàng bảo tỳ nữ Punnā ra gốc cổ thụ dọn dẹp để chuẩn bị lễ tạ ơn. Đến nơi, tỳ nữ thấy ngài Bồ-tát Cồ-đàm (Gotama) đang tham thiền, tưởng là thần linh xuất hiện, nên về báo cho chủ biết. Sujātā hoan hỷ đem chén vàng đựng cháo sữa đến cúng.

Ngài Bồ-tát đem bát cháo sữa đi bãi cạn Suppatitthita bờ sông Ni-liên-thuyền (Nerañjarā). Ngài ăn bát cháo sau khi tắm xong. Đây là bữa ăn duy nhất Ngài sau 49 ngày không ăn (J.i.68f.; DhA.i.71, vv.). Bát cháo sữa của Sujātā được xem như là một trong những vật thực tối quan trọng cúng dường đến Đức Phật nên được chư thiên thêm vào đó hương vị đặc biệt linh thiêng.

Yasa là con trai của Sujātā. Lúc ông đắc quả A-la-hán, cha của ông đi tìm, gặp Đức Phật, xin làm cư sĩ, và thỉnh Đức Phật về nhà thọ trai. Đức Phật đi cùng Yasa đến. Sau bữa ăn, Ngài thuyết giảng cho Sujātā cùng con dâu (vợ của Yasa), cả hai đều đắc quả Dự lưu. Hôm ấy, Sujātā xin thọ Tam quy. Bà là vị nữ cư sĩ đầu tiên xin quy y Tam Bảo (aggaṃ upāsikānaṃ paṭhamaṃ saraṇaṃ gacchantīnaṃ)( SNA.i.154; D.ii.135). Bà đã phát nguyện để được như thế vào thời Đức Phật Padumuttara (A.i.26; AA.i.217f).

*-----*

(2) Visākhā (Tỳ-xá-khư) – Nữ cư sĩ bố thí tối thắng

Nữ đại cư sĩ của Đức Phật, được Ngài khen là tối thắng về bố thí (A.i.26) và một trong những nữ cư sĩ lý tưởng (A.iv.348). Cha bà là đại gia Dhanañjaya, con của gia chủ Meṇḍaka, và mẹ bà là Sumanā. Bà sinh ra tại Bhaddiya trong xứ Aṅga.

Lúc Đức Phật cùng chư Tăng đến viếng Bhaddhiya, vì lòng bi mẫn đối với bà-la-môn Sela và nhiều bà-la-môn khác, Visākhā chỉ mới lên 7, nhưng được cha cho 500 người tuỳ tùng, 500 nô tỳ và 500 xe đưa bà đến đảnh lễ Ngài. Đến nơi, Visākhā cẩn thận dừng xe ngoài xa và đi bộ vào. Phật thuyết pháp cho bà nghe và bà đắc quả Dự lưu. Tiếp theo, trong suốt mười bốn hôm liền, cha của bà thỉnh Phật về nhà thọ trai và cúng dường.

Lúc đại gia Dhanañjaya được Vua Bimbisra cử sang xứ Kosala theo lời yêu cầu của Vua Pasenadi, Visākhā theo cha đến sống tại Sāketa. Một hôm, trên đường đi tắm về gặp trời đổ mưa, Visākhā không vội chạy núp mưa như các tuỳ tùng mà khoan thai đi vào chỗ trú. Tại chỗ trú mưa này có sứ giả của đại gia Migāra ở Sāvatthi phái đi khắp xứ tìm hôn thê cho nam tử Puṇṇavaddhana. Được các sứ giả hỏi tại sao nàng không gấp chạy vào để giữ gìn y phục, Visākhā đáp rằng nàng có nhiều y mà chỉ có một tấm thân nên thương tích gây ra cho thân là một thua thiệt lớn. Hơn nữa, nàng nói: “Gái chưa chồng như hàng đang chờ bán, không được làm hư hỏng.” Sứ giả tặng nàng bó bông, nàng nhận như quà cầu hôn rồi đi về nhà cha của bà. Các sứ giả đi theo và đặt bộ áo của Puṇṇavaddhana trước mặt ông . Ông chấp nhận lời cầu hôn và hai họ trao đổi thư từ.

Lúc nghe tin vui, Vua Pasenadi đề nghị đi cùng với Puṇṇavaddhana đến Sāketa cho thêm phần long trọng. Bá hộ Dhanañjaya tiếp đón nhà vua, Migāra, Puṇṇavaddhana, và đoàn tuỳ tùng rất trọng thể. Tất cả được mời lưu lại nhà ông trong mùa mưa và được phục vụ rất chu đáo (DhA.).

Năm trăm thợ bạc được thuê để làm trang sức bằng vàng nấu chảy cho cô dâu tương lai. Sau ba tháng gia công, trang sức chưa hoàn tất, mà củi đốt đã cạn; gia nhâ được lệnh dỡ nhà cũ lấy cây ván chụm, nhưng chỉ được nửa tháng, nên phải mở kho lấy y phục nhúng dầu để làm củi nấu ăn. Hết tháng thứ tư các thợ bạc mới làm xong trang sức. Vào thời Phật Kassapa, bà cúng dường bát, y, kim, chỉ và vải lên 20 ngàn tỳ-khưu; do đó Visākhā được hưởng trang phục như thế trong hiện kiếp (DhA. i. 395).

Bá hộ Dhanañjaya cho con của hồi môn gồm 500 xe tiền, 500 xe chén dĩa bằng vàng, 500 xe chén dĩa bằng bạc và 500 xe chén dĩa bằng đồng, gấm vóc, bơ lỏng, la, gạo, vv. Ông cho cả cày, bừa, và 500 xe mỗi xe chở 300 nô tỳ. Còn gia súc, ông cho đứng chật trong một khuôn viên dài ba phần tư lý, ngang tám sào (=40 m). Ngòai ra, ông còn cho luôn 60 ngàn bò mộng và 60 ngàn bò cái sút chuồng tới nhập đoàn. Trong kiếp là Saṅghadāsī, bà cúng dường năm thứ sản phẩm của bò cái đến 20 ngàn tỳ-khưu và yêu cầu chư vị sử dụng, nên trong hiện kiếp Visākhā được thêm bò sút chuồng (DhA. i. 397).

Lúc Visākhā sắp rời nhà, Bá hộ Dhanañjaya dạy nàng 10 điều (mà Migāra nghe được từ phòng bên cạnh):

1. Không đem lửa trong nhà ra ngoài ngõ.

2. Không đem lửa bên ngoài vào nhà.

3. Chỉ cho đến những người biết cho.

4. Không cho đến những người không biết cho.

5. Cho đến cả hai, những người biết cho và những người không biết cho.

6. Ngồi một cách an vui.

7. Ăn một cách an vui.

8. Ngủ một cách an vui.

9. Coi chừng lửa.

10. Tôn trọng các vị Trời trong nhà.

Các điều ấy có nghĩa là:

1. Không nên nói xấu chồng và cha mẹ chồng với người ngoài. Cũng không nên đem chuyện xấu bên nhà chồng thuật lại cho người ngoài.

2. Không nên ngồi lê đôi mách, nghe ngóng những chuyện xấu của người ngoài rồi đem về nhà bàn tán.

3. Đồ trong nhà chỉ nên đưa cho những người nào mượn rồi trả lại.

4. Không nên đưa cho những người mượn đồ mà không trả lại.

5. Phải giúp đỡ thân bằng quyến thuộc nghèo khó, dầu họ trả lại được hay không.

6. Phải ngồi đúng chỗ thích nghi. Khi thấy cha mẹ chồng đến phải đứng dậy.

7. Trước khi ăn cơm phải coi có dọn đầy đủ cho cha mẹ chồng và chồng chưa. Cũng phải coi chừng xem người làm trong nhà có được chăm sóc đầy đủ không.

8. Trước khi đi ngủ phải quan sát nhà cửa, ghế bàn. Cửa đóng then gài cẩn thận. Xem coi những người giúp việc trong nhà có làm đủ bổn phận của họ chưa và cha mẹ chồng đã đi ngủ chưa. Thế thường người nội trợ phải thức khuya dậy sớm, và trừ khi đau ốm, không nên ngủ ngày.

9. Phải xem chồng và cha mẹ chồng như lửa. Mỗi khi có việc với cha mẹ chồng và chồng phải hết sức thận trọng cũng như phải thận trọng khi làm việc với lửa.

10. Cha mẹ chồng và chồng phải được tôn kính như những vị Trời trong nhà. Nên ghi nhận rằng Đức Phật thường nhắc đến cha mẹ chồng như những vị Trời trong nhà.

Về sau, các câu đố trong bài giáo huấn này được Visākhā giải cho Migāra nghe (DhA. i. 403 f.).

Hôm sau, Bá hộ Dhanañjaya cử tám gia chủ để bảo trợ và xem xét mọi khiếu nại liên quan đến Visākhā. Lúc Visākhā về nhà chồng, Bá hộ Dhanañjaya cho phép tá điền trong 14 làng của ông được tự do theo nàng nếu muốn. Do đó, dân chúng các làng đều tình nguyện đi hết; nhưng Migāra sợ phải nuôi ăn nên đuổi họ trở về. Visākhā vào thành Sāvatthi đứng trên xe để mọi người chiêm ngưỡng. Nàng được rất nhiều quà cưới nhưng không giữ lại mà đem phân phát hết cho mọi người.

Đại gia Migāra theo phái Ni-kiền-tử nên bắt Visākhā phải phục dịch họ. Phản đối lối sống lõa thể của họ, nàng từ chối đảnh lễ họ, và bị họ ép phải đuổi nàng đi, nhưng Migāra không dám đuổi nên kéo dài thời gian. Một hôm, có một tỳ-khưu đến nhà khất thực lúc Visākhā hầu quạt cho Migāra dùng cơm. Nàng đứng sang một bên để cho cha mình thấy tỳ-khưu, nhưng ông tiếp tục ăn không để ý. Nàng với tỳ-khưu rằng: "Bạch sư, xin thỉnh sư hoan hỷ bước sang nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng những món ăn đã hư cũ”. Migāra nghe được nên nổi sân đuổi nàng đi. Nàng yêu cầu được đưa vấn đề ra cho tám vị bảo trợ minh xét. Nàng trình bày: " Lúc cha chồng tôi đang dùng cháo thì có một vị tỳ khưu vào nhà khất thực. Cha chồng tôi thấy mà làm ngơ. Nghĩ bụng rằng cha chồng tôi không làm được điều thiện nào trong hiện tại mà chỉ thọ hưởng phước báu đã tạo trong quá khứ, nên tôi bạch với vị tỳ khưu: "Bạch sư, xin thỉnh sư hoan hỷ bước sang nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng những thức ăn đã hư cũ". Họ tuyên bố nàng vô tội. Tuy nhiên, nàng vẫn chuẩn bị ra đi trở về nhà cha mẹ ruột. Migāra yêu cầu nàng ở lại; nàng đồng ý với điều kiện ông phải thỉnh Phật và tỳ-khưu về nhà cúng dường. Ông đồng ý nhưng để không phật lòng các Ni-kiền-tử, ông không tiếp Phật và tỳ-khưu mà chỉ đứng sau rèm nghe Phật thuyết giảng. Sau bài pháp thoại, ông đắc quả Dự lưu. Ông vô cùng biết ơn Visākhā và từ đó ông dành cho Visākhā danh dự của người làm mẹ và Visākhā được gọi là Migāramātā. Chú giải (DhA.i.406 và AA.i.313) nói trong tiền kiếp, Migāra từng là trưởng nam của nàng.

Migāra quyết định biếu cho nàng một trang sức gọi là Dhanamaṭṭhaka đáng giá trăm ngàn đồng. Visākhā bán tư trang này lấy tiền xây Migāramātupāsāda (giảng đường Lộc mẫu hay Đông các giảng đường) dâng đến Đức Phật và chư Tăng.

Visākhā hạ sinh 10 nam tử và 10 nữ nhi. Mỗi con cháu bà đến đời thứ tư đều sinh con đẻ cái như vậy (tức 10 nam, 10 nữ mỗi người). Cho đến lúc bà mãn phần vào tuổi 120, bà có 84 ngàn con cháu, tất cả đều còn sống. Nhưng trong kinh Phật tự thuyết (Ud.viii.8) nói đến cái chết của một cháu nội (Dattā) khiến bà sầu muộn nhiều. Trong suốt đời bà, bà luôn luôn có vóc dáng của một thiếu nữ 16 xuân xanh. Bà có sức tương đương với năm thớt voi; truyền thuyết nói rằng có lần bà dùng hai ngón tay nắm vòi con voi (được đưa đến để đọ sức với bà) đẩy voi lùi ra (DhA. i. 409). Visākhā còn nổi tiếng là đem may mắn đến, nên được dân chúng Sāvatthi đua nhau mời mọc đến nhà trong các ngày lễ hội (DhA. i. 409).

Visākhā cúng dường thực phẩm lên 500 tỳ-khưu tại nhà mỗi ngày (J. iv. 144; DhA. i. 128). Mỗi buổi trưa bà đến nghe Phật thuyết pháp, sau đó đi quanh trong tịnh xá tìm hiểu nhu cầu của chư tỳ-khưu và tỳ-khưu ni. Nhiều lúc bà cùng đi với cư sĩ hộ trì Suppiyā. Visākhā xin và được Phật cho tám điều ước:

1. Dâng y đến chư Tăng trong mùa nhập Hạ cho đến khi bà chết.

2. Để bát những vị sư đến thành Savatthi (Xá Vệ).

3. Để bát những vị sư ra đi, rời thành Savatthi.

4. Dâng thực phẩm đến những vị sư đau ốm.

5. Dâng thực phẩm đến những vị ra công chăm sóc các sư đau ốm.

6. Dâng thuốc men đến những vị sư đau ốm.

7. Dâng lúa mạch đến chư sư.

8. Dâng y tắm đến chư tỳ-khưu-ni.

Sau khi Lộc Mẫu giảng đường được hoàn tất, bà Visākhā rất mãn nguyện. Truyền thuyết nói rằng (DhA. i. 416 f.) trong lễ lạc thành, bà cùng con cháu chắt chít đi nhiễu và nói kệ mô tả niềm phỉ lạc được thấy nguyện ước của bà bấy lâu nay đã thành sự thật.

Chuyện tới tai Phật, Ngài dạy rằng vào thời Phật Padumuttara, Visākhā là bạn của nữ đại cư sĩ hộ trì của Phật; và vào thời Phật Kassapa bà là Saṅghadsī (công chúa út của vua Kiki) từng cúng dường và lập nhiều công quả cùng với sáu chị của bà (AA. i. 219).

Theo Chuyện Thiên cung (Vv. iv. 6; VvA. 189, 191), sau khi thân hoại mạng chung, bà Visākhā sinh làm chánh hậu của Thiên vương Sunimmitta trị vì chư Thiên Nimmānarati. Luận sư Buddhaghosa (DA. iii. 740) luận rằng Visākhā, cũng như Sakka (Đế-thích) và Anāthapiṇḍika, sẽ hưởng hạnh phúc trên cõi Phạm thiên trong một thời gian lâu dài bằng 131 kiếp-ba (kappa) trước khi nhập Niết-bàn.

Thân thích của bà Visākhā được kinh điển đề cập đến nhiều nhất là hai nam tử Migajāla và Migāra; người chị Sujātā (dâu của Trưởng giả Anāthapiṇḍika) (A. iv. 91; AA. ii. 724; J. ii. 347); cháu nội trai Saḷha; cháu nội gái Dattā (DhA. iii. 278); và Uggaha Meṇḍakanattā. Một cháu khác cũng được nhắc tới vì bà từng bạch xin Phật cho phép người cháu này được thọ giới trong mùa an cư – lúc mà chư tỳ-khưu từ chối không truyền giới (Vin. i. 153).

Phật thuyết nhiều kinh cho bà Visākhā; đặc biệt quan trọng là kinh về các ngày trai giới - ngày bát quan trai giới, uposatha, bố-tát (A.i.205 ff.; cf. iv. 255; DhA. iii. 58 f.). Ngài cũng dạy cho bà về việc thành tựu tám đức tính để tạo hạnh phúc (A.iv.269) và tám đức tính để được tái sinh cộng trú với chư Thiên cõi Trời Tha hóa Tự tại (A.iv.267); tóm tắt: làm tròn bổn phận của người vợ, người dâu trong gia đình, có đức tin nơi Tam Bảo, giữ ngũ giới, bố thí rộng rãi, và phát triển trí tuệ thẩm thấu tính sinh diệt đưa đến diệt trừ hoạn khổ.

*-----*

(3) Khujjuttarā — Nữ cư sĩ tối thắng về đa văn (nghe nhiều)

Nàng sinh ra trong nhà của chủ khố Ghosita (AA. i. 232) ; mẹ nàng lúc bấy giờ là vú nuôi của gia đình này. Lớn lên, nàng làm nữ tì của Hoàng hậu Sāmāvatī. Mỗi ngày nàng được Hoàng hậu cho tám đồng do vua cấp để mua bông. Nàng mua bốn đồng bông của người làm vườn Sumana, còn cất lại bốn đồng.

Một hôm, Phật viếng Sumana và thuyết kinh. Khujjuttarā được nghe kinh Phật thuyết và đắc quả Dự lưu. Hôm ấy nàng đem hết tiền ra mua bông. Hoàng hậu hỏi về số tiền lớn này, nàng trình hết tự sự. Từ hôm đó, Hoàng hậu Sāmāvatī dành cho Khujjuttarā mọi vinh dự, cho nàng hương liệu tắm, và nghe nàng nói pháp. Khujjuttarā làm như mẹ của Hoàng hậu, đi nghe pháp rồi về cung nói lại cho Hoàng hậu và 500 cung nữ nghe. Về sau, tất cả đều đắc quả Dự lưu. Khi Hoàng hậu tỏ ý muốn thấy Đức Phật, Khujjuttarā đề nghị bà cho khoét tường rồi nhìn ra khi Phật đi ngang. Sau khi Hoàng hậu quy tiên, bà dành hết thì giờ mình để nghe và thuyết pháp. Phật tuyên bố bà là vị nữ đệ tử tối thắng về nghe nhiều (bahussutānaṃ) (A. i. 26; DhA. i. 208 ff.; AA. i. 226, 237 f.; ItvA. 23 f.; PsA. 498 f.)

Một thời thuở xưa, Khujjuttarā làm tỳ nữ cho vua trị vì Benares. Một hôm, thấy vị Phật Độc giác lưng gù, nàng giả dạng gù như Phật; do vậy, nàng bị gù lưng trong kiếp này. Một lần khác, thấy tám vị Phật Độc giác đổi tay bưng bát vì vừa nhận cháo nóng trong cung cúng dường, nàng lấy tám vòng tay bằng ngà để chư vị lót bát (được biết tám vòng này hiện đang được tôn trí tại Nandamūla-pabbhāra; do đó nàng đạt được thượng trí và có thể học tinh tấn Tam Tạng Kinh trong kiếp này.

Vào thời Phật Kassapa, Khujjuttarā là con của một chủ ngân khố và có người bạn làm Tỳ-khưu-ni. Một chiều nọ, trong lúc nàng đang trang điểm, Tỳ-khưu-ni đến viếng. Vì không có sẵn nữ tỳ, nàng bảo Tỳ kheo ni làm công việc của nữ tỳ giúp nàng. Do đó, nàng sanh làm nữ tỳ trong kiếp này.

Vào thời Phật Padumuttara, Khujjuttarā thấy có người được tuyên bố là tối thắng về nghe nhiều, nàng muốn được như vậy về sau (DhA. i. 226 f. etc.; Dvy. 339-41.).

Được biết các bài kinh trong Phật Thuyết Như Vậy (Itivuttaka) là những kinh mà Khujjuttarā từng nghe Phật thuyết và được bà thuyết lại cho Hoàng hậu Sāmāvatī với cung nữ nghe. Vì tất cả các kinh này được nghe và thuyết lại tại Kosambī nên không cần nói đến địa điểm thuyết pháp; do đó câu “Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Kosambiyaṃ viharati (Một thời Đức Thế Tôn ở tại Kosambi)” không có ghi trong kinh, trái lại, có câu “vuttaṃ h’etaṃ Bhagavatā arahatā. (Điều nầy đã được Đức Thế Tôn nói đến)” (ItvA. 32.).

Bà Khujjuttarā thường được kể như mẫu mực của các nữ cư sĩ (E. g., A. i. 88; ii. 164; iv. 368; S. ii. 236.), và trong các Chú giải (E. g., DA. iii. 910. ), bà được xem như là một ví dụ về kāmabhoginiyo (người đàn bà an lạc trong cõi dục). Bà đạt được tuệ phân tích (paṭisambhidā) trong khi là gia chủ, nhưng là tuệ phân tích của một bậc hữu học (sekha) Vsm. 442; VibhA. 388.

Bà Khujjuttarā là nữ tỳ trong Tiền thân Uraga Jātaka (J. iii. 168.) và Bhisa (J. iv. 314.), bà vú trong Tiền thân Culla-Sutasoma (J. v. 192.), và người gù lưng trong Tiền thân Kusa (Ibid., 312.). Nhờ được tinh tấn trong pháp hành (abhijānato) bà có thần thông nhớ được các kiếp trước – túc mạng thông (Mil. 78.).

Được biết khi Hoàng hậu Sāmāvatī và bạn bà bị chết cháy (UdA. 384.), Khujjuttarā thoát nạn vì bà không có tham gia vào các ác hành họ làm; lúc lửa cháy, bà không có mặt trong cung, mà ở cách đó mười dặm.

*-----*

(4) Sāmāvatī — Nữ cư sĩ tối thắng về lòng Từ

Một trong ba chánh hậu của Vua Udena. Nàng là ái nữ Sāmā của Bá hộ Bhaddavatiya ở Bhaddavatī; Bá hộ là bạn của Bá hộ Ghosaka ở Kosambī. Lúc dịch khí lan tràn ở Bhaddavatī, nàng cùng cha mẹ chạy qua Kosambī và sống nhờ vào bố thí của Ghosaka. Vào ngày thứ ba khi đến đây, nàng chỉ xin một phần ăn thay vì hai hay ba như hai hôm trước. Mitta, người bố thí thực phẩm, lấy làm lạ, nhưng nàng cho biết cha nàng chết sau bữa ăn đầu tiên, kế đến, mẹ nàng chết sau bữa ăn thứ nhì, nay chỉ còn có một mình nàng. Xót thương, Mitta đem nàng về nuôi.

Một hôm, nàng giúp tổ chức giữ trật tự trong thí đường nên không còn cảnh la lối chen lấn nữa. Cảm khích, Bá hộ Ghosaka nhận nàng làm con nuôi và gọi nàng là Sāmāvatī (Sāmā người biết dùng rào, vì nàng đã biết dùng rào, vati, phân chia lối ra vào nơi phát cơm để giữ trật tự).

Trong ngày lễ hội nọ, Vua Udena thấy nàng trên đường đi tắm, đem lòng say mê và ra lệnh cho nàng tiến cung. Nhưng Ghosaka không thuận nên bị tịch thu gia sản. Để cứu cha, nàng xin được tấn cung và Vua Udena phong nàng làm chánh cung. Một thời gian sau, Udena tấn phong thêm một chánh cung nữa, Māgandiyā (q.v.).

Lúc Phật đến Kosambī thuyết pháp theo lời thỉnh cầu của ba Bá hộ Ghosaka, Kukkuṭa và Pāvāriya, nữ tỳ Khujjutarā của Sāmāvatī nghe pháp và đắc quả Dự lưu. Khujjutarā trình hoàng hậu Sāmāvatī sự việc xảy ra với nàng và nói lại bài pháp cho Sāmāvatī nghe. Được tin Phật sẽ đi ngang qua cung, Sāmāvatī cho khoét tường để có thể nhìn thấy và đảnh lễ Ngài. Biết được việc này và vì không có thiện cảm với Phật, Chánh hậu Māgandiyā tâu vua với mục đích hại Sāmāvatī (xem chi tiết trong s.v. Māgandīyā.). Nhưng nhà vua chẳng những không tin mà còn cho Sāmāvatī một điều ước; bà ước được thỉnh Phật vào cung thọ trai và thuyết pháp hằng ngày. Phật gởi Tôn giả Ānanda đi thế Ngài. Một hôm, Tôn giả được các nữ nhân trong cung cúng dường 500 bộ y. Tin này đến tai vua, ông nổi giận; nhưng sau khi nghe Tôn giả Ānanda thuyết rằng không có gì cúng dường đến các vị tỳ-khưu là của mất, nhà vua cúng dường thêm 500 bộ nữa.

Thất bại lần đầu, Chánh hậu Māgandiyā bày lần hai. Sāmāvatī và nhiều tuỳ tùng bị chết cháy trong cung. Lúc ấy, nhà vua đang dạo chơi trong rừng, khi trở về mới được tin bà và các cung nữ đã bị chết cháy. Được nhà vua hỏi, Phật nói rằng chư vị này có người đã đắc sơ, nhị, hay tam thiền.

Theo Chú giải, bà Sāmāvatī từng được tấn cung Benares trong tiền kiếp. Một hôm, đi tắm với vua, bà cảm thấy lạnh nên đốt mớ cỏ khô để sưởi. Cỏ cháy lan và đốt một vị Phật Độc giác đang nhập định. Để phi tang, bà và các cung nữ tuỳ tùng chất cỏ đổ dầu đốt thêm cho tiêu xác vị Phật. Do đó, trong kiếp này họ phải bị chết cháy [*]. Hai bạn của Sāmāvatī (cùng tên Sāma) đau khổ vì cái chết của bà nên xuất gia.

Sāmāvatī được xem là một nữ đại cư sĩ của Phật, và được Ngài tuyên bố là tối thắng về trú từ tâm (aggaṃ mettāvihārinaṃ) (A. i. 26; cf. iv. 348.). Thần thông của bà để tránh tên do Vua Udena bắn tới bà thường được đề cập đến (E.g., BuA. 24; ItA. 23; PSA. 498; AA. ii. 791).

[*] Chuyện của Sāmāvatī được kể trong chuyện về Udena. Xem DhA. i. 187-91, 205-225; chuyện còn được kể với đôi chút khác biệt trong AA. i. 232-4, 236 ff., được tóm lược trong UdA. 382 f. (không có chuyện Sāmāvatī bị chết cháy) và Ud. vii. 10 (chuyện Sāmāvatī bị chết cháy được mô tả tỉ mỉ ở đây). Cf. Dvy. 575 f. Theo Thanh tịnh đạo, Visuddhimagga (p. 380 f.), Māgandiyā muốn hại Sāmāvatī vì bà muốn làm chánh hậu một mình.

*-----*

(5) Uttarā Nandamātā — Nữ cư sĩ tối thắng về tu thiền

Nữ cư sĩ trưởng của nhóm nữ đệ tử hộ trì Phật (Bu. xxvi. 20.). Trong Tăng Chi Bộ Kinh (i. 26.), bà được mô tả như một nữ đệ tử cư sĩ tu thiền tối thắng, nhưng đó có thể là một bà Uttarā khác. Bà còn được liệt kê trong danh sách các nữ cư sĩ thọ bát quan trai giới (A. iv. 347; AA. ii. 791.).

Theo Chú giải Tăng chi bộ (i. 240 ff.), bà là con gái của Puṇṇasīha (Puṇṇaka) (q.v.), một gia nhân của tài chủ Sumana ở Rājagaha. Về sau, khi Puṇṇasīha trở thành tài chủ đàn na (dhana-seṭṭhi) vì có tài sản kếch xù do kết quả của bữa cơm cúng dường Tôn giả Sāriputta, ông lập lễ trai đàn bảy ngày để cúng dường Phật và Tăng chúng. Vào ngày thứ bảy, sau bài pháp thoại tạ ân của Phật, Puṇṇasīha và tất cả vợ con đều đắc Sơ quả.

Lúc tài chủ Sumana xin cưới Uttarā cho con trai ông, ông bị từ chối vì không thuộc giáo phái của Phật. Puṇṇa nói với Sumana rằng Uttarā là đệ tử của Phật và hằng ngày nàng dâng Phật bông hoa tốn một đồng kahāpaṇa (tiền Ấn Độ). Khi Sumana hứa giúp Uttarā dâng lên Phật mỗi ngày hai kahāpaṇa tiền bông, ông đồng ý gả Uttarā. Sau nhiều lần thuyết phục chồng để mình được chay tịnh như lúc còn bên nhà cha mẹ ruột, Uttarā không thành công. Nàng bèn xin cha 15 ngàn kahāpaṇa để mướn kỹ nữ Sirimā lo cho chồng trong mươi lăm hôm lúc bà thọ bát quan trai. Vào ngày chay cuối cùng, trong lúc Uttarā bận lo vật thực cúng dường Phật, chồng bà đi dạo cùng với Sirimā và thấy bà làm việc cực nhọc, bèn cười bà ngu si không biết hưởng gia tài sẵn có. Uttarā cười lại ông không biết dùng đúng mức gia tài sẵn có. Còn Sirimā nghĩ rằng vợ chồng họ vui cười với nhau trước mặt nàng nên ghen tức và chụp bình dầu sôi quăng tới Uttarā. Uttarā cảm thương Sirimā, và dầu sôi đó không làm phỏng được nàng. Sirimā nhận biết mình điên, bèn xin lỗi Uttarā. Uttarā đưa nàng đến yết kiến Phật, bạch Ngài câu chuyện, và xin Ngài tha tội cho Sirimā. Vì Phật thuyết pháp cho Sirimā nghe và nàng đắc Sơ quả.

Chú giải Chuyện Thiên cung (pp. 631 ff.; Vv. 11 f.) và Chú giải Pháp cú (iii. 302 ff.; xem thêm iii. 104.) có ghi lại chuyện kể trên với nhiều chi tiết khác biệt. Theo hai chú giải này, sau khi Phật kết thúc pháp thoại, Uttarā đắc quả Tư-đà-hàm (Nhất lai), còn chồng nàng và cha chồng đắc quả Dự Lưu.

Sau khi thân hoại mạng chung, Uttarā sanh về Tāvatiṃsa (Đao-lợi thiên) trong một đền đài (vimāna). Tôn giả Moggallāna có gặp nàng trong một lần viếng Tāvatiṃsa và khi nghe kể chuyện nàng, có bạch lại Phật.

Rất lạ là Nanda (Nandamātā: mẹ của Nanda) không được nhắc đến lúc nào cả. Có ý kiến (E.g., Brethren 41, n. 1.) cho rằng Uttarā Nandamātā có thể chính là bà Veḷukaṇṭī Nandamātā, nhưng tác giả Malalasekera không cho sự xác định là đúng. Chuyện của Uttarā được kể trong Visuddhimagga (p. 313.) chứng tỏ lửa không thể làm phỏng người sống trong thương yêu, và một lần nữa cho thấy ví dụ của lực thần thông được tỏa rộng bởi định lực của thiền (p. 380-1; thêm Ps. ii. 212; PsA. 497.).

*-----*

(6) Suppavāsā Koliyadhitā — Nữ cư sĩ tối thắng về bố thí các món ăn thượng vị

Mẫu thân của Trưởng lão Sīvalī. Bà chuyển bụng suốt bảy ngày liền cho đến khi Phật ban hồng ân bà mới sanh được(Xem chi tiết trong s.v. Sīvalī). Tương truyền rằng thai nhi ở trong bụng mẹ những bảy năm (xem Asātarūpa Jātaka, q.v.). Bảy năm có lẽ là vì bà bị hư thai bảy lần.

Suppavāsā là công nương của Vua trị vì xứ Koliya (J. i. 407). Nàng thành hôn với người Licchavi tên Mahāli (Ap. ii. 494 (vs. 28); nhưng xem AA. i. 244 mô tả chồng nàng là một nhà quý phái họ Thích-ca) và sống trong làng Sajjanela, xứ Koliya; tại đây nàng được Phật thuyết pháp về bố thí (A. ii. 62 f.). Nàng được Phật tuyên bố là tối thắng về bố thí các món ăn thượng vị (A. i. 26), hạnh tối thắng mà nàng đã phát nguyện từ thời Phật Padumuttara (AA. i. 244).

Suppasāvā được liệt kê trong danh sách các cận sự nữ (A. iv. 348) và được kể chung với chư vị Anāthapiṇḍika, Culla Anāthapiṇḍika và Visakhā như đại thí chủ được chư tỳ kheo nhận bố thí rất hoan hỷ (DhA. i. 339; nàng được nói sống ở Sāvatthi; đó có thể là sau khi Mahāli, q.v., đến sống ở đây; cf. DhA. iv. 193 f.).

Suppavāsā Sutta.– Phật viếng nữ thí chủ Suppavāsā ở Sajjanela. Sau khi thọ thực xong, Ngài nói pháp về bố thí: các Thánh nữ đệ tử khi bố thí đồ ăn, bố thí bốn sự cho người nhận. Bốn sự đó là: thọ mạng, dung sắc, an lạc, và sức mạnh (A. ii. 62 f.).

*-----*

(7) Suppiyā — Tối thắng về săn sóc người bệnh

Nữ cư sĩ ở Benares. Bà và chồng, ông Suppiya, rất sùng đạo. Một hôm, bà đến tịnh xá thấy một tỳ-khưu bị bệnh đang cần canh thịt. Bà bảo tỳ nữ đi mua nhưng khắp Benares không đâu có thịt. Bà cắt đùi mình đưa cho bếp nấu canh dâng tỳ-khưu. Lúc biết được câu chuyện, ông Suppiya rất hoan hỷ và thỉnh Phật về nhà thọ trai. Đến nhà ông, Phật hỏi về bà. Thấy Ngài, vết thương bà lành ngay. Vì chuyện của Bà Suppiyā, Phật chế giới luật cấm tỳ-khưu ăn thịt người, dầu được hiến dâng (Vin. i. 216 f).

Suppiyā là ví dụ của người mà công đức đem lại quả ngay trong hiện kiếp (Mil. 115; cf. 291). Bà được Phật tuyên thuyết là tối thắng về săn sóc người bệnh (A. i. 26) , hạnh tối thắng mà bà từng phát nguyện từ thời Phật Padumuttara (AA. i. 244 f.; bà được đề cập trong danh sách những cận sự nữ tối thắng (A. iv. 348).

*-----*

(8) Kātiyānī (Kaccānī) — Tối thắng về lòng tịnh tín bất động

Nữ cư sĩ được Phật tuyên bố là tối thắng về lòng tịnh tín bất động (aveccappasāda) (A. i. 26). Bà quyết tâm đạt sự tối thắng này từ thời Phật Padumuttara.

Trong kiếp này, bà sinh trong thành phố Kuraraghara và có một người bạn sùng tín tên Kāḷī. Một hôm bà đi với bạn đến nghe Trưởng lão Soṇa Koṭikaṇṇa thuyết cho mẹ ông nghe. Trong lúc bà đi vắng, trộm viếng nhà bà. Nữ tỳ được sai đi lấy dầu để thắp đèn đến cho bà hay nhà có trộm, nhưng bà không ra về cho đến khi pháp thoại chấm dứt. Tên chúa trộm hoan hỷ với thái độ của bà nên ra lệnh cho thuộc hạ đem trả lại bà tất cả đồ đạc đánh cắp. Sau khi pháp thoại dứt, bà đắc Sơ quả. Hôm sau bọn trộm đến xin lỗi bà. Bà đưa họ tới gặp vị trưởng lão và được vị này truyền giới; về sau tất cả đều đắc quả A la hán (AA. i. 245 f.).

*-----*

(9) Nakulapitā và Nakulamātā — Nam và Nữ cư sĩ nói chuyện thân mật

Hai ông bà gia chủ ở Suṃsumāragiri trong xứ Bhagga. Ông bà đến yết kiến Phật lúc Ngài an trú tại Bhesakaḷāvana. Gặp Phật, ông bà sụp quỳ dưới chân Ngài, gọi Ngài là “con” và hỏi sao Ngài đi xa lâu vậy. Được biết ông bà là từng là cha mẹ của ngài Bồ-tát những 500 kiếp và là họ hàng trong nhiều kiếp hơn nữa. Phật thuyết giảng và ông bà đắc Sơ quả (Dự lưu). Phật đến làng viếng ông bà một lần nữa lúc ông bà về già. Ông bà thỉnh Ngài thọ trai và bạch rằng ông bà luôn hy sinh cho nhau trong đời này và bạch xin Ngài giáo giới cho pháp để hai ông bà luôn được hạnh phúc bên nhau trong các kiếp sau (đồng tín, đồng giới, đồng thí, đồng trí). Phật tuyên bố với Tăng Đoàn ông bà là cư sĩ tối thắng về giao tiếp một cách thân mật (A. i. 26; ii. 61 f.; AA. i. 216 f., 246; ii. 514; SA. ii. 182).

Một hôm, Nakulapitā bị bệnh, bà thấy ông lo âu. Bà liền khuyên ông chớ âu lo cho ông, cho bà, hay cho con cái. Bà nói với giọng khẳng định khiến ông an tâm và khỏi bệnh. Sau đó ông đến viếng Đức Phật kể lại chuyện này. Phật tán thán ông có người vợ tốt (A. iii. 295 ff.).

Tương ưng bộ (S. iii. 1 ff.; iv. 116; A. iv. 268) có ghi lại các câu chuyện giữa Phật và ông bà gia chủ Nakulapitā (Nakulapitā Sutta). Gia chủ Nakulapitā yết kiến Phật và bạch hỏi tại sao một số chúng sinh được giải thoát trong đời này còn số khác thì không. Đó là vì chấp thủ vào sáu trần, Phật đáp. Tiếp theo, Ngài giảng giải cho ông nghe (S. iv. 107, 116). Một lần khác, gia chủ Nakulapitā xin Phật giáo giới để ông được an lạc trong lúc tuổi về chiều hay đau yếu. Phật dạy ông tu tập tâm, và luôn ghi nhớ: “Dù thân ta có đau, nhưng tâm ta sẽ không đau theo”. Tiếp theo, ông yết kiến Tôn giả Sāriputta để xin được giải thích điều Phật dạy. Tôn giả giải thích cặn kẽ pháp tu tập tâm bằng cách diệt trừ các ý tưởng về ngã đối với các uẩn (S. iii. 1 ff.).

Cả hai ông bà được Phật tuyên bố là hai vị tối thắng về “nói chuyện một cách thân mật” (A. iii. 465; iv. 348). Được biết (A. i. 216) ước muốn làm người tối thắng phát khởi nơi ông bà Nakulapitā từ thời Phật Padumuttara. Bấy giờ ông làm gia chủ ở Haṃsavatī và có mặt trong lúc Phật tuyên bố với Tăng Đoàn vị tối thắng trong số các vị cư sĩ giao tiếp một cách thân mật.

*-----*

(10) Kāḷi — Lòng tịnh tín đối với lời nghe đồn (nghe lóm)

Còn gọi là Kururagharikā, được xem như vị nữ cư sĩ đệ tử có lòng tịnh tín đối với lời nghe đồn tối thắng (anussavappasannānaṃ) (A. i. 26).

Bà có chồng là người trong tộc Kururughara ở Avantī và có con là Soṇa Kuṭikaṇṇa. Lúc sắp sửa sinh con, bà về nhà cha mẹ ở Rājagaha. Đêm nọ, đứng hứng gió trên bao lơn, bà nghe Sātāgira và Hemavata nói về đức hạnh của Phật và tính ưu việt của giáo pháp Ngài, bà thành tựu lòng tin nơi Phật và đắc Sơ quả. Chính trong đêm ấy bà hạ sinh Soṇa. Sau đó, bà trở lại Kururughara và tại đây bà đến yết kiến Trưởng lão Mahā Kaccāna mà câu chuyện được ghi lại trong Kāḷi Jātaka (q.v.). Lúc Soṇa gia nhập Tăng Đoàn dưới sự chủ trì của Mahā Kaccāna và đến yết kiến Phật, bà cho con tấm thảm quý để trải trong liêu của Đức Phật. Khi Soṇa về nhà sau lần viếng Phật vừa nói, bà yêu cầu con thuyết pháp lại cho bà nghe như ông từng thuyết cho Phật nghe và được chính Đức Phật và các thiên thần ở vạn cõi tán thán.

Kāḷi được xem như vị niên trưởng trong số các nữ đệ tử đắc quả Dự lưu (AA. i. 133 ff.; SnA. i. 208 f.). Bà là người bạn trung thành và thân thiết của Kātiyānī (AA. i. 245). Ước vọng trở thành bậc tối thắng trong đời này đã được bà khấn nguyện từ thời Phật Padumuttara lúc bà nghe một nữ cư sĩ được tuyên bố là tối thắng vể lòng tịnh tín đối với lời nghe đồn (nghe lóm) (Ibid., 247).

Có lần bà đến viếng Tôn giả Mahā Kaccāna và nhờ ông giải thích rộng rãi những vần kệ vắn tắt trong các câu hỏi của các người con gái của Māra (Kumāripañha, SN 4.25). Đó liên quan đến mười thiền án kasina (A. v. 46 f., AN 10.25).

*-----*

THAM KHẢO

1. Dictionary of Pali Proper Names, G.P. Malalasekera.
2. Tăng chi bộ, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt.
3. The Numerical Discourses of the Buddha (Anguttara Nikaya), English translation by Bhikkhu Bodhi.
4. Tăng Nhất A-hàm, Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch Việt.
5. Great Disciples of the Buddha, Nyanaponnika Mahathera and H. Hecker (Đại Đệ Tử Phật, BBT Thích Ca Thiền Viện dịch).
6. The Historical Buddha, H.W. Schumann (Đức Phật Lịch Sử, Trần Phương Lan dịch).

Tài liệu tham khảo



No comments: