Sunday, 30 January 2022

Luận án Tiến sĩ - PhD Thesis (1981)

 Đại học Murdoch (Murdoch University), Perth, Western Australia, báo cho biết sau 40 năm, họ vừa scan và số hóa Luận án Tiến sĩ của tôi -- hoàn tất năm 1981, và đưa vào trang web của Đại học. Ngày xưa, các luận án được đánh máy trên giấy thành 4 bản, đóng tập và trình lên Hội đồng Thẩm duyệt Luận án của trường Đại học.

Anson, Binh (1981). Neutralisation of acid wastewater by limestone-bearing sand. PhD thesis, Murdoch University.
(Sự trung hòa nước thải axít bằng cát có đá vôi).

Link: https://researchrepository.murdoch.edu.au/id/eprint/52400/ 

Bản PDF (71 MB):
1) https://tinyurl.com/yfh7wv79
2) https://mega.nz/file/i4BAhbrD#ryAEBoQ4dL1gQyuZGgUdag8NiARA0OKMO0wBOeKsVtM

*




Tuesday, 18 January 2022

Về già, chúng ta dựa vào ai?

VỀ GIÀ, CHÚNG TA DỰA VÀO AI?

Huỳnh Mai
 05/01/2022

*

Khoảng chục năm nay chúng tôi bắt đầu nghĩ về cuộc sống khi về già. Ở cùng con là lựa chọn truyền thống và phổ biến nhất từ trước tới nay ở Việt Nam. Nhưng ở  thế hệ chúng tôi, lựa chọn này đã không còn dễ dàng như với các thế hệ trước.

Chúng tôi đi học xa nhà từ 18 tuổi rồi tự lập luôn ở thành phố lớn, hầu như không có bà con họ hàng, quê hương… bên cạnh. Rồi con cái cũng vậy, chúng hầu hết đều đi học ở nước ngoài và không muốn về Việt Nam. Thế hệ chúng tôi lại ít con, mỗi nhà hai đứa là nhiều nhất, và cũng không ít người không lập gia đình hay không có con. Cho nên khi bọn nhỏ muốn định cư ở nước ngoài thì cha mẹ hầu như đều được khuyên rằng về già thì theo con sang đó sống.

ĐỊNH CƯ THEO CON RỒI NGỒI TRONG BỐN BỨC TƯỜNG

Nhưng, thế hệ chúng tôi hiểu rõ sự quý báu của cuộc sống có tự do cá nhân. Cha mẹ chúng tôi thường sống với những người con khác ở quê hương-những đứa con không đi xa và có nhiều thời gian hơn để chăm sóc cha mẹ. Khoảng cách thế hệ vốn đã lớn thì còn lớn hơn với những đứa con trưởng thành và sống xa cha mẹ, do không sống chung nên cũng khó hiểu nhau và thiếu thốn những ký ức chung.

Thế thì con cái chúng tôi-những đứa trẻ trưởng thành ở Anh, Mỹ, Úc… thực chất hầu như đều đã trở thành những quả chuối (da vàng nhưng bên trong thì “trắng”) làm sao chúng có thể chăm sóc cha mẹ già Việt Nam trăm phần trăm? Mà lại là Việt Nam đã bị bứng ra khỏi hoàn cảnh và môi trường sống quen thuộc từ tấm bé, với bạn bè, họ hàng, đồng nghiệp cũ…, để sang sống ở một môi trường hoàn toàn lạ lẫm, thậm chí ngôn ngữ cũng không thông thạo? Nhiều đứa sẽ lấy vợ, lấy chồng Tây, khoảng cách thế hệ, văn hóa và dân tộc tính ngày càng lớn nhưng thời gian dành cho gia đình ngày càng ít, liệu cha mẹ già có thể sống vui với chúng những ngày cuối đời? Những người chúng tôi quen biết thân quý thì chúng không biết, và ngược lại. Những gì đã tạo nên ký ức của chúng tôi không có giá trị tương tự với chúng, và ngược lại

Có thể nói, khi sang nước ngoài sống cùng với con thì chúng tôi là cái cây bị bứt hết gốc rễ. chỉ còn phụ thuộc vào mỗi một mình con cái. Nếu chúng “trở mặt”, không dành đủ thời gian hay không chăm sóc được như ý, cha mẹ sẽ tủi thân vô cùng vì không có ai khác để chia sẻ. Cô đơn trong bốn bức tường thôi.

Rất nhiều đứa bé được cho đi học xa nhà từ tuổi thiếu niên hầu như đều cảm thấy Việt Nam không còn là nhà của nó nữa. Mọi thứ đều xa lạ, trừ cha mẹ. Bạn bè, thầy cô, khí hậu, thời tiết, thức ăn, văn hóa, lối sống… những gì nó quen thuộc và thích nhất đều ở bên kia đại dương cả rồi.

Cha mẹ nài nỉ: Con đi đâu thì cứ đi nhưng mai mốt ba mẹ già rồi thì về Việt Nam ở với ba mẹ. Ba mẹ có một mình con!

Nó trả lời: Con xin lỗi nhưng con  cũng không lựa chọn làm con một của cha mẹ (tức là việc cha mẹ do chỉ có một đứa con nên suy luận rằng nó phải có nghĩa vụ tuân theo cha mẹ là không hợp lý).

Sợ cha mẹ buồn, nó nói rõ: Sẽ chăm lo cha mẹ khi về già, nhưng nó không ở Việt Nam như ý cha mẹ muốn.

Không đi theo con thì về già sống ra sao? Rất nhiều người trong chúng tôi tính sẽ vào nhà dưỡng lão. Ngay cả những gia đình con cái đều ở Việt Nam thì hầu hết cũng nghĩ sẽ vào nhà dưỡng lão khi già yếu, cũng với những lý do đó.

NHÀ DƯỠNG LÃO Ở VIỆT NAM

Mô hình nhà dưỡng lão đã được đặt ra từ hai, ba mươi năm nay, nhất là khi dân số già ở Việt Nam ngày càng tăng. Nhưng vì nhiều lý do nên nó vẫn chưa phổ biến.

Tôi cho rằng tài chính là lý do lớn nhất. Phần đông người Việt Nam vẫn sống dưới mức trung lưu. Người bình dân thường thường sẽ sống như tập quán là sống cùng con cháu khi về già. Những người giàu có, chủ doanh nghiệp hay có nhiều tài sản cũng vậy, con cháu họ sẽ chăm sóc.

Số đông là tầng lớp công chức và trí thức trung lưu mong muốn cuộc sống độc lập, tự do không phụ thuộc con cháu thì lương hưu quá thấp. Nếu chỉ dựa vào lương hưu thì không đủ trả chi phí cho nhà dưỡng lão (lương hưu thấp nhất khoảng 4 triệu đồng, cao là khoảng 6-7 triệu đồng/tháng, trong khi phí trả cho nhà dưỡng lão thấp nhất khoảng 7 triệu đồng/tháng (nhu cầu cơ bản, thường phải cộng thêm các phí khác, tổng khoảng 10 triệu cho gói thấp nhất), trung bình khoảng 12-15 triệu/tháng). Hoặc phải bán nhà cửa đi (thường tầng lớp này cũng chỉ có một tài sản lớn nhất nhà cửa), nhưng thế thì con cháu sinh sống chỗ nào? Văn hóa làm cha mẹ của người Việt là phải để lại tài sản cho con, thế cho nên dù chật chội, thiếu thốn thì nhiều người già vẫn không bán tài sản để hưởng thụ cá nhân mà chọn cách ở với con cháu cho đến khi nhắm mắt xuôi tay.

Thứ hai, chưa có niềm tin vào nhà dưỡng lão. Tôi có người bạn đã gửi ba của nó vào một nhà dưỡng lão tư nhân ở Củ Chi, ven Sài Gòn. Chi phí thấp nhất (phòng năm giường) là 10 triệu đồng/tháng. Cao nhất (phòng riêng) là 18 triệu đồng/tháng, chưa kể phụ phí đồng phục, chăm sóc khi bị bệnh và trong các ngày lễ tết.

Bạn tôi là con gái một. Mẹ bị tâm thần đã vài chục năm, không hung dữ phá phách nhưng suốt ngày đi lang thang rồi ghé tiệm của con xin tiền. Khi bạn tôi có bầu đồng thời ba nó bị đột quỵ, không còn cách nào khác, nó phải gởi ba vào nhà dưỡng lão. Hai ngày đi cùng nó lên thăm cha, tôi đã đủ ngậm ngùi.

Nhà dưỡng lão chia làm bốn loại khách hàng: Thứ nhất là các cụ ông/cụ bà còn tương đối khỏe mạnh và minh mẫn. Thứ hai là các cụ yếu hơn nhưng vẫn đi đứng được, có người lúc tỉnh lúc lẫn. Thứ ba, các cụ phải chăm sóc gần như toàn bộ, ăn phải có người đút, hầu hết không tự di chuyển được hoặc khá yếu nên phải ngồi xe lăn. Thứ tư là các cụ gần như chỉ còn sống thực vật, cho ăn qua ống.

Các ông bà cụ trong nhà dưỡng lão này không được mặc áo quần riêng, cũng không được dùng đồ cá nhân. Vào đây, họ đều được phát mấy bộ đồ đồng phục bằng thun dày màu cam, cổ tròn, cả ống tay áo và ống quần đều được may ngắn hơn bình thường để đỡ vướng. Tóc thì húi cua sạch cả cụ ông lẫn cụ bà, nên nhìn vào gần như chẳng phân biệt được bà hay ông. Bát chén riêng không được dùng mà ăn bằng cái tô inox của Nhà dưỡng lão.

Mỗi tuần, con cháu được lên thăm các cụ vào thứ bảy và chủ nhật. Đó là những ngày rộn ràng, vui tươi nhất của các cụ. Khi người thân đến nơi, bảo vệ sẽ báo vào bên trong (người thân không được vào khu lưu trú). Bảo mẫu sẽ săn sóc, chải tóc, thay quần áo cho các cụ nếu cần, rồi đẩy xe lăn ra sảnh tiếp đón. Khu này rộng, có mái che, nhiều bàn ghế, lại gần một hồ sen, có cây cảnh, tượng Phật nên thoáng mát và có thiên nhiên để ngắm nhìn. Thường các gia đình mang rất nhiều thức ăn đủ loại lên để “thăm nuôi” ông bà cha mẹ. Vô số thức ăn bày trên bàn, người này mở, người kia giục, người nọ xúc… ông bà vừa ăn chưa hết miếng này thì con cháu đã mở hộp thức ăn khác, xúc miếng khác..

Đến xế chiều, con cháu lần lượt ra về. Các cụ trở vào khu lưu trú. Khi hai cánh cửa mắt cáo ngăn cách hai khu khép lại cũng là lúc các cụ thầm đếm xem còn bao nhiêu buổi sáng, buổi chiều và buổi tối thì đến ngày được gặp con cháu lần nữa.

Tôi may mắn được chứng kiến bữa cơm của họ. Bữa cơm gồm hai món: canh rau và một món mặn.  Tất cả đều được nhân viên nấu nóng trong bếp, nhưng tất cả đều mang một cái màu: màu … cháo lòng, và một cái mùi: mùi thức ăn ít gia vị, nhạt nhẽo và được nấu lâu trên bếp.

Cơm trong nhà dưỡng lão đều từ nhão đến rất nhão, để các cụ già dễ nuốt. Canh cũng quanh đi quẩn lại  bí đỏ, bí xanh, bắp cải… tất cả đều lõng bõng và chín nhừ. Thức ăn mặn thường là cá, trứng chiên hoặc ít thịt nạc kho nhạt. Các cụ khỏe còn tự xúc ăn được. Các cụ còn lại thì nhân viên sẽ đổ hết tất cả thức ăn, cả canh lẫn thịt vào một cái tô và xúc cho họ. Nhiều ông bà cụ nhai móm mém chưa xong miếng trước đã phải há miệng ra để nhận tiếp miếng sau.

Nhà dưỡng lão cho biết do lo ngại bụng dạ các cụ yếu nên thức ăn nấu rất nhạt và hầu như không có gia vị. Thành ra nhìn các cụ sau khi vào trại thì đều hồng hào, tăng cân (có lẽ một phần do ít vận động chăng), nhưng không cụ nào tỏ vẻ thích bữa ăn của trại. Họ đều mong chờ những ngày con cháu đến thăm, mang thức ăn hợp khẩu vị. Có cụ có tiền thì có thể mua thêm ít thức ăn vặt, nhưng rất hãn hữu.

Vài cụ ông còn khỏe mạnh thì nghe radio (tự mang vào), hoặc đọc báo. Nhưng báo cũng có rất ít loại. Sách không thấy cuốn nào. Không có thư viện mặc dù số người còn đọc được cũng khá đông. Nhà dưỡng lão có các hoạt động văn nghệ nhưng tôi không gặp.

Phòng ngủ thường có 4 giường sắt cỡ 80 cm, đệm bọc simili thường gặp ở bệnh viện. Toilet chung nằm ở bên ngoài. Tuần hai hoặc ba lần, các cụ được tắm. Nhà tắm là một phòng chung rất đơn giản chia làm hai phần, bên trong là khu vực tắm với mấy vòi nước, thông thống không có gì che chắn. Nhân viên sẽ đẩy ba cụ vào một lần, xối nước tắm rồi đẩy ra ngoài, lau khô, mặc áo quần. Không còn gì là riêng tư nữa. Tôi cho rằng điều đó gây tổn thương nhân phẩm của các cụ và nó làm tôi đau lòng.

Với 18 triệu đồng, các cụ sẽ được một phòng riêng, rất nhỏ nhưng có máy lạnh và toilet trong phòng.

Ở một nhà dưỡng lão khác quảng cáo là do Nhật đầu tư, tình hình vui vẻ hơn rất nhiều. Các cụ được mặc dùng tư trang cá nhân như áo quần riêng, bát chén, chăn gối…, tất cả. Chất lượng bữa ăn phong phú và ngon hơn, được đổi bữa thường xuyên, lượng trái cây và sữa cũng nhiều hơn. Các cụ ở trong phòng riêng một hoặc hai người, đầy đủ tiện nghi. Giờ ăn, họ ngồi quanh một bàn ăn ấm cúng giống như ở nhà. Nhân viên vẫn tắm cho các cụ nhưng tắm riêng từng người một, trong phòng tắm kín. Sự riêng tư được tôn trọng. Chất lượng cuộc sống và phục vụ ở đây tốt hơn hẳn so với nhà dưỡng lão Việt Nam, nhưng tất nhiên giá tiền cũng cao hơn. Và do họ không có cơ sở rộng nên nhà dưỡng lão chỉ nhận rất ít người.

Tất cả là nhà dưỡng lão tư nhân. Ở thành phố Sài Gòn có một nhà dưỡng lão của nhà nước, gọi là Nhà dưỡng lão Thị Nghè. Vào đây, ngoài tiền còn phải đáp ứng một số yêu cầu như là cán bộ có quá trình cống hiến cho nhà nước.

NGƯỜI GIÀ DỰA AI?

Có những nhóm bạn thấy rõ thực tế của cuộc sống xa con sau này, đồng thời cũng sợ hãi sự cô độc và thiếu thốn ở nhà dưỡng lão nên bàn nhau xây dựng các nhóm dưỡng lão gia đình. Chung tiền thuê một ngôi nhà có vườn gần biển hoặc gần núi tùy thích, sống chung với nhau và thuê người chăm sóc. Chi phí tất nhiên là cao, nhưng lúc ấy bán hết tài sản đi để lấy tiền sống những ngày cuối đời thì chẳng cần phải băn khoăn. Đó có lẽ là mô hình tốt nhất.

Hoặc cũng có thể thuê người giúp việc sống với mình, nhưng như vậy sẽ rất buồn bã và cô đơn vì không có bạn bè; các nhu cầu tối quan trọng như dinh dưỡng, y tế cũng không đảm bảo.

Ở Việt Nam không có chế độ phúc lợi thuê người giúp việc chăm sóc người già yếu neo đơn, cho nên chỗ dựa cho người già hầu như chỉ có một cái gậy duy nhất: TIỀN.

Nếu con cháu có hiếu và có đủ điều kiện (thời gian, tiền bạc, tâm trí) để người già sống quây quần cùng con cháu đến cuối đời thì đó là cuộc sống hạnh phúc nhất. Tứ đại đồng đường, cha mẹ con cháu đều được nương tựa vào nhau cả về tinh thần và vật chất.

Có lần trong bệnh viện tôi gặp một đôi vợ chồng già không có con. Ông bệnh, bà vào chăm sóc nhưng chủ yếu động viên tinh thần. Hai cụ già đều trên 80 tuổi không thể chạy đi mua thức ăn hay các việc lặt vặt khác được. Có một anh con trai là cháu của ông bà hàng ngày mua thức ăn vào, nhưng anh cũng không sốt sắng gì lắm, chỉ làm theo trách nhiệm rồi về.

Bà cười nhạt nói với tôi: “Già dựa ai? Dựa tiền. Ai nuôi? Tiền nuôi. Mình có tiền còn sai nó làm được, chớ không thì nó cũng bỏ thôi, con à.”

*

Chúng ta rồi ai cũng già đi, không chừa một ai, rồi ai cũng sẽ đến ngày mắt mờ, tai điếc, chân run và tè dầm ra tã. Bạn đời, bạn bè, đồng nghiệp, người hâm mộ đều đã mất đi hoặc đều run rẩy như ta cả.

Nhưng có ai nghĩ đến điều đó? Khi chúng ta còn trẻ như lũ con cháu bây giờ, chúng ta cũng y như chúng, không có lấy một giây nghĩ rằng sẽ có ngày bản thân già đi.

HUỲNH MAI
05/01/2022

*---------*



Monday, 17 January 2022

Bước đầu tập hành thiền - Hòa thượng Gunaratana

 BƯỚC ĐẦU TẬP HÀNH THIỀN

Hòa thượng Gunaratana (2014)
Bình Anson lược dịch (2022)

Trích: Bhante Gunaratana (2014), Meditation on Perception (Hành thiền quán tưởng).

*

Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:

…”Ở đây, vị tỳ-khưu đi đến khu rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến nơi thanh vắng, ngồi xuống, chân xếp chéo, giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Có niệm vị ấy thở vào, có niệm vị ấy thở ra.

Trong khi thở vào dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào dài.’
Trong khi thở ra dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở ra dài.’
Trong khi thở vào ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào ngắn.’
Trong khi thở ra ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở ra ngắn.’ …”

Dựa vào những lời dạy đó, chúng ta có thể bắt đầu tập hành thiền như sau:

* ĐI ĐẾN MỘT NƠI YÊN LẶNG. Mặc dù Đức Phật đề nghị một khu rừng, gốc cây hay một nơi thanh vắng, trong hoàn cảnh hiện tại của đa số chúng ta, nơi hành thiền đơn giản là nơi chúng ta có thể ngồi thực hành một mình, tránh xa những bận rộn hằng ngày. Rất khó phát triển định tâm nếu chúng ta ngồi cạnh máy điện thoại di động hay máy tính cá nhân! Để tập trung tâm ý, ta cần phải tránh mọi náo động, bên trong lẫn bên ngoài.

* CHỌN TƯ THẾ NGỒI THOẢI MÁI VÀ VỮNG VÀNG. Đức Phật dạy chúng ta ngồi xuống, chân xếp chéo, giữ lưng thẳng. Tuy nhiên, ngày nay có nhiều người ngồi dưới đất, chân xếp chéo với một cái gối nhỏ kê mông. Cũng có thể ngồi trên ghế, giữ lưng thẳng để hành thiền, hoặc trong những trường hợp bất khả kháng, có thể hành thiền trong tư thế đứng, trong lúc đi, hay khi nằm xuống. Mục đích là giữ thân nhẹ nhàng, thoải mái trong một tư thế nào có thể giúp ta chịu đựng trong một thời gian dài mà không di chuyển hay điều chỉnh.

* CHÚ TÂM VÀO THỜI KHẮC HIỆN TẠI. Như Đức Phật dạy trong đoạn kinh trên, hành giả phải giữ niệm luôn hiện diện, hay giữ niệm trước mặt. Chúng ta thực hành theo lời dạy này bằng cách ghi nhớ rằng quá khứ đã qua rồi, còn tương lai thì chưa đến. Thời khắc thực sự hiện hữu là ở ngay trước mặt, thời khắc của những gì đang xảy ra ngay bây giờ.

* ĐEM TÂM CHÚ Ý VÀO HƠI THỞ, HƠI THỞ ĐI VÀO VÀ ĐI RA. Chọn một điểm duy nhất để ta chú ý vào đó giúp tâm được an định. Thông thường, nơi dễ theo dõi sự chuyển động ra vào của hơi thở là ở chóp mũi, nơi luồng không khí chạm vào ống mũi khi thở vào và thở ra.

* ĐỂ TÂM GHI NHẬN HƠI THỞ CÓ KHI DÀI, CÓ KHI NGẮN. Lời dạy này không có nghĩa là ta phải kiểm soát hơi thở, ép hơi thở vào ra phải là hơi dài hay hơi ngắn. Ở đây, hành giả chỉ đơn thuần ghi nhận hơi thở ra vào tự nhiên, có khi dài, có khi ngắn. Quán niệm hơi thở trong Phật giáo không phải là bài tập thể dục huấn luyện hơi thở. Ở đây, chúng ta dùng hơi thở, lúc nào cũng có mặt với chúng ta, như là một điểm chú tâm để giúp chúng ta phát triển tâm định và niệm.

* NHẸ NHÀNG VÀ NHẤT QUÁN. Thiền là phải thực hành. Không nên mong đợi kết quả nhanh chóng sau một buổi tập đầu tiên, hay ngay cả sau hai, ba, hay mười buổi tập. Nếu có thể, nên chọn thời gian hành thiền mỗi ngày khi vắng lặng, không có những xáo trộn. Nhiều người chọn hành thiền vào buổi sáng sớm, trước khi bận rộn vào những công việc ban ngày, hay vào buổi tối, nếu đó là khoảng thời gian mà họ cảm thấy vẫn còn tỉnh táo, nhanh nhẹn. Thiết lập một thời gian nhất định tại một nơi cố định để hành thiền đều đặn mỗi ngày là một đường lối nhẹ nhàng để khuyến khích và trợ giúp công phu hành thiền của mỗi người.

* LINH ĐỘNG VÀ LẠC QUAN. Điều chỉnh buổi hành thiền để giúp tâm có đủ thời gian để lắng động. Nhiều người thấy rằng dành ra hai mươi đến ba mươi phút mỗi ngày để hành thiền mang đến kết quả tốt, nhưng ngay cả khi hành thiền trong năm hoặc mười phút cũng là điều tốt trong những ngày ta có nhiều việc bận rộn. Ta phải cảm thấy thư giãn và thoải mái khi ngồi theo dõi hơi thở, càng lâu càng tốt. Nhưng không nên xem hành thiền là một công việc lặt vặt hay một sự bó buộc. Cần phải xem đó như là một sinh hoạt tốt, đáng ưa thích để giúp thư giãn và đem niềm vui đến thân và tâm, và từ đó giúp ta tăng trưởng tâm linh.

-- Hòa thượng GUNARATANA (2014)

*-----*