Showing posts with label Issue. Show all posts
Showing posts with label Issue. Show all posts

Sunday, 7 September 2025

Đại thừa và Tiểu thừa

 ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA
Hòa thượng Thích Minh Châu

Trong Lời Tựa bản dịch cuốn sách "Đại Thừa và sự liên hệ với Tiểu Thừa", xuất bản năm 1971 ở Sài Gòn [*], Hòa thượng Thích Minh Châu khuyên chúng ta không nên có thái độ cực đoan một chiều về danh xưng "Đại thừa" và "Tiểu thừa". Ngài viết:

(...) Ðọc kỹ tiến trình tư tưởng Phật giáo, chúng ta sẽ thấy các luận sư không vị nào là không muốn diễn đạt cho thật sự trung thành giáo nghĩa nguyên thủy của đức Từ Phụ. Dầu cho sự diễn đạt đặt dưới nhiều quan điểm và khía cạnh sai khác, lồng vào những bối cảnh có thể nói là mâu thuẫn, nhưng chúng ta vẫn nhận thấy những sóng ngầm đồng nhất, thật sự nguyên thủy trong sự cố gắng trung thành của các nhà luận sư. Cho nên quan điểm của một số học giả Pāli cho rằng những gì ngoài ba tạng Pāli là ngụy tạo, vừa nguy hiểm, vừa nông nổi nếu không phải là lạc hậu. Nguy hiểm vì tự mình phủ nhận những cố gắng trung thành với đạo Phật nguyên thủy của các nhà luận sư, như chúng ta đã thấy quá rõ ràng trong tập sách này. Nguy hiểm hơn nữa là chúng ta phủ nhận luôn những tinh hoa đạo Phật nguyên thủy do chính các nhà luận sư khai thác và diễn đạt. Nông nổi và lạc hậu, vì ngày nay các nhà học giả Phật giáo phần lớn đều chấp nhận một số tư tưởng Ðại thừa là những tư tưởng của đạo Phật nguyên thủy và xác nhận chính trong Tam tạng Pāli, được kiết tập trong một thời gian một vài thế kỷ, lẽ dĩ nhiên phải có những đoạn phi nguyên thủy xen kẽ vào. Nếu có nhà học giả nào chịu khó so sánh bốn tập A-hàm (Trung Hoa) với các tập Pāli Nikāya tương đương, các vị ấy sẽ thấy có nhiều đoạn văn A-hàm Trung Hoa lại nguyên thủy hơn các đoạn văn Pāli.

Thái độ của một số Phật tử Ðại thừa ngược lại xem những gì Tiểu thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng học hỏi cũng là một thái độ nguy hiểm, nông nổi, nếu không phải là ngây thơ, phản trí thức. Nguy hiểm vì tự nhiên phủ nhận ba tạng Pāli, bốn bộ A-hàm và các Luật tạng, những tinh hoa tốt đẹp nhất và nguyên thủy nhất của lời Phật dạy. Và làm vậy chúng ta mắc mưu các nhà Bà-la-môn giáo đã khôn khéo loại bỏ ra ngoài Phật giáo những tinh ba của lời Phật dạy, bằng cách gán cho danh từ "Tiểu thừa". Nông nổi và ngây thơ, vì thật sự danh từ Tiểu thừa và Ðại thừa không được tìm trong ba tạng Pāli và bốn bộ A-hàm và chỉ là những danh từ được tạo ra về sau. Hơn nữa, tìm hiểu quá trình lịch sử tư tưởng Phật giáo, chúng ta chỉ có thể hiểu được tư tưởng Ðại thừa sau khi chúng ta tìm hiểu được tư tưởng nguyên thủy. Loại bỏ tư tưởng nguyên thủy để tìm hiểu tư tưởng Ðại thừa cũng như thả mồi bắt bóng, và bắt bóng ở đây là bắt bóng tà ma ngoại đạo, mới thật sự nguy hiểm hơn. Các nhà gọi là Ðại thừa cần phải xác nhận một sự thật lịch sử, là các nước Tiểu thừa chống giữ sự xâm nhập của ngoại đạo tà giáo kiên trì và hữu hiệu hơn các nước Ðại thừa. Lý do chính là tư tưởng Ðại thừa và tà giáo ngoại đạo nhiều khi cách xa chỉ có gang tấc, và nhiều nhà tự cho là Ðại thừa lại sẵn sàng bước qua biên giới ấy. (...)

[*] N. Dutt. "Đại Thừa và sự liên hệ với Tiểu Thừa" (Aspects of Mahāyāna Buddhism and its relation to Hīnayāna). Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt (1971).

Tải bản PDF:
https://tinyurl.com/35hhbah9 [vn304.pdf, 3.1 MB]

*-----* 






Tuesday, 2 September 2025

Diễu võ hay Diễn võ, Diệu võ?

 DIỄU VÕ HAY DIỄN VÕ, DIỆU VÕ?

Nhân khi bàn luận về từ “diễu binh” và “diễn binh”, một người bạn trẻ có đề cập đến thành ngữ “diễu võ dương oai” để minh chứng cho cách dùng từ “diễu”. Quả thật là bây giờ khi dùng Google để tìm thì thấy rất nhiều các bài viết trên mạng dùng thành ngữ này với từ “diễu”. Nhưng nếu truy tìm với thành ngữ “diễn võ dương oai” thì thấy vẫn có một số bài viết dùng với từ "diễn". Tôi nhớ khi còn ở Sài Gòn trước 1975, tôi chỉ biết câu “dương oai diễn võ” viết với từ “diễn”.

Tìm tòi trên mạng qua Google, tôi biết thêm là thành ngữ trên bắt nguồn từ câu tiếng Hán là 耀武揚威 - Diệu vũ dương uy, trong đó, 耀 Diệu (bộ Vũ) là làm cho chói sáng, phô trương, khoe khoang.

Như thế, trong trường hợp này, "Diễu" và "Diễn" là cách phát âm vùng miền của từ "Diệu 耀". Có lẽ chúng ta nên viết câu đó là “diệu võ dương oai” với từ "diệu võ" thì chính xác hơn. Việt Nam Tự Điển của Nguyễn Văn Đức, xuất bản ở Sài Gòn năm 1970, có ghi câu "Diệu võ dương oai" và định nghĩa là "làm tàn, làm ra bộ nghênh ngang, khoe khoang sức mạnh". Dùng Google để truy tìm với thành ngữ "diệu võ dương oai" thì cũng sẽ thấy nhiều bài viết và vài tự điển trực tuyến đề cập đến từ "diệu võ".

*




Saturday, 30 August 2025

Diễu binh hay Diễn binh?

 DIỄU BINH HAY DIỄN BINH?

Gần tới ngày lễ lớn ở Việt Nam, tôi thấy bạn bè, báo chí dùng rất nhiều từ "Diễu binh". Tôi cảm thấy hơi buồn cười vì khi đọc từ "diễu", tôi lại liên tưởng đến từ "giễu" trong "chế giễu, giễu cợt". 

Sinh ra và lớn lên ở miền Nam trước 1975, tôi chỉ quen thuộc với từ "Diễn binh". Diễn ở đây có liên quan đến các từ: trình diễn, biểu diễn, thao diễn, diễn dịch. Tiếng Hán là 演, thuộc bộ Thủy. Tra Google với từ 演兵 (diễn binh), tôi thấy dịch ra tiếng Anh là Military Parade. Tôi không tìm thấy tiếng Hán của từ "Diễu" trong Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn trực tuyến [*] mà tôi thường truy cập để tham khảo. Ngay cả Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu xuất bản năm 1942 ở Hà Nội cũng không thấy ghi từ “Diễu” – viết với dấu ngã, chỉ có từ “Diễn”.

Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931 có đề cập đến từ “Diễu” là chung quanh. Người miền Nam đọc là “Nhiễu” 繞 , trong đó “nhiễu hành” 繞行 là đi vòng chung quanh. Ngày nay từ này vẫn còn được dùng trong sinh hoạt Phật giáo: đi nhiễu Phật là đi vòng quanh tượng Phật hay vòng quanh chánh điện.

Từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản ở Sài Gòn năm 1895, có đề cập đến cả 2 từ “Diễn binh” và “Diễu binh”: 

- Diễn binh: Tập luyện quân binh, và 
- Diễu binh: Trần binh cho thiên hạ coi, cũng là cuộc tập binh. Trong đó, có ghi thêm từ “chạy diễu” đồng nghĩa với “chạy rểu” – chạy rông vát qua lại (rểu: 繞 còn đọc là diễu, nhiễu). 

Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, xuất bản ở Sài Gòn năm 1970, có ghi cả hai từ "diễn binh" và "diểu binh" và cho là có nghĩa giống nhau. "Diễu" là đồng nghĩa với "rểu", có nghĩa là lượn quanh, qua lại, đi nhởn nhơ.

Ngày nay, các báo Việt ở nước ngoài (Người Việt ở Mỹ, Việt Báo ở Mỹ, Thời Báo ở Canada, Việt Luận ở Úc, Thời Báo ở Đức) vẫn dùng các từ “diễn binh, diễn hành” theo người miền Nam xưa. Theo tôi, “Diễn binh” là viết đúng, chính xác hơn là "Diễu binh".

[*] http://nguyendu.com.free.fr/hanviet/  

– Bình Anson 
Perth, Tây Úc 
31/08/2025
(cập nhật & hiệu đính: 05/09/2025)

*



Friday, 1 August 2025

Đoạn trường ai có qua cầu mới hay ...

 ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU MỚI HAY ... 

Sau khi tốt nghiệp Kỹ sư Hóa học ở Sài Gòn năm 1973, tôi được cấp học bổng sang Thái Lan học chương trình Thạc sĩ (Master) tại Viện Công nghệ Châu Á (Asian Institute of Technology - AIT). Trong thời gian đó tôi có quen một người bạn đến từ nước Afghanistan. Tôi và anh ấy cùng học một ngành, cùng học bài, làm bài tập với nhau, cùng làm các thí nghiệm phân chất hóa học với nhau, cùng đi chơi với nhau, nên rất thân thiết. Dù gia đình anh ấy theo đạo Hồi, cũng như gia đình tôi theo đạo Phật, lúc ấy, 2 đứa chúng tôi không quan tâm đến tôn giáo.

Sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ, anh ấy trở về làm việc ở Afghanistan, còn tôi bị kẹt lại tại Thái Lan sau biến cố tháng 4-1975. Chúng tôi vẫn giữ liên lạc qua thư từ bưu điện. Một lần nọ, tôi viết thư tâm tình, than thở tôi buồn, nhớ quê hương, nhớ gia đình. Anh ấy viết thư khuyên tôi nên vui sống trong hoàn cảnh hiện tại, và viết: “Nơi nào mình sống an vui, nơi ấy là quê hương của mình”.

Mấy năm sau, có đảo chính ở Afghanistan, gia đình anh ấy chạy tị nạn sang Iran, rồi sang Đức, cuối cùng định cư tại Mỹ. Lúc đó tôi đã sang định cư tại Úc. Sau khi lập liên lạc, từ Mỹ, anh ấy viết thư, than thở anh buồn, nhớ quê hương. Tôi viết thư trả lời: “Anh còn nhớ lời khuyên anh gửi cho tôi lúc trước không? Nơi nào mình sống an vui, nơi ấy là quê hương của mình.”  

Từ đó, không thấy anh viết thư than buồn nữa.

- Bình Anson

*




Thursday, 31 July 2025

Sống & Chết

 Sống & Chết

Sáng nay đọc tâm tình của một bạn trong Facebook, có đề cập đến câu "Triệu người quen có mấy người thân, khi lìa đời có mấy người đưa?" trong bài hát "Không Tên Số 4" của Vũ Thành An, tôi có đóng góp vài dòng cảm nghĩ. Xin chia sẻ ở đây.

Mình vào đời một mình với hai bàn tay trắng thì mình lìa đời cũng trắng tay, không đem theo được gì ngoại trừ cái nghiệp do mình tạo ra.

Khi mình còn sống, nếu may mắn có được MỘT người thân thôi cũng đủ rồi. Càng nhiều người thân càng thêm phiền não. Nếu không tìm được người thân nào, thì mình nói chuyện với đầu gối. Cũng tốt thôi. Cụm từ "nói chuyện với đầu gối" là của người miền Nam xưa, không biết bây giờ còn dùng không?

Còn khi mình nằm xuống rồi thì mình đi tái sinh với nghiệp duyên của mình. Thân xác còn lại chỉ là cát bụi tứ đại, sẽ trở về với cát bụi. Người ta đem quăng vào hố rác để làm phân cũng được, hay xây tháp với cả ngàn người khóc thương đưa tiễn cũng không sao. Đó là chuyện của người còn ở lại, không phải chuyện của người đã ra đi.

- Bình Anson

*



Sunday, 6 July 2025

Tam quy, ngũ giới của cư sĩ Phật tử

 TAM QUY, NGŨ GIỚI CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT TỬ
Bình Anson

Theo tôi biết, trong Chánh tạng (Kinh, Luật, Luận) không thấy ghi một nghi thức nào cho một cư sĩ trở thành đệ tử của Đức Phật – một Phật tử. Có những bài kinh ghi lại câu chuyện một cư sĩ tại gia (vua, quan, thương gia, nội trợ, nông dân, …) khi đủ duyên để gặp Đức Phật, được Ngài khuyến dạy; sau khi nghe, vị ấy phát tâm trong sạch xin nương nhờ nơi Đức Phật, Giáo pháp và Tăng đoàn, thường gọi là quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), và từ đó trở thành một cư sĩ Phật tử. Ba câu phát nguyện đó thường được cộng đồng Theravāda tụng đọc như sau:

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi – Con xin quy y Phật
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi – Con xin quy y Pháp
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi – Con xin quy Tăng

Tăng (Saṅgha) ở đây theo định nghĩa trong câu kệ tán dương ân đức Tam Bảo (SN 11.3) và trong bài kinh Châu báu (Ratana sutta, Snp 2.1) là cộng đồng chư thánh tăng, gồm những vị đã nhập dòng thánh giải thoát.

Có những bài kinh Đức Phật khuyên các đệ tử cư sĩ nên gìn giữ năm học giới (DN 5, DN 33.5, AN 3.79, AN 9.20, …). Từ đó, có câu phát nguyện gìn giữ năm học giới như sau:

1) Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không sát sinh)
2) Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không trộm cắp)
3) Kāmesumicchācāra veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không tà dâm)
4) Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không nói dối)
5) Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không uống rượu và dùng các chất say)

Đây là 5 học giới để người cư sĩ nguyện học tập, gìn giữ trong đời sống có đạo đức.

Trong các cộng đồng Theravāda - Nam tông (Thái Lan, Lào, Campuchia, Sri Lanka, Myanmar), các em học sinh được nhà trường dạy tụng đọc ba câu quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới bằng tiếng Pāli ngay từ bậc tiểu học. Thêm vào đó, mỗi lần đi chùa dự lễ, hay nghe thuyết pháp, hoặc thỉnh mời chư Tăng đến nhà để cầu an, cầu siêu, chư Tăng đều đọc các câu quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới đó để mọi người cùng đọc theo, như là một hình thức nhắc nhở. Do đó, hầu như các Phật tử Theravāda đều đọc thuộc các câu Pāli này, dù rằng cách phát âm của mỗi quốc độ có vài khác biệt.

Theo tôi biết, Phật tử cư sĩ tại các quốc gia Theravāda không có những buổi lễ xin quy y chính thức, mà cũng không có pháp danh đặc biệt nào. Pháp danh thường chỉ dành riêng cho các tu sĩ xuất gia trong các buổi lễ truyền giới của tu sĩ.

Ngay cả tại Việt Nam ngày xưa, trong truyền thống Bắc tông, cũng thế. Ba má, ông bà tôi đều là Phật tử, thường đi chùa vào ngày rằm và các dịp lễ lớn. Bà cố tôi đã từng hiến đất để cất chùa trong làng. Nhưng các vị đó không tham dự một lễ quy y Tam Bảo nào, cũng không có một pháp danh nào.

Thông lệ người cư sĩ tham dự một buổi lễ chính thức xin quy y tại chùa, rồi được ban cho một pháp danh có lẽ được áp dụng tại Việt Nam vào khoảng giữa thế kỷ 20, khi có phong trào canh tân Phật giáo. Về sau, khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập vào năm 1964, lễ Quy y Tam bảo này được Giáo hội khuyến khích áp dụng rộng rãi hơn trong khắp các tỉnh thành của Việt Nam Cộng Hòa xưa.

Như tôi đã từng chia sẻ, tôi có tham dự buổi lể xin quy y Tam Bảo chính thức tại Viện Nhu đạo Quang Trung, Đa Kao, Sài Gòn, do ngài Hòa thượng Thích Tâm Giác chủ trì, và được ban cho một pháp danh và một tờ điệp quy y. Tôi không còn giữ tờ điệp này, nhưng hình thức tương tự như tờ điệp trong hình kèm theo. Bên trái tấm hình là ngài Hòa thượng Thích Tâm Giác. Đó là vào năm 1965, khi tôi học lớp đệ Ngũ (lớp 8 bây giờ) tại trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký.

Tôi hầu như không bao giờ dùng pháp danh đó vì mình không chính thức tham gia một sinh hoạt Phật sự nào khác. Về sau này, khi tôi bắt đầu tìm hiểu truyền thống Theravāda trong thập niên 1980, tôi có gặp một vị sư Nam tông gốc Việt ở Bangkok. Vị sư ấy đọc các câu Tam quy và ngũ giới tiếng Pāli để tôi đọc theo, rồi tụng kinh cầu an chúc phúc cho tôi. Sau đó, sư cho tôi pháp danh là Sucitto (nghĩa là Thiện Tâm). Tôi dùng tên này trong vài bài viết về Phật giáo, rồi thôi, không còn dùng đến nữa.

Trong thời gian qua, tôi có góp ý với vài bạn đạo về việc tham dự lễ xin quy y Tam Bảo để trở thành một Phật tử cư sĩ. Nếu có cơ hội và thuận duyên, thì đăng ký tham dự một lễ chính thức như thế cũng tốt. Đó là một kỷ niệm đẹp, nhắc nhở mình là một Phật tử, phát tâm nguyện quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới. Nếu không thuận duyên, hoặc ở những nơi xa xôi không tiếp cận được các chùa, thì chỉ cần mình có lòng thành thật, với tâm trong sạch phát nguyện trong lòng là mình tìm về quy y ở Phật, Pháp, Tăng và nguyện giữ 5 học giới là đủ. Nếu trong nhà có bàn thờ Phật thì đến trước bàn thờ, lễ lạy rồi thành tâm nói lên 3 câu quy y và nguyện thọ trì 5 giới bằng tiếng Việt cũng được. Như thế, mình trở thành một Phật tử cư sĩ. Đơn giản thế thôi. Quan trọng là ở nơi tâm nguyện chân thành của mình.

– Bình Anson
Nollamara, Tây Úc
05/07/2025

*-----*




Tuesday, 29 April 2025

50 năm kết thúc chiến tranh: Hiểu về tính đa dạng của lịch sử và của nhau - Alex-Thái Đình Võ

 50 năm kết thúc chiến tranh:
Hiểu về tính đa dạng của lịch sử và của nhau

Alex-Thái Đình Võ
BBC News Tiếng Việt, 28/04/2025

Giới thiệu: Alex-Thái Đình Võ là nhà sử học chuyên về lịch sử Việt Nam hiện đại và người Việt hải ngoại. Hiện ông là phó giáo sư nghiên cứu tại Trung tâm và Lưu trữ Việt Nam, Đại học Texas Tech, nơi ông phụ trách các dự án về lịch sử Chiến tranh Việt Nam và cộng đồng người Việt sau 1975. Ông là tác giả và đồng biên tập những công trình nghiên cứu về chiến tranh, di cư, ký ức và quá trình hình thành cộng đồng người Việt tại Mỹ.

*

Năm thứ 50 lại lặp lại như năm thứ 49, 48, và như bao năm trước — có khác chăng là trên một quy mô rộng lớn hơn, bất kể thuộc về phe nào trong cuộc chiến huynh đệ năm xưa. Và sự lặp lại ấy vẫn sẽ tiếp diễn trong những năm tới, khi chúng ta ngày càng chìm sâu hơn vào vũng lầy lịch sử do chính mình tạo ra — một thứ lịch sử được tạo dựng bằng những khuôn mẫu trắng- đen cứng nhắc, bị nhào nặn bởi những ý thức hệ và nỗi bất an đầy nghi kỵ, thiếu vắng tính trung thực và sự đa chiều cần thiết để có thể hiểu một cách trọn vẹn các sắc thái và tính phức tạp vô tận của quá khứ.

Năm mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, bất kể có bao nhiêu lễ hội chiến thắng hay bao nhiêu nghi lễ tưởng niệm, nếu chúng ta không thể hòa giải được với chính lịch sử của mình, thì chúng ta cũng khó lòng hòa giải được với nhau.

Vậy thì, sau nửa thế kỷ, điều quan trọng nhất chúng ta cần tự hỏi không chỉ là chiến tranh đã kết thúc ra sao, mà còn là: chúng ta đã, đang và sẽ hiểu và tiếp nhận lịch sử Việt Nam, lịch sử Chiến tranh Việt Nam, và chính thân phận con người Việt Nam như thế nào?

Nhìn từ trong: một lịch sử bị lược giản

Từ lâu, lịch sử đã được định hình như một đặc quyền xa xỉ — một câu chuyện được soạn dựng bởi những kẻ chiến thắng và những người nắm quyền lực. Tại Việt Nam, kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi đất nước được thống nhất về mặt địa lý và chính trị, lịch sử cũng bị định hình lại dưới một trật tự duy nhất — một trật tự chịu sự kiểm soát của đảng và nhà nước cộng sản. Kể từ đó, lịch sử chính thống đã nghiêng hẳn về việc phản ánh và bảo vệ quan điểm, lợi ích và tính chính danh của chính thể ấy, hơn là thể hiện tính đa diện, đa chiều vốn có của lịch sử dân tộc. Giới viết sử — từ các nhà nghiên cứu, biên khảo hàng đầu cho đến những người làm sử ở cấp cơ sở — từ lâu đã bị kìm hãm trong khuôn khổ định sẵn, buộc họ phải tự giới hạn mình, không thể lên tiếng một cách trung thực và đầy đủ về những điều cần được nói.

Kết quả là, toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam đã bị giản lược một cách cực đoan — đóng khung trong một hệ thống kể chuyện mang tính huyền thoại về những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Trong hệ hình ấy, cuộc chiến tranh Việt Nam đã bị tái định nghĩa hoàn toàn thành một cuộc kháng chiến chống ngoại xâm — một cuộc "chống Mỹ cứu nước" — dù rằng phần lớn những người trực tiếp tham gia hay bị ảnh hưởng, từ giới lãnh đạo đến binh lính và thường dân, đều là người Việt và mang cùng một dòng máu.

Chính lối kể đó khiến lịch sử bị sử dụng như một thứ công cụ chính trị để cai trị, thay vì là một không gian đối thoại trung thực với quá khứ và con người. Nó làm lu mờ những sắc thái, những mâu thuẫn nội tại, và cả những khát vọng bất đồng trong lòng một dân tộc từng và vẫn tiếp tục bị chia cắt.

Vì thế, những sự kiện và hiện thực lịch sử — từ triều đại Gia Long, cuộc Cải cách ruộng đất, đến phong trào Nhân văn Giai phẩm — đều bị bóp méo hoặc xuyên tạc nhằm phục vụ một hệ tư tưởng đơn tuyến. Những bậc tiền nhân có công với đất nước như Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nhất Linh bị làm lu mờ, gạt khỏi chính sử, nhường chỗ cho những nhân vật được tô vẽ hoặc huyền thoại hóa như Võ Thị Sáu hay Lê Văn Tám — những biểu tượng cách mạng được kỳ công nhào nặn nhiều hơn là được ghi chép trung thực.

Chính thể Việt Nam Cộng hòa cùng với hàng triệu con người từng là công dân dưới thể chế đó bị gán cho cái tên "ngụy quân, ngụy quyền" — như một tội danh chính trị phản dân tộc, phản tổ quốc. Lá cờ vàng ba sọc đỏ — từng là biểu tượng của một quốc gia, một nền cộng hòa, một giai đoạn lịch sử — bị tuyên truyền như một hình ảnh cần phải ruồng bỏ, xóa sạch, bất chấp chiều sâu và sự phức tạp của nó trong ký ức tập thể.

Các sản phẩm văn hóa — từ âm nhạc đến văn chương miền Nam — bị định danh là "đồi trụy," "phản cách mạng," và bị cấm đoán, thiêu hủy. Những câu chuyện về tù cải tạo, về các cuộc vượt biên, vượt biển của hàng triệu người, và cả lịch sử của cộng đồng người Việt hải ngoại — tất cả bị làm lu mờ, tái định nghĩa, hoặc bị đẩy ra bên lề dòng chính sử Việt Nam.

Đó không chỉ là sự lãng quên có chủ đích — mà là một nỗ lực có hệ thống nhằm tái cấu trúc ký ức, áp đặt một bản tường thuật duy nhất và xóa nhòa mọi vết tích của một lịch sử phức hợp và đa chiều. Và chính sự giản lược này khiến chúng ta, nhiều thập niên sau khi chiến tranh kết thúc, vẫn tiếp tục lặp lại những khuôn mẫu cũ — ca tụng, kỳ thị, hoặc im lặng — thay vì đối diện với sự phức tạp và nhân tính trong lịch sử của chính mình.

Nhìn từ ngoài: lịch sử bị giản lược, ký ức bị thao túng 

Nếu lịch sử ở Việt Nam là lịch sử của người chiến thắng, thì ở phương Tây — đặc biệt là Hoa Kỳ — lịch sử lại là sản phẩm của những người nắm giữ quyền lực, được viết bằng Anh ngữ để phục vụ cho những nhu cầu và khủng hoảng nội tại của nước Mỹ hơn là để hiểu cho đúng về Việt Nam. Giới học giả Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm đến Việt Nam từ thập niên 1950 và nhiều hơn nữa khi Mỹ can thiệp trực tiếp vào chiến tranh vào giữa thập niên 1960. Trong bối cảnh một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, cộng hưởng với Chiến tranh Lạnh và sự hiện diện ngày càng sâu rộng của người Mỹ tại Việt Nam, những công trình nghiên cứu ban đầu chủ yếu nhằm lý giải Việt Nam cho người Mỹ — một công chúng vốn ít biết đến đất nước này và thường chẳng hình dung nổi Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ.

Khi chiến tranh leo thang và phong trào phản chiến bùng nổ, thế hệ học giả Mỹ đầu tiên nghiên cứu về Việt Nam, tiêu biểu như George Kahin, bắt đầu thể hiện rõ thiên hướng chính trị và cảm xúc cá nhân, phần nhiều chịu ảnh hưởng từ thực tại xã hội ở Hoa Kỳ hơn là thực tại tại Việt Nam. Họ tập trung nghiên cứu phong trào cộng sản Việt Nam như là lực lượng duy nhất mang sức mạnh, tính chính danh và khả năng thắng cuộc, từ đó vô tình (hoặc cố ý) loại bỏ các chủ thể khác khỏi dòng chính sử.

Dù với mong muốn tiếp cận cuộc chiến Việt Nam từ góc nhìn "người Việt," cách tiếp cận này lại mang tính chọn lọc rất cao, dẫn đến sự giản lược và lệch lạc trong việc nhìn nhận bản chất đa chiều, phức tạp và đầy mâu thuẫn của cuộc chiến. David Marr là ví dụ tiêu biểu: thay vì bàn trực diện về vai trò của các nhà dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản, ông lại hòa trộn — hay làm lu mờ — chủ nghĩa dân tộc trong một tiến trình mang tính tất định luận lịch sử, nơi mà các trí thức–cán bộ Marxist–Leninist trở thành trung tâm của câu chuyện cách mạng.

Với định hướng như vậy, phần lớn các học giả thời kỳ đó — vốn không biết tiếng Việt — chủ yếu dựa vào tư liệu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và đặc biệt là các ấn phẩm tuyên truyền của chính quyền Hà Nội, điển hình là các xuất bản của Nhà xuất bản Ngoại văn (The Foreign Languages Publishing House). Đây là cơ quan xuất bản do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập và điều hành, với mục đích đưa tiếng nói của chính phủ cộng sản ra quốc tế, phản bác diễn ngôn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, và xây dựng hình ảnh miền Bắc như một chính thể chính danh và có đạo lý. Những tác phẩm như Ho Chi Minh: Selected Writings (1920–1969) hay Trường Chinh: Selected Writings là những ví dụ tiêu biểu được biên soạn cẩn thận để phục vụ giới trí thức cánh tả và phong trào phản chiến quốc tế.

Sau chiến tranh, giới học giả Hoa Kỳ tiếp tục đặt trọng tâm nghiên cứu vào câu hỏi mang tính nội tâm: "Tại sao Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam?" Câu trả lời thường rơi vào hai hướng: hoặc là vì các quyết định sai lầm của chính quyền Mỹ, hoặc vì cộng sản Việt Nam quá kiên cường và giỏi tổ chức. Để trả lời, họ lại tiếp tục quay về với các tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp, hoặc tiếp cận trực tiếp kho lưu trữ nhà nước ở Hà Nội như Thư viện Quốc gia và Trung tâm Lưu trữ III — nơi chủ yếu chứa các văn kiện chính thống của đảng và nhà nước cộng sản.

Dù khai thác được nhiều dữ liệu, phần lớn các công trình này vẫn dựa trên một giả định có tính "minh định" rằng chiến thắng của cộng sản là tất yếu, là sự tiếp nối của truyền thống chống ngoại xâm hàng ngàn năm. Họ quên rằng, ngoài những người Việt thắng cuộc, còn có hàng triệu người Việt thua cuộc — và không vì thua cuộc mà họ thiếu chính danh, ý chí hay lòng yêu nước.

Chính sự thiên lệch đó đã khiến lịch sử chiến tranh Việt Nam, dù ở Hà Nội hay Washington, trở thành một câu chuyện trắng–đen, chính–tà. Những nhân vật được khắc họa đậm nét vẫn là Kennedy, Johnson, Nixon, Kissinger ở phía Mỹ; Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ở phía cộng sản. Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, nếu có nhắc đến, thì cũng chỉ như những nhân vật phụ bị biếm họa, mang dáng dấp bù nhìn hoặc thất bại.

Trong nỗ lực lý giải sự thất bại của Hoa Kỳ, giới học giả Mỹ vô tình (hoặc hữu ý) đã áp đặt lên đồng minh của họ — Việt Nam Cộng hòa — những nhãn mô tả như "puppet" (bù nhìn), "corrupt" (tham nhũng), "illegitimate" (không chính danh), từ đó xây dựng một lập luận rằng: lẽ ra Mỹ không nên can dự vào Việt Nam, hoặc nếu có, thì đã chọn nhầm phía.

Với nhãn quan đó, trọng tâm nghiên cứu được đặt vào các quyết sách chính trị và quân sự. Vì vậy, thảm sát Mỹ Lai được phân tích cặn kẽ trong sách sử và truyền thông dòng chính, nhưng thảm sát ở Huế thì bị bỏ quên. Những phong trào phản chiến và chống đàn áp ở miền Nam được phơi bày, nhưng đàn áp ở miền Bắc thì bị lờ đi. Từ đó, tất cả những khía cạnh không phù hợp với một tường thuật nhị nguyên đều bị xem là thứ yếu và bị gạt ra bên lề.

Quan điểm lịch sử ấy dần thấm sàn các ngành nghiên cứu khác, từ nhân học đến khoa học chính trị, và cả nghiên cứu Người Mỹ gốc Á. Lịch sử Việt Nam trở thành công cụ để hiểu về Hoa Kỳ — để phản tư, để phê phán chính sách, để chữa lành vết thương của người Mỹ, và để hòa giải với Việt Nam — thay vì là một nỗ lực để hiểu về chính người Việt Nam. Việt Nam trở thành một đối tượng nghiên cứu nhằm hiểu và phê phán nước Mỹ và những thất bại của nó.

Chỉ trong khoảng 15–20 năm gần đây, một thế hệ học giả mới — nhiều người trong số đó là người Việt ở hải ngoại cũng như trong nước, biết tiếng Việt, hiểu văn hóa Việt — mới bắt đầu tìm mò, viết lại, ráp lại những mảnh lịch sử bị từ chối. Kết quả là những nghiên cứu sâu sắc hơn về Điện Biên Phủ, về Ngô Đình Diệm, về chủ nghĩa cộng sản, về chủ nghĩa cộng hòa, về Việt Nam Cộng hòa, về người Việt hải ngoại, cũng như những phức tạp chính trị–xã hội của miền Bắc như phong trào Nhân văn Giai phẩm, Cải cách ruộng đất, các cuộc thanh trừng nội bộ, Tết Mậu Thân, Hòa đàm Paris và Chiến dịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu phá vỡ thế độc thoại của lịch sử.

Lịch sử không chỉ là chiến tranh và ký ức chiến tranh

Lịch sử Việt Nam – lịch sử của con người Việt Nam – và cụ thể là lịch sử cuộc Chiến tranh Việt Nam, không thể và không nên bị gói gọn trong kết cục thắng hay thua. Để có cái nhìn đầy đủ và trung thực hơn, chúng ta cần mở rộng khái niệm lịch sử thông qua những nỗ lực nghiên cứu sâu rộng, nhằm phản ánh chính xác hơn tính đa dạng, đa chiều và phức tạp của xã hội và con người. Trách nhiệm ấy không chỉ thuộc về những người viết sử, mà còn thuộc về từng công dân có ý thức, những người biết đặt câu hỏi: Vì sao lịch sử được kể như vậy? Vì sao có những yếu tố, nhân vật được nhắc đến trong khi những yếu tố và con người khác bị loại bỏ khỏi dòng chính?

Khi nhận thức được điều đó, ta sẽ hiểu rằng lịch sử Việt Nam không thể chỉ là lịch sử của một hay nhiều cuộc chiến, không chỉ là sự đối đầu trắng-đen giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong đó, sự hiện diện của người Mỹ, người Hàn, người Úc… phải được đặt song song với sự hiện diện của chuyên gia, cố vấn, và quân nhân Trung Quốc hay Liên Xô. Rằng giới lãnh đạo – dù thuộc bên nào – không chỉ là những biểu tượng của quyền lực mà còn là những con người với đầy đủ yêu thương, giằng xé, và cả tầm nhìn riêng dành cho đất nước. Rằng những người lính – dù là lính Mỹ, bộ đội miền Bắc hay quân lực Việt Nam Cộng hòa – đều mang trên mình những nỗi niềm, nỗi sợ, nỗi nhớ, và khát khao được sống, được trở về.

Ta cũng phải nhìn nhận rằng trong chiến tranh, không chỉ có đạn bom và chiến trường, mà còn có cả một đời sống xã hội hiện thực – nơi một học sinh đang tuổi mộng mơ hôm nay, ngày mai có thể trở thành một trong hàng ngàn thi thể lạnh lẽo trên chiến trường. Rằng trong lòng những xã hội ấy, từ Bắc đến Nam, tồn tại những tiếng nói riêng biệt thể hiện qua thơ văn, phim ảnh, âm nhạc và hoạt động xã hội dân sự. Qua đó, chúng ta thấy được những tương đồng, dị biệt – thấy được rằng tự do ngôn luận vốn đã là một điều kiện mong manh ngay từ thời Nhân văn Giai phẩm, và rằng nếu không có một giai đoạn Việt Nam Cộng hòa, dù chỉ tồn tại 20 năm, thì có lẽ đã không có một Trịnh Công Sơn với những bản tình ca hay ca khúc da vàng, hay một Văn Cao được nhớ đến dù là tác giả quốc ca ngày nay.

Những lịch sử đó không thể bị nhốt trong một thời điểm hay kết thúc tại mốc 30/4 như một dấu chấm hết. Chúng ta cần nhận diện sự tiếp diễn của chúng – từ những hệ lụy của chiến tranh, chính sách khắc nghiệt với đồng loại, đến những nỗ lực hòa giải với kẻ từng là thù địch; từ thân phận trong trại cải tạo đến trại tị nạn, hay những mảnh đời chìm sâu dưới đáy đại dương.

Lịch sử chiến tranh phải là lịch sử của những con người còn lại và đã ra đi – những người bị ruồng bỏ ngay trên đất mẹ, nhưng vẫn đang tự tái tạo mình trên xứ người. Nó phải ghi nhận sự tồn tại của hàng triệu người Việt ở hải ngoại – không chỉ ở Mỹ, Canada, Pháp hay Úc, mà còn cả ở Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, Nga và Đông Âu – những nơi họ phải vật lộn để tồn tại, đối diện với xung đột thế hệ và nỗ lực khẳng định sự hiện diện và ký ức của mình.

Năm mươi năm sau chiến tranh là thời gian đủ dài để chúng ta nhìn lại và khôi phục sự công bằng cho lịch sử. Không phải để thay thế một hệ tư tưởng này bằng hệ tư tưởng khác, mà để phục hồi sự phong phú và trung thực cần thiết cho việc hiểu đúng một quá khứ từng bị từ chối – từ những sự kiện, nhân vật, biểu tượng, đến ký ức cá nhân và tập thể.

Muốn hòa giải với nhau, trước tiên chúng ta phải hòa giải với chính lịch sử – bằng cách can đảm đối diện với nó, nhận diện sự hiện diện của nhau trong lịch sử, trong hiện tại, và cả tương lai. Bởi nếu không thể thừa nhận sự tồn tại của nhau, thì chúng ta lấy gì để bắt đầu một cuộc hòa giải đúng nghĩa? Và nếu chúng ta không thể mở lòng để làm được điều đó, có lẽ chúng ta sẽ mãi giậm chân trong sự lão hóa của năm tháng, chứ không bao giờ đủ trưởng thành để hiên ngang đứng trên nền tảng của lịch sử mà bước tới tương lai.

- Alex-Thái Đình Võ
Texas, Hoa Kỳ 

* Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c62x6v9z9eqo

*



Friday, 18 April 2025

Sài Gòn giải phóng tôi - Nguyễn Quang Lập

 SÀI GÒN GIẢI PHÓNG TÔI 
Nguyễn Quang Lập

Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.

Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời diệu kì.

Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.

Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có. 

Thằng Minh khoe cái cassette ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassette là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassette của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casette, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca 7. Kết thúc Sơn ca 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi! 

Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gòn. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.

Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.

Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.

Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.

Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt. 

Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.

Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác - Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác - Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác - Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn. 

Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.

– Nguyễn Quang Lập  

* Nguồn: Kho văn Bọ Lập, 14/12/2017
 https://khovanbolap.blogspot.com/2017/12/sai-gon-giai-phong-toi.html

*




Sunday, 12 January 2025

Phạm Duy và dư luận (Nguyễn Bích Liên, 2002)

PHẠM DUY VÀ DƯ LUẬN  
Bs Nguyễn Bich Liên 

Giới thiệu: Bác sĩ Nguyễn Bích Liên là một bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng về bệnh ung thư vú ở California, và cũng là một ca sĩ thành viên của ban Hợp xướng Ngàn Khơi. Bà có bài viết sau đây vào năm 2002, trong đó có những ý tưởng mà tôi rất đồng tình. – (Bình Anson, tháng 1-2025)

*

Tôi không thích ngôi lê đôi mách, và cũng không để ý đến chuyện đời tư của người khác. Phải nghe những chuyện thầm kín của bệnh nhân hàng ngày, nên không có "xì căng đan" gì là đáng kể nữa. Gần đây, khi cùng Hội Ung Thư Việt Mỹ tổ chức chương trình "Phạm Duy, Một Đời Nhìn Lại", tôi bị lôi kéo vào dư luận về nhạc sĩ Phạm Duy. Trước kia, chỉ có bệnh nhân gọi hỏi bệnh, bây giờ nào fax, nào e-mail về Phạm Duy gửi đến tới tấp. Định làm lơ, nhưng không được. Vì bây giờ bị kéo vào vòng nên tôi cần lên tiếng.

Bao nhiêu lời chê trách: nào là Phạm Duy thiếu đạo đức, tình ái lăng nhăng, nhạc tục, tham tiền, theo Cộng sản, lại vô tài vì đã 30 năm nay, ông không cứu nổi nền âm nhạc Việt đang giậm chân tại chỗ. Họ bảo ông già rồi, viết nhạc hết hay mà còn huênh hoang. Chính tôi và những người trong ban tổ chức cũng bị mắng là dựa hơi ông Phạm Duy để nổi tiếng.

Tôi suy nghĩ nhiều về những lời chỉ trích rất nặng lời đó. Dư luận có cái lý riêng. Phạm Duy có lăng nhăng, ông không dấu giếm là có bồ bịch (tuy chưa ai nhận là con rơi của ông). Nói theo tiêu chuẩn các vị thánh thì ông đúng là vô đạo đức. Ông chắc tham tiền, cũng như tôi vậy. Nếu phải chữa bệnh miễn phí cho tất cả mọi người để được ca tụng là "lương y như từ mẫu", mà không có tiền nuôi thân và gia đình, tôi sẽ không nhận danh hiệu này. Việc Phạm Duy dám về thăm Việt Nam và nói chuyện với những người có chức quyền (theo những e-mail tố cáo mà tôi nhận được). Trong cương vị của Phạm Duy, tôi cũng muốn có dịp về Việt Nam, và được nói chuyện với những kẻ ấy, may ra có giúp họ mở mang thêm kiến thức và thay đổi đường lối chăng? (Thế nào tôi cũng sẽ bị mắng là ngu quá, bị cộng sản nó lừa mà không biết. Nhưng cũng đành chịu thôi, vì hình như có nhiều người cũng ngu như tôi vậy). Ông lại thật không biết điều, già rồi thì đi chỗ khác chơi cho người khác có chỗ mà lên chứ, hơn 80 tuổi mà còn tối ngày soạn sách, thu thập tài liệu, viết lách, làm nhạc. Ông làm hết như vậy thì còn ai có cơ hội làm nữa, thật là ham danh.

Dư luận đòi hỏi quá nhiều ở nhạc sĩ Phạm Duy. Lúc nào sáng tác của ông cũng phải hay, không được dở. Một ngàn bài mà có năm mươi bài dở là công trình vất đi, thà không sáng tác được bài nào như tôi đây còn hay hơn (!). Ông phải là một nhà đạo đức, hay đạo đức giả cũng được. Ông phải uống nước lã mà sống, phải tránh xa những quan hệ nam nữ không chính đáng, nghĩa là ông phải là một ông thánh. Ông gặp ai cũng phải chắp tay nhún mình để được tiếng khiêm nhường. Ông phải tránh xa bọn cộng sản vì coi chừng sẽ bị lây cộng sản, dù ngày xưa ông đã từng chạy trốn cộng sản trong thời kháng chiến, và vẫn bị chế độ cộng sản coi như kẻ phản động vì những bản nhạc ca tụng tình người của ông. Ông đừng có tự do tư tưởng, mà phải theo sự lãnh đạo của những vị thánh hay to tiếng trong cộng đồng. Và nhất là ông đừng làm gì nữa. Người Việt chúng ta hay kính trọng người lớn tuổi và có công, nhưng chỉ thích những người làm ra vẻ khiêm nhường. Ai tự tin và năng động thì bị mắng là huênh hoang!

Phạm Duy chỉ là con người thôi! Ông có đủ thói hư tật xấu, và cả cái hay cái đẹp của một con người. Chỉ khác là Thượng Đế cho ông quá nhiều. Đó là số mệnh cuả thiên tài. Nhiều tài và nhiều "tật xấu" nên ông thông cảm con người, nhìn ra và diễn tả tuyệt vời những nét đẹp, nhưng không tránh né cái xấu xa của nhân loại. Vì thế, khi nghe hay hát nhạc Phạm Duy, chúng ta rung động và gần gũi một cách đặc biệt. Một vị thánh làm nhạc, sẽ không cho tôi những rung cảm thành thực như vậy.

Nhạc ông không phải bài nào cũng hay. Tôi không thích nhiều bài. Nhưng nói không ngoa cả đời tôi được nuôi bằng nhạc Phạm Duy. Từ những bài ru con à ơi nghe mẹ hát "từ khi mới ra đời"; đến những bài nhạc tuổi thơ hát lúc "một trời nam tròn trăng thu, em bé ra ngồi xem chú Cuội đâu"; rồi tuổi dậy thì mơ mộng "Em ước mơ mơ gì tuổi mười hai, tuổi mười ba", đến tình yêu lãng mạn chỉ dám " bỏ quên cây đàn" hay "uống ly chanh đường uống môi em ngọt"; rồi say đắm những dục tình bốc lửa của "Cỏ Hồng", cuả "Nha Trang Ngày Về"; rồi "Tôi yêu tiếng nước tôi, à à ơi tiếng ru muôn đời", những bước chân trên "Con Đường Cái Quan", những huyền thoại "Mẹ Việt Nam" cho tình yêu quê hương dân tộc; rồi hào khí ngất trời của thanh niên kháng chiến chống ngoại xâm với "Ngày bao hùng binh tiến lên, bờ cõi vang lừng câu quyết chiến"; qua đến những dằn vặt suy tư tâm linh của tuổi trung niên "Chiều xuống trên giòng sông Cửu Long, như một cơn ước mong, ơi chiều", đến những triết lý về Đạo, về Thiền, về Cái Chết và Sự Sống, về cõi Vô Hạn..., của tuổi già, và nhiều nhiều nữa. Với nhạc Phạm Duy, chúng ta lữ hành qua cuộc đời với đủ ngọt bùi, cay đắng, tham sân si, thất tình lục dục, tuyệt vọng, hi vọng, thăng hoa, và giải thoát.

Dư luận có lý lẽ riêng. Nhưng nếu chúng ta khắt khe với Phạm Duy, sao không khe khắt hơn với chính mình: "Tôi đã làm được gì cho đời?"

Mỗi viên đá chúng ta định ném ra, hãy xem lại, kẻo ném phải chính mình. Hãy dịu lại đôi mắt nhìn và mở rộng tấm lòng để cám ơn những ai đang làm đẹp cuộc đời. Ta sẽ thấy đời còn đẹp lắm. 

– Bs Nguyễn Bích Liên 
California, Hoa Kỳ 

*----*






Friday, 3 January 2025

24 bệnh thường gặp ở người cao tuổi

 24 BỆNH THƯỜNG GẶP Ở NGƯỜI CAO TUỔI 
Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh
tamanhhospital.vn/benh-thuong-gap-o-nguoi-cao-tuoi/  

*

Tìm hiểu thông tin về các bệnh thường gặp ở người cao tuổi, cách phòng ngừa bệnh người già hay gặp có thể giúp chủ động phòng tránh bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi tốt hơn.

Những bệnh thường gặp ở người cao tuổi có thể khiến người bệnh giảm chất lượng cuộc sống, sức khỏe suy yếu nhanh, thậm chí giảm tuổi thọ. Mỗi người cần tìm hiểu nguyên nhân cũng như cách phòng ngừa các bệnh lý thường gặp ở người cao tuổi từ sớm để có những điều chỉnh, can thiệp phù hợp.

VÌ SAO NGƯỜI CAO TUỔI THƯỜNG DỄ MẮC BỆNH?

Khi già đi, cơ thể bắt đầu lão hoá, trở nên kém hiệu quả hơn trong việc điều chỉnh nhiệt độ, chống lại nhiễm trùng và các bệnh lý khác. Lúc này, người cao tuổi dễ bị chấn thương, tai nạn, mắc bệnh hơn so với những người trẻ tuổi. 

Cụ thể, khi càng lớn tuổi thì các mảng mỡ tích tụ trong động mạch ngày càng nhiều, làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch. Lão hóa khiến cơ thể của người trung niên và người cao tuổi mất đi lượng canxi cùng các khoáng chất khác. Sự suy giảm mật độ xương tăng nhanh do lão hoá khiến xương trở nên mỏng và yếu hơn.  

Người cao tuổi còn dễ mắc bệnh hơn do lão hoá làm cho các tế bào dễ bị tổn thương hơn, quá trình phục hồi chậm hơn, sức đề kháng suy giảm. Những bệnh lý thường gặp ở người cao tuổi cũng có nhiều khả năng phát triển hơn do người cao tuổi dễ mệt mỏi, ít vận động tập thể dục, ngồi hoặc nằm nhiều … 

CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP Ở NGƯỜI CAO TUỔI

Một số bệnh thường gặp ở người cao tuổi có thể kể đến như:

1. Tiểu đường (đái tháo đường) - Diabetes

Bệnh tiểu đường là một căn bệnh mạn tính ở người lớn tuổi, ảnh hưởng đến khoảng 33% số người từ 65 tuổi trở lên. Tình trạng này xảy ra khi cơ thể không sản xuất đủ insulin hoặc không thể sử dụng insulin đúng cách, hoặc kết hợp cả hai vấn đề trên. Khi cơ thể gặp vấn đề với insulin, cơ thể có lượng glucose trong máu tăng cao (tăng đường huyết), điều này diễn ra trong thời gian dài gây tàn phá sức khỏe. (1)

Các triệu chứng bệnh tiểu đường ở người lớn tuổi có thể diễn ra từ nhẹ đến nặng, bao gồm khát nước và đi tiểu nhiều, mờ mắt, mệt mỏi, chóng mặt, ngất xỉu… Không phải người lớn tuổi nào bị tiểu đường cũng có toàn bộ các triệu chứng này. Tùy theo từng mức độ nghiêm trọng của bệnh mà người bệnh có thể gặp một hoặc nhiều triệu chứng cùng lúc. Các yếu tố quan trọng dẫn đến bệnh tiểu đường là do sự thiếu hụt bài tiết insulin phát triển theo tuổi tác, tình trạng kháng insulin ngày càng tăng do thay đổi thành phần cơ thể và thiểu cơ. (2)

2. Suy giảm trí nhớ (Bệnh Alzheimer) - Alzheimer's disease and dementia

Bệnh Alzheimer là một căn bệnh thường gặp ở người cao tuổi gây sa sút trí tuệ và bệnh diễn ra ngày càng nghiêm trọng hơn khi người bệnh ngày càng lớn tuổi. Ở giai đoạn đầu, tình trạng mất trí nhớ xảy ra với mức độ nhẹ. Ở giai đoạn cuối, người bệnh thậm chí có thể bị mất khả năng giao tiếp và phản ứng với môi trường.

Tốc độ tiến triển của bệnh Alzheimer rất khác nhau. Trung bình, những người mắc bệnh Alzheimer sống được từ 3 đến 11 năm sau khi được chẩn đoán. Nhưng một số người bệnh vẫn có thể sống được 20 năm hoặc hơn. (3)

3. Suy giảm thính lực - Hearing loss

Suy giảm thính lực là tình trạng mất thính lực dần dần ở cả hai tai. Đây là một trong các bệnh thường gặp ở người cao tuổi liên quan đến vấn đề lão hoá. Các khảo sát cho thấy, ⅓ người cao tuổi trên 65 tuổi gặp vấn đề liên quan đến suy giảm thính lực. Tình trạng suy giảm này không diễn ra đột ngột mà thay đổi dần dần nên thậm chí một số người còn không nhận ra vấn đề sức khỏe của mình. (4)

Nguyên nhân phổ biến dẫn đến căn bệnh người già hay gặp này chính là do những thay đổi ở tai trong xảy ra khi già đi. Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến di truyền và thói quen khi còn trẻ (thường xuyên đeo tai nghe, nghe âm thanh quá lớn…) cũng làm tăng nguy cơ bị suy giảm thính lực khi về già.

4. Đục thủy tinh thể - Cataracts

Trong các bệnh thường gặp ở người già thì đục thuỷ tinh thể cũng là một căn bệnh phổ biến. Người bệnh có thể bị mờ một phần hoặc toàn bộ thuỷ tinh thể. Đây là căn bệnh không thể phục hồi và diễn ra ngày càng nghiêm trọng, dẫn đến mất thị lực hoàn toàn. Khoảng 20% những người từ 65 tuổi trở lên bị đục thủy tinh thể. Khoảng một nửa số người từ 75 tuổi trở lên bị đục thủy tinh thể. (5)

5. Loãng xương - Osteoporosis

Người cao tuổi cũng có nguy cơ gặp các vấn đề về xương khớp do tình trạng suy giảm mật độ xương cũng như việc xương mất đi lượng canxi và khoáng chất cần thiết khiến xương mỏng manh hơn, yếu hơn. Người cao tuổi thường dễ bị loãng xương hơn.

Để củng cố sức khỏe xương khớp và giảm nguy cơ mắc bệnh loãng xương, người cao tuổi cần tập thể dục với cường độ phù hợp, tiêu thụ thực phẩm giàu canxi, vitamin D.

6. Viêm khớp - Arthritis

Một căn bệnh mạn tính ảnh hưởng đến nhiều người lớn tuổi là viêm khớp, gây đau khớp, cứng khớp và sưng tấy ở các khớp. Viêm khớp là một trong những phản ứng tự nhiên của cơ thể trước bệnh tật hoặc chấn thương, xuất hiện phổ biến, đặc biệt là khi già đi.

Mặc dù hiện tại không có cách chữa dứt điểm bệnh viêm xương khớp nhưng một số phương pháp điều trị có thể làm giảm bớt triệu chứng. Trong đó, tập thể dục là một phương pháp giúp làm giảm các triệu chứng của bệnh thường gặp ở người cao tuổi. Tập thể dục giúp bôi trơn các khớp và tăng cường cơ bắp xung quanh khớp.

7. Bệnh tim mạch - Ischemic heart disease (coronary heart disease)

Một trong các bệnh thường gặp ở người cao tuổi nguy hiểm và đe dọa đến tính mạng là những bệnh lý tim mạch như đau tim, đột quỵ, bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính … Tình trạng tích tụ mảng bám có thể làm tăng độ xơ cứng trong động mạch - một trong những thay đổi phổ biến mà người cao tuổi gặp phải. Mặc dù không thể kiểm soát những thay đổi liên quan đến tuổi tác nhưng người cao tuổi vẫn có thể áp dụng lối sống khoa học để làm giảm nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch, chẳng hạn như hạn chế ăn thức ăn nhiều dầu mỡ hoặc chất béo, tập thể dục mỗi ngày. 

8. Bệnh ung thư - Cancer

Ung thư có thể phát triển ở mọi lứa tuổi, nhưng tỷ lệ mắc bệnh ung thư tăng lên đáng kể ở “giai đoạn sau” của cuộc đời. Thống kê của GLOBOCAN 2022 thuộc WHO đưa ra thông tin, vào năm 2022, khoảng 53% số người mắc bệnh ung thư là từ 65 tuổi trở lên. Điều này cho thấy, có mối quan hệ mật thiết giữa căn bệnh ung thư và lão hóa.

Đặc biệt, tuổi tác cũng làm tăng thêm sự phức tạp khi sống chung với bệnh ung thư. Nhiều bệnh ung thư ở người lớn tuổi được chẩn đoán vào giai đoạn muộn, vì các triệu chứng ung thư sớm có thể bị nhầm lẫn với những tình trạng bệnh nhẹ liên quan đến tuổi già. Do đó, việc điều trị ung thư thường bắt đầu muộn, tăng sự phức tạp, tăng nguy cơ xảy ra các tác dụng phụ nghiêm trọng và làm giảm cơ hội điều trị thành công.

9. Viêm phổi - Lung infections

Khi bước vào giai đoạn trung niên và cao tuổi, ngoài những vấn đề liên quan đến thần kinh, tim mạch hay xương khớp… bạn có thể phải đối diện với nhiều bệnh lý hô hấp. Trong đó, viêm phổi là một trong những bệnh thường gặp ở người cao tuổi. Dấu hiệu bệnh viêm phổi ở người lớn tuổi là gì? Đó chính là ho có đờm và sốt. Ngoài ra, khi bị viêm phổi, người cao tuổi cũng có thể bị tiêu chảy hoặc lú lẫn nếu không được điều trị kịp thời khiến bệnh diễn tiến nặng.

10. Phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) - Chronic obstructive pulmonary disease

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là bệnh thường gặp ở người lớn tuổi có thói quen hút thuốc lá, thuốc lào thường xuyên.

Các triệu chứng chính của COPD bao gồm khó thở, đặc biệt là khi hoạt động, ho dai dẳng có đờm, thở khò khè dai dẳng… Nếu không điều trị, các triệu chứng thường diễn ra ngày càng nặng hơn. Vào những đợt bùng phát, bệnh có thể đe dọa đến tính mạng.

11. Viêm phế quản mạn tính - Chronic Bronchitis

Viêm phế quản có thể diễn ra ở dạng cấp tính hoặc mạn tính. Viêm phế quản cấp tính ở người cao tuổi thường khỏi sau khoảng 10 ngày. Viêm phế quản mạn tính ở người lớn tuổi diễn ra nghiêm trọng hơn vì người cao tuổi có thể có hệ thống miễn dịch suy yếu hoặc đang có các bệnh lý nền, các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn, cùng với tình trạng phổi bị lão hóa theo độ tuổi. Các triệu chứng viêm phế quản ở người cao tuổi thường bao gồm:

- Ho dai dẳng.
- Ho ra đờm màu vàng hoặc xanh hoặc ho ra máu.
- Cảm thấy khó thở hoặc thở nhanh và nông.
-Thở khò khè.
- Sốt.

12. Tăng huyết áp - Hypertension

Trong các bệnh người cao tuổi thường gặp thì tăng huyết áp là một vấn đề phổ biến. Mạng lưới mạch máu của cơ thể (hệ thống mạch máu) thay đổi theo tuổi tác. Động mạch trở nên cứng hơn, khiến huyết áp tăng cao. Điều này có thể đúng ngay cả với những người có thói quen tốt cho tim.

13. Trầm cảm - Depression

Trong 10 người lớn tuổi thì luôn có lớn hơn 1 người bị trầm cảm. Người cao tuổi có nguy cơ bị trầm cảm cao do nhiều yếu tố tác động. Trong đó, việc mắc các bệnh lý khác có thể gây trầm cảm trực tiếp và gián tiếp. Cụ thể, sức khỏe kém có thể thay đổi cách cơ thể hoạt động, gây trầm cảm. Các tình trạng bệnh lý cũng khiến người cao tuổi gặp khó khăn trong sinh hoạt, dễ gây bức bối và trầm cảm. Khi lớn tuổi, việc không được ở gần con cháu, không thuận tiện để gặp gỡ bạn bè, thiếu sự tiếp xúc với xã hội, cảm giác bản thân vô dụng, đang làm phiền con cháu… khiến người cao tuổi dễ bị trầm cảm hơn. (6)

14. Mỡ máu cao - High cholesterol

Mỡ máu cao (tình trạng cholesterol cao) là một vấn đề thường gặp ở những người trung niên và cao tuổi. Nếu không điều trị kịp thời, mỡ máu cao dẫn đến xơ cứng động mạch cũng như các mảng bám tích tụ có thể gây tắc nghẽn mạch máu, từ đó dẫn đến đột quỵ.

15. Bệnh thận mạn tính - Chronic kidney disease (CKD)

Người cao tuổi thường mắc những bệnh lý nào? Bệnh thận mạn tính cũng nằm trong nhóm bệnh thường gặp ở người cao tuổi. Những người mắc bệnh thận mạn tính có nguy cơ bị đau tim cao gấp hai đến ba lần và bệnh tim mạch vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho những người chạy thận nhân tạo, người được ghép thận.

16. Cúm - Flu, Influenza

Người lớn tuổi có nguy cơ mắc bệnh cúm nghiêm trọng hơn và các biến chứng liên quan đến cúm cũng diễn ra nghiêm trọng hơn đối với nhóm đối tượng này. Cúm làm tăng nguy cơ đau tim lên 3 - 5 lần và tăng nguy cơ đột quỵ lên 2 - 3 lần trong 2 tuần đầu nhiễm bệnh đối với những người trên 65 tuổi. (7)

17. Đột quỵ - Stroke

Khi bạn càng lớn tuổi thì nguy cơ đột quỵ càng cao do mạch máu mỏng và yếu đi, làm tăng nguy cơ vỡ mạch máu dẫn đến xuất huyết não. Các mảng bám tích tụ trong mạch máu gây xơ vữa mạch cũng là một yếu tố làm tăng nguy cơ đột quỵ ở người cao tuổi do tắc nghẽn mạch máu não. Các bệnh mạn tính như đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu không được kiểm soát tốt là yếu tố nguy cơ gây bệnh đột quỵ ở người già.

Các yếu tố về lối sống từ khi còn trẻ như ít vận động, uống nhiều rượu bia, ăn những loại thực phẩm nhiều dầu mỡ hay thường xuyên căng thẳng, ngủ không đủ giấc… đều làm tăng nguy cơ đột quỵ khi về già.

Người cao tuổi có thể bị đột quỵ tái phát nhiều lần nếu không tầm soát sức khỏe định kỳ và điều trị các bệnh lý làm tăng nguy cơ đột quỵ. Đột quỵ có thể để lại những biến chứng nặng nề, khiến người cao tuổi bị rối loạn ngôn ngữ, mất khả năng vận động, sống đời sống thực vật… hay thậm chí tử vong. Đột quỵ còn làm tăng gánh nặng về mặt tài chính, tâm lý cho người bệnh, gia đình và xã hội.

18. Nhiễm trùng đường tiểu - Urinary tract infection (UTI)

Nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) là một bệnh nhiễm trùng thường gặp ở người cao tuổi, chủ yếu do các yếu tố nguy cơ liên quan đến tuổi tác như suy dinh dưỡng, đái tháo đường không được kiểm soát tốt, kiểm soát bàng quang kém dẫn đến bí tiểu hoặc tiểu không tự chủ, táo bón, nằm viện dài ngày, teo âm đạo, phì đại tuyến tiền liệt… Các triệu chứng ở người cao tuổi bị nhiễm trùng đường tiểu bao gồm: nóng rát khi đi tiểu, đi tiểu thường xuyên hoặc cần đi tiểu gấp, cảm giác bàng quang không hoàn toàn trống, đau bụng dưới hoặc vùng chậu, sốt, ớn lạnh, mệt mỏi khó chịu…

19. Rối loạn tiêu hóa - Gastrointestinal disorders

Nói đến các bệnh thường gặp ở người cao tuổi thì không thể không nói đến rối loạn tiêu hóa. Trong đó, trào ngược axit dạ dày, táo bón, hội chứng ruột kích thích, xuất huyết tiêu hóa… là những vấn đề thường gặp. Những thay đổi quan trọng về mặt lâm sàng trong chức năng đường tiêu hóa khi già đi bao gồm giảm ngưỡng vị giác, giảm acid clohydric do viêm dạ dày teo. Đây là những yếu tố tác động làm tăng nguy cơ bị rối loạn tiêu hóa ở người cao tuổi.

20. Bệnh Zona - Shingles, Herpes zoster

Đối với người lớn tuổi, bệnh zona gây ra những vấn đề nguy hiểm đặc biệt, tăng nguy cơ dẫn đến đau sau zona và biến chứng thần kinh của bệnh zona. Các triệu chứng điển hình ở người mắc bệnh zona bao gồm: có cảm giác nóng rát hoặc ngứa ran trên da tại một bộ phận của cơ thể, phát ban, ngứa da, có mụn nước, sốt, buồn nôn…

21. Bệnh Parkinson - Parkinson's disease

Khi đề cập đến các bệnh thường gặp ở người cao tuổi thì không thể không kể đến bệnh Parkinson. Tại Mỹ, bệnh Parkinson ảnh hưởng đến khoảng hai triệu người. Phần lớn số người bệnh đều từ 60 tuổi trở lên. Tuổi thọ trung bình của người cao tuổi mắc bệnh Parkinson là bao nhiêu? Trung bình, một người mắc bệnh Parkinson có thể sống đến hơn 80 tuổi. Tuy nhiên, bệnh gây ra những bất tiện trong cuộc sống, ảnh hưởng đến trí não và chức năng vận động, tâm lý của người bệnh khiến quãng đời sau này của người cao tuổi không còn được thoải mái.

22. Bệnh hen suyễn - Asthma

Một số người lớn tuổi mắc bệnh hen suyễn đã mắc bệnh này từ khi còn nhỏ. Những người khác bị hen suyễn khi trưởng thành.

Các dấu hiệu và triệu chứng hen suyễn ở người lớn tuổi cũng giống như những triệu chứng hen suyễn gặp ở các nhóm tuổi khác. Các dấu hiệu của bệnh hen suyễn ở người lớn tuổi bao gồm: thở hụt hơi, ho, tức ngực, đau ngực, thở khò khè… Bệnh này còn dễ khiến người bệnh thức giấc vào ban đêm và gây mất ngủ, khó ngủ.

23. Béo phì - Obesity

Tỷ lệ béo phì ở người già đang gia tăng và hiện là mối đe dọa toàn cầu lớn ở cả các nước phát triển, đang phát triển. Người cao tuổi ít vận động hơn, ăn nhiều thực phẩm bổ dưỡng với hàm lượng chất béo cao hơn nên nguy cơ béo phì cũng gia tăng. Béo phì là một yếu tố nguy cơ dẫn đến các bệnh lý tim mạch, thần kinh và đột quỵ, có thể dẫn đến tử vong.

24. Bệnh da liễu - Skin diseases

Người cao tuổi cũng có nguy cơ đối mặt với những vấn đề liên quan đến sức khỏe làn da. Khi già đi, các tế bào da cũng dễ bị tổn thương, rách và nhiễm trùng hơn, dẫn đến các vết lở loét trên da. Các tế bào lúc này cũng chậm lành hơn. Người cao tuổi có thể dễ bị nhiễm trùng và loét do tỳ đè.

YẾU TỐ NGUY CƠ KHIẾN NGƯỜI GIÀ DỄ MẮC BỆNH

Ngoài yếu tố lão hóa làm cho các tế bào cơ thể bị suy yếu và dễ tổn thương, hệ miễn dịch suy giảm thì người ở tuổi trung niên, cao tuổi có nguy cơ mắc các bệnh lý cao hơn do:

- Kém vận động: Người cao tuổi ít vận động, hay nằm hoặc ngồi một chỗ. Đây là yếu tố dễ gây béo phì, mỡ máu cao và dẫn đến các bệnh lý khác.

- Yếu tố tâm lý: Cảm giác phụ thuộc vào con cháu, vô dụng, cô đơn… khiến người cao tuổi dễ buồn bã, rầu rĩ. Sức khỏe tinh thần không ổn định cũng có ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất của người cao tuổi.

- Lối sinh hoạt chưa phù hợp: Người cao tuổi thường có tâm lý thoải mái hơn về lối sống và sinh hoạt, ít duy trì lịch ăn uống hoặc nghỉ ngơi đều đặn. Đây cũng là một yếu tố nguy cơ dẫn đến các bệnh thường gặp ở người cao tuổi.

Có rất nhiều bệnh thường gặp ở người cao tuổi và các bệnh lý này nhìn chung đều có thể gây ra biến chứng ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng. Tốt hơn hết, người cao tuổi nên chủ động thăm khám sức khỏe định kỳ để tầm soát bệnh, sớm phát hiện các yếu tố nguy cơ gây bệnh để kịp thời can thiệp điều trị. 

*  Nguồn tham khảo:

(1) Learn 10 warning signs of diabetes in older adults. National Council on Aging (NCOA).  
https://www.ncoa.org/article/what-are-10-warning-signs-of-diabetes-in-older-adults

(2) Mordarska, K., & Godziejewska-Zawada, M. (2017). Diabetes in the elderly. Przeglad Menopauzalny, 2, 38-43. National Library of Medicine.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5509969/

(3) Alzheimer’s stages: How the disease progresses. (2023, June 7). Mayo Clinic.
https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/alzheimers-disease/in-depth/alzheimers-stages/art-20048448

(4) Age-Related hearing loss (Presbycusis). (2023, January 6). Johns Hopkins Medicine.
https://www.hopkinsmedicine.org/health/conditions-and-diseases/presbycusis

(5) Cataracts. Aging & Health A-Z. American Geriatrics Society. Health in Aging Foundation. 
https://www.healthinaging.org/a-z-topic/cataracts

(6) Depression in older people. Causes, Symptoms, Treatment. Healthdirect Australia.  
https://www.healthdirect.gov.au/depression-in-older-people

(7) Flu and Older Adults. National Foundation for Infectious Diseases (NFID). 
https://www.nfid.org/infectious-diseases/flu-and-older-adults/    

*-----*




Sunday, 11 August 2024

Misbehaving monks are trashing Buddhism's reputation in Thailand

 MISBEHAVING MONKS ARE TRASHING BUDDHISM'S REPUTATION IN THAILAND  
Lauren Day and Matt Henry 
ABC News, 08/08/2024 

It was rumours of a sex scandal that first brought Phra Khom, a Buddhist monk famed throughout Thailand for his talents as a preacher, to the attention of police in April 2023.

But even hardened investigators were stunned by what they uncovered when they raided his temple, Wat Pa Thammakhiri, hidden in a green valley a few hours' drive from Bangkok.

Suitcases stuffed with cash. Gold bars buried in the hills. A paper trail of bank transfers to the monk's sister's account totalling $2.2 million.

In all, Phra Khom, along with his co-conspirators, had embezzled more than $12 million of temple donations from his many faithful followers.

He was arrested, along with six other monks, and sentenced earlier this year to 468 years in prison.

Phra Khom's fall from grace grabbed national headlines, but it wasn't the first time a member of the Thai Buddhist clergy had been caught committing crimes.

In Thailand, it can seem like barely a week goes by without reports of monks being charged with drug possession, drunk driving, corruption, violent crimes, even rape and murder.

That's not to mention a slew of less serious – but equally scandalous – reports of monk misbehaviour, such as the case of Phra Kato, a handsome young monk and social media influencer whose sexual tryst with a model was exposed in early 2022.

Their clandestine love affair briefly set the nation abuzz after they were caught discussing it on a leaked audio recording.

Phra Kato was promptly disrobed, but his disgrace only deepened when he was later accused of embezzling temple funds and attempting to pay "hush money" to his lover and a journalist pursuing the story – claims he has denied.

While some Thais have become desensitised to such stories, others see the resulting erosion of public faith in the monkhood as a problem of national significance.

In Thailand, where more than 90 per cent of people are Buddhists and monks are still treated with special reverence, Buddhism remains one of the key pillars of society.

But some fear that pillar is cracking under the weight of mounting scandals involving some of the nation's estimated 280,000 holy men.

Those who put on the saffron robes are expected to model lives of moderation and virtue, holding to Buddhism's central teachings – no killing, stealing, sex, lies or drugs and alcohol – and observing dozens more rules in their daily lives.

Phra Paisal Visalo, an abbot, or head monk, at one of the country's most respected monasteries in the north-eastern province of Chaiyaphum, is troubled by how many monks are failing to uphold that moral code.

"There is a lot of scandal," he says, sitting cross-legged on the floor of his monk's house, perched above a peaceful lake. 

"I would call the situation in Buddhism now, especially as far as the monks are concerned, is in crisis."

Phra Paisal, who has been a monk for four decades, is among those now calling for urgent reform to Thailand's religious institutions to fix what he sees as a growing crisis of faith.

"I'm afraid Buddhism in Thailand has no future," he says.

THE TEMPLE WITH NO MONKS

Moral lapses in the clergy aren't just limited to a few rogue monks. In some cases, whole temples have been corrupted, often with devastating effects for the faithful.

In November 2021, at a temple amid the swaying palm plantations of Chumphon province, in southern Thailand, all four monks including the abbot were swept up in a drug raid.

Police found methamphetamine pills, meth pipes and dozens of bottles of urine the monks had been storing in their sleeping quarters. The monks all tested positive for the drug and were disrobed.

"If you ask me, was I shocked? I could not imagine all the monks in this temple were addicted," says the local village chief, Terdsak Pudwanna, as we stand at the temple's front gate in the baking morning sun.

For a time, the temple was left without any monks at all.

Terdsak has seen how the scandal continues to reverberate through his community long after the initial shock.

Buddhists depend on the monks at their local temple to do daily alms collection for religious "merit making" and perform a range of other rites and ceremonies.

"When those monks were arrested for using narcotics, the villagers who still had faith felt like they had been betrayed," says Terdsak.

Many in the village have kept their family's ashes in burial boxes, known as "stupas", on the temple grounds for generations, but now feel they can't return.

For some, their ties to the temple have been severed, perhaps permanently.

At a roadside restaurant on the edge of a palm plantation, local waitress Ladawan says she remembers the day of the raid vividly – it was the day of her father's funeral.

"We were moving our father’s body from our home to the temple and I was surprised to see that there were police officers at the temple," she says.

Ladawan had hoped to one day lay her father's ashes to rest at the temple but after the drug bust, she decided against it.

"I feel upset," she says, her eyes welling with tears. "Tremendously upset. Because our ancestors, our burial stupas are there. I wish [to visit them] one day if it's meant to be."

THE BIG BUSINESS OF BUDDHISM

Misbehaving monks are not an entirely new phenomenon in Thailand. In the mid-1990s, the country was scandalised by reports from women who had had sexual encounters with Phra Yantra Amaro Bhikku, a charismatic Buddhist preacher who travelled the globe spreading the faith, until he was expelled from the monkhood.

Just over a decade ago, it was Wirapol Sukphol who shot to online infamy when a YouTube video of him seated in a private jet, holding a luxury designer bag and flicking through wads of cash, went viral.

Sukphol's lavish display of wealth provoked outrage, and later led to a criminal investigation, which found him guilty of money laundering and sexual offences.

Monks are strictly forbidden from accumulating personal wealth, but Phra Paisal Visalo fears some are immersing themselves too deeply in the culture of consumerism that surrounds them.

"In the past monks led the way for the laypeople," he says. "But now they do not lead the laypeople along the way of inner peace. They just follow the laypeople along the path of wealth and prosperity."

Coupled with Thailand's opaque system of temple accounting, the temptation to use the monkhood as a money spinner can be too much for some.

Thailand's 43,000 temples together raise an estimated $4 billion a year in donations from the public, while the government chips in an extra $170 million to help support them.

But keeping track of where the donation money goes is near impossible.

In the case of Wat Pa Thammakhiri, officers with the Central Investigations Bureau (CIB) say Phra Khom neglected to set up a board of financial administrators or appoint a warden – structures that would have at least kept temple money at arm's length.

Instead, as the money poured in from donors, he was able to "manipulate the assets in large quantities without anyone knowing," says Lieutenant Colonel Parnumas Saengsong, part of the CIB team that raided the temple.

In the end, the staggering scale of his embezzlement was only revealed when Phra Khom made a rookie error, calling his monks from the police station where he was being questioned to tell them to hide the loot. Investigators pounced and caught them in the act.

"Some had hidden it in the bell tower, some had buried it in the hills behind the temple and covered it with monk robes," says Parnumas Saengsong. "Our investigation team was stunned. It was a huge amount. But these people took it for themselves."

Thailand's temples are required by law to open their books every year to the National Office of Buddhism, the government agency that's supposed to have oversight of their finances.

But the NOB's director, Intaporn Jan-Iaem, admits that doesn't always happen, as was the case with Wat Pa Thammakhiri.

"That is why the National Office of Buddhism had to cooperate with the authorities, in this case the CIB, who are able to call for witnesses and evidence for investigators to inspect," he says.

Intaporn Jan-Iaem says his agency has only limited powers to conduct its own investigations and that's something he wants to see changed.

"Right now, if monks commit wrongdoing, the National Office of Buddhism can only report that information and evidence to administrative monks to review. The monk process is slow, I must admit."

He says the National Office of Buddhism needs the power to "summons those monks for questioning right away without having to wait for any monks' council."

CLEANING UP THAILAND'S TEMPLES

Some believers aren't waiting, and are taking matters into their own hands instead.

Police lieutenant colonel Sayomphu Kauljittisirodom doesn't look much like a Buddhist monk, with a handgun slung at his hip, police-issue haircut and biceps bulging under his blue polo shirt.

But earlier this year, he passed himself off as one to make a daring series of arrests.

In March, feeling burnt out after a 20-year career in the Thai police, Sayomphu did what many Thai men will do at least once in their lives – ordained as a monk for a few weeks.

"Being a police officer, one has to be ready in both body and mind," he says. "The best thing for me was to try for once to become a monk."

But before he'd hung up his robes, Sayomphu's colleagues received a tip-off about a potential drug ring operating at a local temple.

Together they came up with an ingenious plan: Sayomphu would go undercover as a monk and wait at the temple to catch the crooks.

"I just covered myself with the robe," he says, swishing the saffron garment over his shoulder. "That way a weapon and camera could be hidden."

In the end, two monks were arrested for using meth, as well as two dealers who had sold it to them.

"Generally, the public appreciated what we did and admired us for eliminating an enemy of religion," he says.

Sayomphu has vowed to keep weeding out criminals hiding in temples to stop them giving Buddhism a bad name.

"In future, people may no longer respect them and that will affect the entire monkhood," he says.

Some believe fixing Thai Buddhism's problems requires more than individual heroics.

They point to flaws in the system of administration governing the clergy to explain why so many monks are going off the rails, arguing it protects them by maintaining a culture of fear, secrecy and impunity.

In Thailand, monks are governed by the Supreme Sangha Council, a small group of some of the country's most senior abbots with authority over religious matters.

Supporters of the status quo say the current system is well-equipped to reign in wayward monks, as long as abbots are willing to enforce the Sangha laws.

"If the abbot of every temple supervises the behaviour of the monks of each temple, I guarantee there wouldn't be any problems," says Luang Pi Namfon, the abbot at Wat Pai Lom in the town of Nakhon Pathom.

He's taken monitoring of his monks to what some might call extreme levels, drug testing them on a regular basis to make sure they are clean.

Phra Paisal Visalo disagrees. He says the system governing Buddhism in Thailand is long overdue for a significant overhaul if it's to deal with its monk problem.

"Corrupt monks are not punished so the system allows corrupt monks to be widespread," he says. "It needs reform. A comprehensive reform."

He wants to see it decentralised to allow participation from laypeople, as well as better vetting and education for men entering the monkhood.

But for now, he's just hoping this religion of reincarnation can change before it's too late.

"There's some aspects of teaching have been forgotten, especially about inner freedom, true happiness, the happiness that is beyond material happiness," he says. 

"It should be restored. It should be emphasised. This is my key idea about the reform."

* Watch on YouTube:
https://www.youtube.com/watch?v=jyJJmMSnqdM

*-----*





Wednesday, 10 July 2024

Một tang lễ giản dị, trang nghiêm, nhẹ nhàng

 Tôi đi dự đáng tang bà THERESE POGA (1932-2015)

Sáng nay, sau khi ăn điểm tâm, tôi lái xe đến dự tang lễ tại một nhà thờ đạo Thiên Chúa ở quận Subiaco, trong cùng thành phố Perth. Bà Poga là mẹ của một người bạn Úc tôi quen hơn 35 năm, từ khi chúng tôi đến định cư tại Tây Úc.

Ông bà Poga là người di dân tị nạn từ Latvia, đến định cư tại Úc trong thập niên 1950. Vì là người tị nạn, ông bà rất thông cảm với những người Việt đến định cư tại Úc sau 1975. Trong những năm đầu tại Perth, chúng tôi thường được ông bà mời đến nhà ăn cơm, và được giúp nhiều thông tin, ý kiến cố vấn, lời khuyên, để chúng tôi hòa nhập vào xã hội Úc.

Đám tang với nghi lễ đơn giản, tổ chức theo lời dặn của bà. Bạn tôi cho biết bà để lại một tờ giấy ghi 18 điểm, dặn dò con cái về cách thức tổ chức tang lễ của bà. Bà là một người ngoan đạo, đi nhà thờ mỗi tuần, nên có nhiều kinh nghiệm về các nghi thức trong đạo. Tang lễ chỉ có các bài thánh ca, vài tràng hoa trắng, và con cháu lần lượt đọc các đoạn trích trong Thánh Kinh mà bà đã chọn trước. Không đọc điếu văn ai oán.

Buổi lễ kết thúc sau 90 phút, và xe tống táng đưa quan tài đến lò hỏa thiêu. Mọi người đứng trước cửa Nhà Thờ để tiễn biệt, không đi theo xe. Đó là ý nguyện của bà. Tro cốt sau khi hỏa thiêu sẽ được đem về chôn tại sân vườn hoa hồng của Nhà Thờ.

Một tang lễ giản dị, trang nghiêm, nhẹ nhàng, không buồn rầu sầu khổ.

Bình Anson 
Perth, Tây Úc 
10/07/2015

*-----*





Saturday, 29 June 2024

Trở về với cát bụi

 TRỞ VỀ VỚI CÁT BỤI

Tại Úc, khi một người qua đời, sau tang lễ, sẽ được chôn cất tại các nghĩa trang do chính phủ tiểu bang quản lý, hoặc hỏa thiêu. Nếu chôn cất, tại Tây Úc, phải trả tiền thuê đất trong thời hạn 25 năm, và chỉ có thể gia hạn thêm 25 năm nữa. Nếu hỏa thiêu, hộp tro cốt có thể được chôn tại đất nghĩa trang, thường là tại một khu vườn có trồng hoa hồng, vẫn phải trả tiền thuê đất – nhưng rẻ hơn, và thời hạn cũng vẫn là 25 + 25 năm. Khuynh hướng ngày nay, 80% các đám tang tại Tây Úc là hỏa thiêu.

Sau khi hỏa thiêu, ngoài việc chôn tại vườn hoa nghĩa trang, có khi thân nhân đem hộp tro cốt về nhà, chôn ở sân vườn, hoặc đem tro cốt rải xuống sông, biển. Đối với một số Phật tử khác, có thể đem hộp tro cốt cất gửi ở chùa Việt hoặc đem về Việt Nam. Các chùa Việt ở đây đều có một phòng riêng để lưu các hộp tro cốt và hình ảnh người quá cố.

Riêng ở Tu viện Bodhinyana, bang Tây Úc, Phật tử có thể xin phép ngài Ajahn Brahm, đem tro cốt của người thân chôn ở dưới các gốc cây rải rác chung quanh hồ nước của Tu viện với khung cảnh thiên nhiên. Hoặc theo phong tục của Thái Lan, chôn vào vách tường rào quanh Tu viện. Hoàn toàn miễn phí, không phải trả tiền thuê đất và cũng không ấn định thời hạn như các nghĩa trang của chính phủ. 

Cũng có trường hợp gia đình đem tro cốt rải vào khu đất rừng hay rải xuống con suối chảy ngang đó. Tôi đã viết di chúc dặn dò thân nhân sau khi tôi chết, hỏa thiêu, rồi đem tro cốt rải vào khu đất rừng của Tu viện. Cát bụi trở về với cát bụi.

*




Tuesday, 4 June 2024

Các pháp hành đầu-đà phổ thông trong thời hiện đại

CÁC PHÁP HÀNH ĐẦU-ĐÀ PHỔ THÔNG TRONG THỜI HIỆN ĐẠI
Bình Anson

*

Theo Tiểu phẩm, tạng Luật (Parivāra, Vinayapiṭaka), Đức Phật giảng cho ngài Trường lão Upāli về mười ba pháp đầu-đà (dhutanga) như sau (Pvr 17.6 - Upālipañcaka):

(1) Hành pháp ngụ ở rừng,
(2) hành pháp đi khất thực,
(3) hành pháp ngụ ở gốc cây,
(4) hành pháp chỉ mặc y paṃsukūla (phấn tảo),
(5) hành pháp ngụ ở mộ địa,
(6) hành pháp ngụ ngoài trời,
(7) hành pháp mặc ba y,
(8) hành pháp đi khất thực theo từng nhà,
(9) hành pháp giữ oai nghi ngồi,
(10) hành pháp ngụ chỗ ở theo chỉ định,
(11) hành pháp một chỗ ngồi (khi thọ thực, nhất tọa thực),
(12) hành pháp không ăn vật thực dâng sau, và
(13) hành pháp thọ thực trong bình bát.

Ngài cũng giải thích có 5 hạng người thực hành mỗi pháp đầu-đà:

(1) Hạng người có bản tánh ngu khờ, có bản tánh si mê;
(2) hạng người có ước muốn xấu xa, bị thúc giục bởi ước muốn;
(3) hạng người do điên khùng, do mất trí;
(4) hạng người thực hành vì nghĩ rằng: ‘Như thế sẽ được chư Phật và chư Thinh Văn của đức Phật khen ngợi’; và
(5) hạng người thực hành vì ham muốn ít, vì tự biết đủ, vì sự từ khước, vì sự tách ly, vì lợi ích của pháp hành ấy.

Hạng người thứ (5) là hạng người được Đức Phật tán thán.

Trong thời hiện đại, các pháp hành đầu-đà này có vài thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh văn hóa, xã hội của mỗi quốc độ. Trong nhiều năm qua, tôi có phước duyên được gần gũi, quan sát, và tìm hiểu sinh hoạt của chư Tăng Ni trong truyền thống Theravada và xin chia sẻ ở đây.

Ở Thái Lan, pháp hành đầu-đà được gọi là Tudong (tu-đông, thudong), phiên âm từ tiếng Pali “Dhutanga”. Chư Tăng Thái có những pháp hành đầu-đà khác nhau tùy theo ý nguyện của mỗi cá nhân. Có những vị sư phát nguyện giữ hạnh đầu-đà sống trong rừng, không có trú xứ nhất định (hạnh đầu-đà số 1). Các vị ấy thường đi du hành trong rừng núi, từ làng này đến làng kia. Ban đêm ngủ ở bìa làng, ban ngày đến từng nhà trong làng khất thực. Có vị lập một liêu cốc nhỏ bằng tre lá trong rừng, nhưng cách làng khoảng 1 hay 2 km để đi bộ đến khất thực mỗi ngày. Lưu tại đó một thời gian, rồi đi sang khu rừng khác.

Có vị lập nguyện sống trong các hang động trên núi, mỗi ngày đi bộ xuống làng để khất thực rồi trở về hang núi để tu thiền. Hạnh đầu-đà sống trong các hang núi cũng thường thấy ở Sri Lanka.

Tùy theo điều kiện khí hậu, các sư trong vùng nhiệt đới có thể lập nguyện mặc ba y (hạnh đầu-đà số 7) như tôi đã từng biết ở vài tu viện miền đông bắc Thái Lan. Nhưng hạnh đầu-đà này rất khó áp dụng ở những quốc gia có mùa đông với tuyết rơi băng giá.

Tôi chỉ nghe nói nhưng chưa từng thấy vị sư nào chỉ mặc y paṃsukūla (phấn tảo, hạnh đầu-đà số 4). Nhiều năm trước, ở Tu viện Bodhinyana Tây Úc có một vị sư phương Tây phát nguyện không thay y mới. Tấm y rách đến đâu thì sư tự dùng kim chỉ để vá đến đó. Vá bằng đôi tay của sư, không dùng máy may. Sư dùng những tấm y cũ của các sư khác đã bỏ đi, cắt thành những mảnh vải để chắp vá y của sư. Dần dần, tấm y của của sư có nhiều mảnh chắp vá trên đó, trông rất ngộ nghĩnh. Tuy nhiên, chúng đều cùng có chung một màu vàng đất.

Pháp hành đi khất thực từng nhà (đầu-đà số 2 và số 8) rất phổ thông ở vùng thôn quê ở các quốc gia Đông Nam Á trong truyền thống Theravada (Thái Lan, Miến Điện, Lào).

Pháp đầu-đà chỉ ăn trong bình bát (đầu-đà số 13) cũng phổ thông khắp nơi, ngay cả tại một số tu viện ở phương Tây (Anh, Mỹ, Úc …). Tại Tây Úc, chư Tăng Ni tại Tu viện Bodhinyana và Ni viện Dhammasara đều tuân giữ hạnh đầu-đà này, chỉ ăn thức ăn để trong bình bát, không dùng chén đĩa bên ngoài. Sau khi đã bỏ đủ thức ăn vào bình bát, chư Tăng Ni chỉ ăn trong đó, không nhận thức ăn dâng thêm sau (đầu-đà số 12). Có những vị sư ở Thái Lan lập nguyện chỉ ăn mỗi ngày đúng một bữa, khoảng 9 giờ sáng, không ăn điểm tâm sáng (đầu-đà số 11).

Trong mùa an cư, chư Tăng Ni Tây Úc thường lập nguyện hành đầu-đà giữ oai nghi ngồi, không nằm, trong suốt 10 ngày hay 2 tuần lễ (đầu-đà số 9). Các vị chỉ đi, đứng và ngồi. Nếu có mệt hay buồn ngủ thì ngồi nghỉ, không nằm.

Một số Phật tử Nam tông ở Việt Nam và Thái Lan cũng nguyện giữ hạnh đầu-đà này trong các ngày trai giới hay trong các dịp lễ lớn. Phật tử đến chùa hành lễ, tụng kinh, nghe pháp, hành thiền suốt đêm, không nằm ngủ.

Có một hạnh đầu-đà khác thường được áp dụng ở Tây Úc là nhập thất tịnh tu. Trong mùa an cư, chư Tăng Ni luân phiên giữ hạnh đầu-đà này. Mỗi người phát nguyện nhập thất độc cư để tịnh tu khoảng 2 tuần lễ, hoàn toàn biệt lập, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Mỗi ngày, có vị sư bạn đem bình bát có thức ăn đến gần tịnh thất, đặt xuống ở gốc cây. Sư trong tịnh thất đi ra, nhận bình bát để ăn, lau rửa sạch sẻ rồi đặt lại ở gốc cây đó, để hôm sau có người đến lấy để bỏ thức ăn vào đó.

Khoảng 25 năm trước, ngài Ajahn Brahm cũng nhập thất tịnh tu như thế trong 6 tháng.

Trên đây là một số hạnh đầu-đà của chư Tăng Ni trong truyền thống Theravada mà tôi có hiểu biết và đã từng chứng kiến, ghi nhận. Xin chia sẻ ở đây.

- Bình Anson, Tây Úc
21/05/2024

* Ghi chú:

Luận sư Buddhaghosa trong cuốn Thanh tịnh đạo, Chương II, liệt kê 13 pháp hành đầu-đà, nhưng có thứ tự không giống như liệt kê trong Tiểu phẩm, tạng Luật, như sau:

1. Hạnh phấn tảo y (4)
2. Hạnh ba y (7)
3. Hạnh khất thực (2)
4. Hạnh khất thực từng nhà (8)
5. Hạnh nhất toạ thực (11)
6. Hạnh ăn bằng bát (13)
7. Hạnh không để dành đồ ăn (không nhận đồ ăn sau khi đã ăn xong) (12)
8. Hạnh ở rừng (1)
9. Hạnh ở gốc cây (3)
10. Hạnh ở giữa trời (6)
11. Hạnh ở nghĩa địa (5)
12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng xong (10)
13. Hạnh ngồi (không nằm) (9)

Số trong dấu ngoặc đơn (x) là số thứ tự tương ứng trong danh sách 13 pháp đầu-đà của tạng Luật.

* Tham khảo:

1) Tiểu phẩm II, tạng Luật - Parivāra, Vinayapiṭaka. Bhikkhu Indacanda dịch Việt.
https://tamtangpaliviet.net/VHoc/09/09_04.html#11.06

2) Thanh tịnh đạo (Visuddhi Magga), Ni trưởng Trí Hải dịch. Chương II - Hạnh Đầu-đà (Khổ hạnh).

3) Bhikkhu Khantipalo (1965, 1986). With Robes and Bowl: Glimpses of the Thudong Bhikkhu Life
(Với y và bát: Sơ lược về đời sống tỳ-khưu theo hạnh đầu-đà).

4) Kamala Tiyavanich (1997). Forest Recollections: Wandering Monks in Twentieth-Century Thailand
(Các kỷ niệm trong rừng: Du tăng ở Thái Lan trong thế kỷ 20).

*-----*