Thursday, 29 June 2023

Giới luật công truyền hay bí truyền? Thích Phước Sơn

 Giới luật công truyền hay bí truyền?
Thích Phước Sơn

*

Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: “Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo. Kinh luận nhị tạng hàm thông tại gia, xuất gia, duy Luật nhất tạng Tỷ kheo độc trì, như vương bí tạng phi ngoại quan sở tư. Nhược Sa di, bạch y tiên lâm giả, vĩnh bất thọ đại giới, tội dữ ngũ nghịch đồng liệt. Vị sư giả tối nghi cẩn thận”. Dịch nghĩa: “Ba đời chư Phật đều nói ba tạng Thánh giáo Kinh-Luật-Luận. Hai tạng Kinh-Luận chung cả tại gia, xuất gia, riêng tạng Luật chỉ dành cho Tỷ kheo gìn giữ, như tạng bí mật của vua, hàng ngoại quan không được biết đến. Nếu Sa di, bạch y mà xem trước, thì vĩnh viễn không được thọ đại giới, mắc tội ngang với tội ngũ nghịch. Phàm là người làm thầy phải hết sức cẩn thận”.

Ý kiến này có lẽ bắt nguồn từ Luật sư Châu Hoằng (1532-1612) trong quyển Luật Sa di: “Bất đắc đạo thính Đại Sa môn thuyết giới”.

Thật ra, câu cảnh cáo của ngài Châu Hoằng là nhằm nhắc nhở Sa di không được nghe lén khi Tỷ kheo tụng giới; vì nghe lén là hành vi bất chính. Bởi lẽ, Sa di chưa đủ tư cách pháp nhân của một vị Tăng thực thụ nên không được phép tham dự vào những sinh hoạt chính yếu của Đại tăng như các việc yết ma, bố tát, tự tứ v.v… Nếu người chưa thọ Cụ túc mà khoác áo cà sa, len lỏi vào hàng ngũ Tỷ kheo, tham dự các pháp yết ma, bố tát, tự tứ thì phạm tội tặc trú (ở trong Tăng chúng để trộm pháp), về sau không được thọ Đại giới, hay giới Tỷ kheo. Do đó, khi Tăng tiến hành tiền phương tiên (thủ tục ban đầu) thì thầy Yết ma phải hỏi trong Tăng chúng: “Người chưa thọ giới Cụ túc đã ra chưa?”. Và khi được xác nhận trong Tăng không có người nào chưa thọ giới Cụ túc, thì Tăng mới tiến hành các pháp yết ma. Như vậy, việc làm này rất chính đáng và đâu có dụng ý gì ngăn cấm người chưa thọ giới Cụ túc xem giới pháp của Tỷ kheo? Còn việc không cho Sa di, bạch y tham dự bố tát là có nguyên do. Lúc Phật còn tại thế, một hôm chư Tăng bố tát, có một người bạch y tham dự, sau đó, một Tỷ kheo phạm tội, người bạch y này bèn hạch tội Tỷ kheo. Các Tỷ kheo thấy thế liền bạch với Phật, Phật dạy: “Từ nay trở đi không nên cho bạch y và Sa di tham dự bố tát” (Ngũ phần luật, Đ.22, tr.123a).

Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới. Nhưng nếu Sa di vì tha thiết cầu học, có thiện chí tiến tu, thì Ngài cổ vũ: “Nhược nhạo quảng lãm, tự đương duyệt Luật tạng toàn thư” (Nếu muốn hiểu biết rộng thì nên xem toàn bộ Luật tạng). Và một đoạn khác trong Luật Sa di, Ngài khuyến khích: “Tuy Tỷ kheo sự, Sa di đương dự tri chi” (Tuy là việc của Tỷ kheo, nhưng Sa di cũng nên tham dự để biết). Như vậy, thiết nghĩ quan điểm của Luật sư Châu Hoằng đã quá rõ, thế nhưng vẫn có người ngộ nhận như trường hợp ngài Hoằng Tán. Rồi từ ý kiến của ngài Hoằng Tán, có người đã luận giải, nêu ra ba lý do:

1- Nếu Sa di xem trước giới luật Tỷ kheo rồi thấy giới pháp quá nhiều, khó khăn, sẽ sanh tâm thối thất, không dám thọ giới Cụ túc.

2- Nếu Sa di biết giới luật Tỷ kheo, khi họ thấy các Tỷ kheo thọ giới rồi mà không giữ gìn nghiêm túc, hủy phạm cấm giới, họ sẽ sanh tâm kiêu mạn, khinh rẻ các Tỷ kheo, do đó sẽ tổn phước, mất lợi ích.

3- Khi đã biết trước giới pháp thì lúc thọ giới thấy giới không còn thiêng liêng, tâm chí thành sẽ sút giảm nên khó đắc giới thể.

Lý luận ấy mới nghe qua có vẻ như hợp lý, nhưng xét kỹ thì hoàn toàn không ổn. Vì các lẽ: Thứ nhất, chẳng lẽ những người xuất gia toàn là những kẻ bạc nhược hết hay sao mà “thấy giới pháp nhiều sanh tâm thối thất?”; thứ hai, lẽ nào những người xuất gia lại quá kém phẩm chất, chuyên bới lông tìm vết, hễ “thấy Tỷ kheo phạm giới liền sanh tâm khinh rẻ?”; thứ ba, vấn đề giới tử đắc giới thể là do ba việc: “Giới sư thanh tịnh, Giới đàn trang nghiêm và Giới thể chí thành”, chứ đâu phải nhờ giới tử không biết trước giới luật mà đắc giới thể?

Quả thật lối lập luận trên có nhiều chỗ đi xa tinh thần giới pháp và giới luật. Ai cũng biết ngài Qui Sơn (771-833) định nghĩa người xuất gia: “Phàm là người xuất gia là mong cất bước đến chân trời cao rộng, hình dáng và tâm hồn khác với thế tục. Vì mục đích làm rạng rỡ dòng thánh, trấn áp quân ma, báo đáp bốn ân và cứu vớt ba cõi”. Và các bậc cổ đức cũng đã nói: “Thế thượng phi trượng phu đại giải thoát hán, hà năng kham thủ?” (Trên đời này, nếu chẳng phải là bậc trượng phu đại giải thoát, thì làm sao đảm đương nổi “sứ mệnh xuất trần”?).

Vả lại Luật dạy, vị thầy khi nhận đệ tử xuất gia phải chọn những người: về hình dạng thì sáu căn phải đầy đủ, không mắc một khuyết tật nào, về tâm hồn thì phải là người hảo tâm xuất gia, có dũng khí kiên cường bất thối, chứ không phải ai cũng xuất gia được. Chả thế mà ca dao ta có câu “Năm lừa mười lọc mới trọc cái đầu”.

Đúng ra, vì nhờ xem trước giới pháp nên Sa di biết được công dụng của giới là “phòng phi chỉ ác”, là “thuyền bè đưa người qua bể khổ”, nên họ mới sinh tâm khát ngưỡng, trông mong được lãnh thọ giới pháp. Khi đã hiểu giới luật, thấy những điều khó làm mà các Tỷ kheo vẫn tuân thủ nghiêm túc, thì họ càng tăng thêm tâm cung kính, chứ làm sao dám khinh thường? Mặt khác, các Tỷ kheo khi đã hiểu rằng mọi người đều biết những giới luật mình đã lãnh thọ, thì càng phải nỗ lực hộ trì không dám buông lung, vì sợ thiên hạ phê bình. Kinh nghiệm thực tế cho thấy các nước Nam phương như Campuchia, Thái Lan…, mọi Phật tử đều biết giới luật của Tỷ kheo và họ rất tôn kính các nhà sư, chứ không bao giờ dám coi thường hay chỉ trích. Chính nhờ biết trước giới luật nên họ mới có thể tạo điều kiện và tìm cách yểm trợ các sư giữ giới tốt hơn. Tình trạng hiện nay ở thành phố ta có những kẻ lợi dụng chiếc y vàng để đi xin ăn làm tổn thương Phật pháp. Nếu Phật tử biết rõ giới luật, ắt họ sẽ tẩy chay và tìm cách ngăn chặn hành vi phi pháp của những hạng người ấy, để giữ gìn sự trong sáng của đạo pháp.

Còn vấn đề này nữa, tạng Luật phải chăng là bí tạng dành riêng cho các thầy Tỷ kheo, các chúng khác không có quyền biết đến? Khẳng định như vậy thật là vô căn cứ, không có cơ sở và trái hẳn thực tế. Vì trong các giới điều dành cho Phật tử cũng như Sa di, không có một giới nào ngăn cấm họ tìm hiểu giới bổn của Tỷ kheo hết. Đành rằng chỉ có các Tỷ kheo thọ 250 giới, và các Tỷ kheo ni thọ 348 giới mới có bổn phận tuân thủ giới pháp của mình, còn những người khác không ai có quyền bắt họ phải tuân thủ. Đó là nói về trách nhiệm gìn giữ, còn việc cầu thị, tìm hiểu với thiện chí hướng thượng thì ai cũng có quyền nghiên cứu giới luật Tỷ kheo mà không vi phạm bất cứ điều khoản nào.

Giả sử một hội đoàn nào đó gọi chúng ta gia nhập, rồi mới cho biết nội quy và điều lệ, thì liệu chúng ta có yên tâm gia nhập hay nghi ngờ hội đoàn đó có điều gì mờ ám, bất chính? Theo lẽ thường, người có trí mỗi khi muốn tham dự một tổ chức nào chắc chắn phải tìm hiểu tường tận điều lệ của tổ chức ấy rồi mới tham gia. Đó là một việc làm hợp lý và có tinh thần khoa học.

Vả lại, Phật giáo là đạo công truyền chứ không phải bí truyền, là đạo trí tuệ chứ không phải giáo điều, lại càng không chấp nhận sự cuồng tín. Chính Đức Phật đã bác bỏ quan điểm độc quyền của Bà La Môn cho rằng chỉ có giáo sĩ Bà La môn mới có quyền đọc Thánh kinh Vệ Đà. Phật còn dạy: “Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng Ta”. Và một chỗ khác lại nói: “Chánh pháp được thuyết giảng giống như bàn tay mở ra, chứ không phải bàn tay nắm lại”. Hoặc nói: “Phật pháp là thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, được người trí chứng ngộ”. Chung quy cũng chỉ nhằm nói lên tinh thần cởi mở, phóng khoáng, tự do tư tưởng và tôn trọng sự thật của đạo trí tuệ mà thôi.

Hơn nữa, bàng bạc đó đây trong một số kinh điển đều có đề cập đến giới Tỷ kheo; như kinh Di Giáo, Phật dạy Tỷ kheo không được buôn bán đổi chác, không được mua ruộng tạo nhà, không được đào đất, đốn cây, không được coi ngày, xem tướng v.v… Như vậy toàn là giới cả, chứ có gì khác đâu. Vả lại ngày nay, kinh điển, giới luật được in ấn, phát hành rộng rãi, ai cũng có thể tự do tìm đọc, thì làm sao cấm người ta xem giới cho được.

Hơn nữa, giá như ông cha ta để lại lời di chúc cho chúng ta theo đó sống hợp với đạo lý làm người, hầu trở thành một người hữu ích, có giá trị, rồi chúng ta đem cất trên khám mà thờ, không biết trong đó nói gì, thì thử hỏi hành vi ấy là tôn kính hay bất kính đối với tổ tiên?

Ai cũng biết rằng tính chất của giới luật là “thanh lương”, nghĩa là mát mẻ, là “biệt biệt giải thoát”, tức là giữ được điều nào giải thoát được điều ấy, thế mà bảo rằng “người nào xem trước giới luật Tỷ kheo thì phạm tội ngang bằng tội ngũ nghịch” thì thực không còn biết nói thế nào nữa! Như vậy chẳng hóa ra quyển Luật Tứ phần là một tác phẩm văn hóa độc hại hay sao? Nói kiểu ấy là chỉ nhìn vấn đề một cách rất phiến diện và lệch lạc. Thực sự, nếu nhiều người hiểu rành giới luật thì có lẽ xã hội sẽ tốt đẹp hơn nhiều; và những tội ác xảy ra hàng ngày làm cho chúng ta phải đau lòng chắc chắn sẽ giảm đi không ít.

Đành rằng công đức xiển dương Luật học của ngài Hoằng Tán là đáng trân trọng, chúng ta chẳng dám xem thường; nhưng nếu bảo phải tin một cách tuyệt đối, không được tìm hiểu thấu đáo, thì chúng ta cũng không thể chấp nhận, vì nó trái hẳn với tinh thần học Phật. Đức Phật dạy: “Khi nghe một điều gì, các ngươi chớ vội bác bỏ, cũng chớ vội tin ngay, dù nó là Thánh điển”.

Thử hỏi, từ khi Đức Đạo sư chế giới, trải qua Tổ Tổ tương truyền cho đến Tổ Châu Hoằng (1532-1612), giới luật vẫn thuần khiết, nhất vị, không có điều gì phải thắc mắc, đến khi ngài Hoằng Tán (1611-1685) xuất hiện sau Tổ Châu Hoằng gần cả thế kỷ, đưa ra một câu nói khiến cho nhiều người hoang mang, thì làm sao chúng ta không bức xúc cho được?

Do vậy, chúng tôi mạo muội nêu vấn đề này ra thương xác ở đây là nhằm hai mục đích: thứ nhất là hy vọng trấn an được phần nào nỗi hoang mang của tầng lớp Tăng Ni trẻ, nhất là những người mới xuất gia, chưa thọ Đại giới; thứ hai là để cho những ai tha thiết tìm hiểu giới pháp có thể nhận thức đúng đắn tinh thần giới luật mà đấng Đại giác đã từ bi truyền dạy. Vì thế, tuyệt nhiên không hề có ý phê bình ngài Hoằng Tán ở đây. Tuy vậy, chúng tôi cũng rất mong thỉnh thị các bậc tôn túc luật sư cao minh, và hy vọng nhận được sự quan tâm chỉ giáo của các vị nếu có điều chi sai sót.

(Trích "Phật Học Cơ Bản",  Tập 3, Nguyệt san Giác Ngộ, 2000)

*-----*

Tuesday, 27 June 2023

Chiếc áo không làm nên nhà sư. - Bhikkhu Cittacakkhu (Tỳ-khưu Tâm Nhãn)

 Chiếc áo không làm nên nhà sư
Bhikkhu Cittacakkhu
(Tỳ-khưu Tâm Nhãn) 

Nguồn: Phật Việt, 26/06/2023

Tưởng niệm Ân sư Tuyên Luật sư Thích Đỗng Minh,
viên tịch 11 tháng 5 năm Ất Dậu – 2005.

Câu thành ngữ mà người Việt thường nghe “Chiếc áo không làm nên nhà sư” (Das Kleid macht keinen mönch & L’habit ne fait pas le moine), nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài. Nhưng trong đạo, “chiếc áo không làm nên nhà sư” lại có ý vị sâu xa khác, ví dụ một nhà sư vì hoàn cảnh binh đao hay thời kỳ tao loạn, ảnh hưởng tính mạng, nhà sư cần khoác áo thường dân để ẩn dật thì dù mặc y phục kiểu gì lúc ấy bản thể của tỳ-kheo cũng không bao giờ mất đi. Bình nhật trở lại, nhà sư cũng không thể mặc hoài y phục thế gian là thành ông sư, “chiếc y làm nên nhà sư” (quand l’habit fait le moine). Song, trọng ca-sa hay trọng giới thể đó là điều chúng ta cần bàn.

Câu chuyện trong chùa. Tôi có vị sư huynh đang tu học theo hệ Phật giáo Bắc tông, sinh hoạt tại một ngôi cổ tự – Sài Gòn, sư huynh thọ giới cụ túc năm 1991, nay có ý muốn chuyển sang Phật giáo Nam tông. Vì nghĩ rằng chiếc y của mình đang khoác không phải màu y của Phật giáo nguyên thủy chính thống, tuy nhiên còn phân vân chưa dứt khoát, với lý do nếu qua đó phải làm sa-di và thọ giới cụ túc lại từ đầu…

1. GIỚI THỂ VÔ BIỂU

Trong Phật giáo Bắc tông có hai vị Trưởng lão kỳ túc đã đổi y từ Bắc tông sang Nam tông nhưng không hề thọ giới lại theo truyền thống Nam truyền, đó là Hòa thượng Thích Minh Châu và Hòa thượng Thích Đỗng Minh.

Trong giai đoạn Phật giáo đứng trước khúc quanh lịch sử đau thương năm 1978, Hòa thượng Đỗng Minh bị bắt, sau hai năm ở tù trở về, Ôn đổi y Bắc tông sang y Nam tông, không vì chuyện này mà nói rằng giới thể “vô biểu” của Ôn bị mất hoàn toàn. Thầy Tuệ Sỹ viết về Ôn: Hòa thượng là một số rất ít trong các tỳ-kheo trì luật của Tăng-già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục… Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng trong chốn tòng lâm, đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết[1]. Và khi Ôn viên tịch, Hòa thượng Trí Quang kính tiến tán tụng:

“Kính cúng dường bậc Đại đức tôn quý trong hàng tứ chúng, một đời trì luật, thuận Giới giải thoát (prātimokṣa).” (Phụng cúng chúng trung tôn, thiện thuận giải thoát giới 奉供眾中尊善順解脫戒)[2].

Vị Tôn trưởng thứ hai, Hòa thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành, Quảng Nam. Năm 1946, Hòa thượng xuất gia đầu sư với ngài Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN) tại tổ đình Tường Vân, thành phố Huế. Năm 1949 (Kỷ Sửu) thọ cụ túc giới tại Giới đàn Hộ Quốc chùa Báo Quốc. Năm 1952, Hòa thượng du học tại Sri Lanka, sau đó sang Ấn-độ học tại Đại học Bihar. Tháng 4 năm 1964, trở về nước, Hòa thượng làm Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh…[3] Hòa thượng thọ giới theo truyền thống Bắc tông (Pháp tạng bộ) rồi chuyển y Nam tông, thời điểm chuyển y không thấy sử liệu nào ghi chép, có thể là trong giai đoạn du học?

Từ thời Phật, khi Ngài chế định việc truyền giới cụ túc phải hiện diện 10 vị tỳ-kheo mới đủ thẩm quyền để tiến hành việc truyền giới cụ túc và nghi thức được tiến hành thông qua ba lần hỏi (yết-ma) lấy biểu quyết của Tăng, và một lần tác bạch thưa thỉnh trước đó là bốn lần, gọi là Bạch tứ yết-ma (jñapticaturthaṃ karma)[4], cho đến nay cả hai hệ: Phật giáo Nam tông y cứ trên luật tạng Pāli và Bắc tông y cứ hệ luật Tứ phần đều thực hiện như nhau. Và theo các nhà Hữu bộ luận giải, khi giới tử phát sinh tâm niệm cầu thọ cụ túc giới, được dẫn vào trước Tăng, thành khẩn nói những lời cầu thỉnh giới sư v.v… cho đến khi Tăng đã thực hiện một lần tác bạch và ba lần yết-ma, tất cả những diễn tiến này đều được gọi là gia hành của nghiệp đạo. Sau khi Tăng đã hoàn tất Bạch tứ yết-ma, giới thể vô biểu đã phát sinh nơi giới tử.

Vô biểu (Skt. avijñapti, 無表) là những thế lực điều động các hoạt động của thân và ngữ, không biểu lộ ra bên ngoài cho người khác có thể thấy. Thế lực đó là khả năng phòng hộ của giới. Nó giống như sự phản xạ có điều kiện của một người học võ do tập luyện lâu ngày, có khả năng phòng vệ sinh mạng của mình trong bất cứ lúc nào và dưới bất cứ trường hợp nào[5]. Và năng lực phòng hộ này chỉ mất với những trường hợp như sau:

Luật Pāli (Vin. 3. 26), Tứ phần (p. 571b12) v.v… giải thích: thứ nhất, đối diện với người có khả năng hiểu mình muốn nói gì, tuyên bố từ bỏ học xứ, như nói: “Tôi bỏ Phật, Pháp, Tăng, … xả giới, xả luật, muốn làm cư sĩ…” là mất giới. Thứ hai là phạm ba-la-di (pārājika) là mất giới. Luận Câu-xá[6] giảng thêm: Mất giới khi mạng chung (xả tụ đồng phần 捨聚同分); bị lưỡng tính ái nam ái nữ (nhị căn chuyển sinh 二根轉生); thiện căn bị đoạn (善根斷), như khởi tà kiến không tin nhân quả, tham, sân, si trỗi dậy làm mất thiện căn, mất giới. Không thấy giáo nghĩa nào nói, một tỳ-kheo thay đổi y phục sang hệ phái cùng tông phái Phật giáo là mất giới. Ngoại trừ tỳ-kheo nào ưa thích muốn làm đệ tử ngoại đạo (titthayasāvakabhāvaṃ patthayamāno), cải tông mới mất giới hoàn toàn. Vậy vì sao Phật giáo Nam tông không chấp nhận giới thể của hệ Bắc tông thọ trì theo hệ Tứ phần – Pháp tạng bộ?

2. TƯ TƯỞNG TỰ TÔN CỦA TÔNG PHÁI

Mặc dù, Hòa thượng Minh Châu và Ôn Đỗng Minh đổi y nhưng Phật giáo Nam tông tại Việt Nam lúc bấy giờ cũng không công nhận là được “chân truyền”. Sự thật lịch sử:

Tháng 4 năm 1976, Pol Pot lên nắm quyền Campuchia, bãi bỏ mọi tôn giáo, tiêu diệt các nhà sư Phật giáo. Năm 1978, Việt Nam tấn công Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot và phía chính quyền Việt Nam muốn Phật giáo Nam tông tại đây được khôi phục, cho nên tổ chức một phái đoàn Phật giáo Nam tông từ Việt Nam sang truyền giới cho các nhà sư Campuchia. Theo tài liệu của Đỗ Trung Hiếu ghi chép, phái đoàn gồm 12 người: 1. Hòa thượng Bửu Chơn (trưởng đoàn); 2. Hòa thượng Giới Nghiêm (phó đoàn); Thượng tọa Siêu Việt, Thượng tọa Minh Châu, Thượng tọa Thiện Tâm v.v… Ngày 17 tháng 9 năm 1979, đoàn Phật giáo Việt Nam lên đường. Đến nơi, chiều ngày 18, Hòa thượng Bửu Chơn trở bệnh nặng… Tiếp ngày hôm sau, đúng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 9 (1979), lễ xuất gia được tổ chức tại chùa Ounalon (chùa lớn nhất Phnôm Pênh, nơi vua sãi ở). Có 7 vị sư Campuchia xuất gia. Hòa thượng Giới Nghiêm làm thầy tế độ, Thượng tọa Siêu Việt, Thượng tọa Thiện Tâm làm Yết-ma, các vị khác làm thành viên của buổi lễ. Riêng Thượng tọa Minh Châu vì là Bắc tông nên chỉ tham dự với tư cách khách danh dự[7].

Vì sao Hòa thượng Minh Châu không được tham dự chính thức, nếu nói do ngài không thạo tiếng Campuchia thì điều này không hợp lẽ, trong phái đoàn cũng có Thượng tọa Thiện Tâm không biết tiếng Campuchia, lại làm Yết-ma. Tập tài liệu của ông Hiếu có nhấn mạnh rõ ràng: “Ngoài Thượng tọa Minh Châu, tất cả sư đều là Nam tông”.

Trường hợp của Ôn Đỗng Minh cũng không ngoại lệ, Ôn từng kể cho chúng tôi nghe, có lần Ôn muốn nghiên cứu cách thức tác pháp yết-ma của Tăng-già Nam tông, Ôn đến tham dự nhưng chỉ dự khán, ngồi bên ngoài Sīmā, tức chỉ cho cương giới của Tăng Nam tông Yết-ma truyền giới cụ túc. Vì Ôn không phải túc số của Tăng, ngồi vào trong thì buổi lễ yết-ma đó sẽ bất thành.

Nghi thức truyền giới cụ túc của hai hệ Nam tông và Bắc tông tuy sai khác về văn bản tụng đọc và lễ nghi tổ chức nhưng túc số Tăng để yết-ma cũng 10 vị tỳ-kheo mà thôi. Bên Bắc tông có thêm vị dẫn thỉnh (điển lễ) và bốn vị giám đàn, xét trên nguyên tắc những người này không cần thiết, chỉ ảnh hưởng tập tục nghi tiết của Trung Quốc, họ không được tính trong túc số Tăng 10 vị.

Theo chúng tôi biết, hiện nay tại Việt Nam, cả hai hệ phái tổ chức giới đàn, trong túc số 10 vị không thấy có sự thỉnh mời tham dự xen lẫn. Giả thuyết, sư Bắc tông không thể tụng đọc Pāli, hay sư Nam tông không biết tụng đọc âm Hán-Việt, nên không thể ngồi chung; hoặc lý luận, bên nào quen với truyền thống bên đó, càng không đúng. Phải chăng chính do đôi bên tự tôn tông phái, nảy sinh tính kỳ thị, mới có chuyện không chấp nhận nhau và có thành kiến với y phục, cả sự đắc giới của đôi bên. Thời xưa, những vùng miền linh hoạt luật học thì không bao giờ có chuyện này.

3. GIỚI ĐÀN HIỆN DIỆN NHIỀU BỘ PHÁI

Sử liệu lưu truyền, vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch, Mahinda (摩哂陀, Ma-sẩn-đà) con trai vua A-dục (Aśoka) nhận Moggaliputta Tissa (目犍連子帝須, Mục-kiền-liên Tử Đế-tu) làm Hòa thượng bổn sư (upādhyāya), Mahādeva (大天 Đại Thiên) là Hòa thượng (A-xà-lê, ācārya, 阿闍黎) truyền 10 giới sa-di; Madhyāntika (摩闡提 Ma-xiển-đề) là Hòa thượng (A-xà-lê) truyền giới cụ túc. Trong một giới đàn có ba hệ phái cùng tham dự: Moggaliputta Tissa là người Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavādin), Mahādeva là phái Đại chúng (Mahāsaṅghika), Madhyāntika là Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin)[8]. Mahinda chính là Sơ tổ Phật giáo Nam tông bây giờ. [9] Mahinda cùng các vị đại đức Iṭṭhiya (Iddhiya), Uttiya, Bhaddasāla và Sambala đến Tích-lan truyền giáo theo sắc lệnh vua cha và nhóm này hình thành Thượng tọa bộ, còn gọi Đồng diệp bộ (Tāmraśāṭīyas, bộ phái mặc màu y lá đồng đỏ), cho đến tận ngày nay dấu chân hoằng hóa của họ phát triển khắp nơi trên thế giới.

Tại Trung Hoa, thời kỳ đầu Phật giáo du nhập, lúc này Tăng sĩ chỉ cạo tóc xuất gia, trọ trì tam quy ngũ giới, không có luật nghi. Đến năm 250, niên hiệu Gia bình thời Tào Ngụy, Đàm-ma-ca-la (Dharmakāla) người Ấn-độ đến Lạc Dương, dịch Tăng-kỳ giới tâm; năm 254, niên hiệu Chánh nguyên, sa-môn Đàm-đế người An tức cũng đến Lạc Dương dịch Đàm-vô-đức bộ tứ phần giới bổn, thỉnh đủ 10 vị Phạn tăng tổ chức pháp yết-ma truyền giới tỳ-kheo. Đó là giới đàn truyền giới tỳ-kheo đầu tiên tại Trung Hoa. Không rõ 10 vị Tăng được thỉnh mời thuộc tông nào nhưng theo tư liệu Hán dịch nói rằng Đàm-ma-ca-la và Đàm-đế thuộc tông Pháp tạng bộ trì luật Tứ phần[10].

Về ni giới. Cho đến đời Tấn, niên hiệu Thăng bình (357), sa-môn Đàm-ma-kiết-đa lập giới đàn truyền giới tỳ-kheo-ni cho Tịnh Kiểm và bốn cô nữa. Đây được kể là tỳ-kheo-ni đầu tiên tại Trung quốc, nhưng không đủ nhị bộ tăng, mà trực tiếp truyền từ tỳ-kheo Tăng. Vì bấy giờ Trung quốc chưa có ni thì không thể đủ hai bộ để truyền như luật định. Đàm-ma-kiết-đa cho rằng giới từ Đại Tăng mà có, nay Đại Tăng đủ số thì có thể truyền. Sau đó, vào năm Nguyên gia 6 (429), có sa-môn Cầu-na-bạt-ma (Guṇavarma) đến Trung quốc, ni cô Huệ Quả đem vấn đề thọ giới đắc pháp ra hỏi, ngài trả lời: không đắc, vì không đủ nhị bộ tăng. Lúc bấy giờ tại Trung quốc có 8 vị tỳ-kheo-ni từ Tích lan sang, nhưng Cầu-na cho là chưa đủ số thập sư nên chưa chịu tổ chức giới đàn. Theo lời khẩn cầu của các ni cô bấy giờ, Cầu-na-bạt-ma cử người sang đảo Sư tử, tức Tích-lan ngày nay, thỉnh thêm cho đủ Thập ni để truyền giới. Về sau, có thêm Thượng tọa ni Thiết-sách-la cùng bốn vị nữa từ đảo Sư tử sang, nhưng bấy giờ Cầu-na-bạt-ma đã tịch. Giới đàn khi ấy do Tăng-già-bạt-ma tổ chức, đủ túc số hai bộ tăng truyền giới tỳ-kheo-ni. Đây gọi là chính thức tỳ-kheo-ni như pháp được truyền thọ tại Trung quốc[11]. Chúng ta thấy, giới đàn ni, trong 10 vị Tăng, Tăng-già-bạt-ma (Saṃghavarman) là người Hữu bộ, những vị Tăng khác có thể Pháp tạng bộ hoặc Hữu bộ, còn thập sư tỳ-kheo-ni là Đồng diệp bộ (Phật giáo Nam tông).

4. LUẬN KẾT

Giới thể của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni được thẩm định từ người hành trì Phạm hạnh và thọ giới đúng pháp Yết-ma, chứ không đánh giá hình thức bề ngoài sắc phục là tông phái nào. Giáo pháp và quy chế của Phật vừa cố định vừa quy ước, nó đã thích nghi với một xã hội Ấn-độ trước thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch. Về sau, Phật giáo truyền đến các nước, chư Thánh đệ tử đã linh hoạt với nếp sống hòa nhập, sao cho không trái phạm với nền tảng giới luật của Phật chế. Mục đích giữ luật không phải cực đoan, cục bộ hay tự tôn tông phái. Ngày nay Phật giáo Bắc tông là Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka), hệ thống kinh điển và Luật tạng gần như là bản sao của Phật giáo Nam tông. Phật giáo Nam tông hay gọi Phật giáo Nam truyền cũng xuất phát từ Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavādin), Tam tạng thánh giáo và nếp sống gần nguyên thủy, chứ hoàn toàn không phải Phật giáo Nguyên thủy. Chính Bhikkhu Bodhi là nhà sư Nam tông cũng công nhận điều này[12]. Nếu nói là Phật giáo nguyên thủy là chỉ cho Phật giáo tiền bộ phái (Pre-sectarian Buddhism) hay gọi Phật giáo sơ kỳ (Early Buddhism), tức chỉ cho thời đức Phật tại thế và kéo dài đến triều đại vua A-dục (Aśoka) (c. 268 đến 232 BCE) mà thôi[13].

Năm 1998, tại Bồ-đề đạo tràng (Bodhgaya) Ấn-độ, tổ chức giới đàn truyền giới cụ túc, với sự hiện diện đầy đủ của nhị bộ Tăng-già, bên Tăng có sư Nam tông, Bắc tông, bên Ni là các tỳ-kheo-ni Đài Loan. Trong giới đàn có một số giới tử ni đến từ Tích-lan (Sri Lanka), Nepal… Thế nhưng những giới tử ni đến từ Tích-lan (Sri Lanka) đã bị Giáo hội Tăng-già tại Tích-lan từ chối sự đắc giới của họ, cho rằng đó là giới pháp của Đại thừa (Mahāyāna)[14]. Sự thật này có ghẻ lạnh, vô cảm đến mấy thì Tăng đồ Nam tông cũng không thể quên đi lịch sử quá khứ, Mahinda Sơ tổ Phật giáo Nam tông đã đắc giới từ ba vị thầy thuộc ba bộ phái khác nhau, trong đó Mahādeva là phái Đại chúng phát triển thành Phật giáo Đại thừa sau này.

Người viết vướng bước trong suy tư quá lâu, nói để khai phóng tâm hồn. “Chánh pháp thì có được tịnh tín…. Sự tồn tại lâu dài của Chánh pháp là vì ích lợi cho chúng sinh”.

Bhikkhu Cittacakkhu
(Tỳ-khưu Tâm Nhãn)

---------------
Chú thích:

[1] Tự ngôn trong bản Việt dịch Luật Tứ phần, thầy Tuệ Sỹ viết tại Quảng hương Già-lam, Cuối Đông, 2549.

[2] Kỷ yếu Tưởng niệm Tôn sư, tr. 71.

[3] https://giacngo.vn/tieu-su-truong-lao-htthich-minh-chau.

[4] Luật tạng: Thập tụng: p. 148b12-17; Tứ phần: p. 799c12-29; Ngũ phần: p. 111b2-23, 25; Pāli: I, 28, 3-6, 31, 2; Tăng-kỳ: cf. pp. 412b26 – 413a6, p. 416b7-10.

[5] Tuệ Sỹ, Yết-ma yếu chỉ (2011), chương i và chương iii.

[6] 《阿毘達磨俱舍釋論》卷11, T29, no. 1559, p. 235c3.

[7] https://vi.wikipedia.org/wiki/Pol_Pot & “Thống nhất Phật giáo Việt Nam – 1994”, tr. 8-11, Đỗ Trung Hiếu.

[8] 印順導師, 初期大乘佛教之起源與開展, p. 409.

[9] Dīpaṃvasa (Đảo vương thống sử, ch. VIII), Mahāvaṃsa (Đại vương thống sử, ch. XII), Samantapāsādikā (Nhất thiết thiện kiến luật chú, pp. 63, 19-69, 15); Chuan Cheng, Designations of Ancient Sri Lankan Buddhism in the Chinese Tripitaka (Journal of the oxford centre for buddhist studies, vol. 2), p. 104.

[10] 《四分律刪繁補闕行事鈔》卷2, T40, no. 1804, p. 51c4 & 《佛祖統紀》卷29, 35, T49, no. 2035, p. 296c7, p. 332a12.

[11] 《四分律刪繁補闕行事鈔》卷2, p. 51c4; 《高僧傳》卷3, T50, no. 2059, p. 342b11)Tuệ Sỹ, Một thời truyền luật.

[12] Bhikkhu Bodhi, The revival of Bhikkhunī ordination in the Theravāda tradition, p. 35-36.

[13] Griffiths, Paul J. (1983) “Buddhist Jhana: A Form-Critical Study”, Religion 13, pp. 55–68. & Collins, Steven (1990) “On the Very Idea of the Pali Canon”, Journal of the Pali Text Society 15, pp. 89–126.

[14] Bhikkhu Bodhi, p. 36.

Người cư sĩ hiểu luật nhà Phật để làm gì? Bhikkhu Cittacakkhu (Tỳ-khưu Tâm Nhãn)

 Người cư sĩ hiểu luật nhà Phật để làm gì?
Bhikkhu Cittacakkhu
(Tỳ-khưu Tâm Nhãn)

Nguồn: Phật Việt, 20/02/2022

*

Hiện nay hàng cư sỹ Phật tử tại gia đi chùa, học Phật và đóng góp công tác cho Phật giáo nhiều hạnh nguyện khác nhau; đôi khi cũng có người sống như một Duy-ma-cật (Vimalakīrti), hay một Thắng Man (Śrīmālā) v.v. Song, lâu lâu tôi lại nghe một vài Phật tử nói, luật nhà chùa người cư sỹ không được tìm hiểu đọc nó, chính tôi cũng bị nhiều người hỏi về vấn đề này. Liệu có ai thắc mắc, có phải chính đức Phật đã cấm người cư sỹ đọc luật Phật giáo? Nếu có, tài liệu nào nói? Tôi trả lời ngay câu hỏi này. Thật ra, đức Phật cấm người cư sỹ tham gia “tố tụng” tỳ-kheo, hay nghe tội, hoặc cử tội tỳ-kheo, chứ không phải cấm đọc luật tỳ-kheo. Chỉ có chuyện bà Viśākhā trình bày tội tỳ-kheo với đức Phật là trường hợp duy nhất trong giới bất định.[1] Trong chuyện này có hai điều cần chú ý: 1. Bà Viśākhā là người chứng quả Dự lưu (sotāpanna), chuẩn mực tư cách đạo đức, đủ để Tăng tin tưởng lắng nghe. 2. Khi bà thưa xong thì Tăng sẽ phán xử tỳ-kheo đó, bà không tham dự. Đây là vấn đề tế nhị nhưng quan trọng trong việc học luật, hiểu luật và hành luật. Luật đời luật đạo cũng thế.

Chúng ta trở lại lý do đức Phật cấm cư sỹ nghe tội tỳ-kheo. Câu chuyện này thuộc phần Skandhaka (Kiền-độ) của Luật tạng, tuy nhiên luật bộ phái ghi chép có sai khác chút ít.

1) Luật Ngũ phần của Hóa địa bộ quyển 18 dẫn: Khi các tỳ-kheo bố-tát, có bạch y nghe tỳ-kheo phạm tội, bạch y đó nêu tội tỳ-kheo. Các tỳ-kheo bạch Phật, Phật dạy: Không nên cho bạch y và sa-di nghe tỳ-kheo bố-tát tụng giới.[2]

2) Luật Pāli của Thượng tọa bộ (Mahāvagga [Đại phẩm], chương Uposatha [Bố-tát]) ghi: Vào lúc bấy giờ (ngày bố-tát), Devadatta tụng đọc giới bổn Pātimokkha (Ba-la-đề-mộc-xoa) trong hội chúng có sự hiện diện của cư sỹ. Các tỳ-kheo đem việc ấy bạch Phật. Phật dạy: Này các tỳ-kheo, không nên tụng đọc Pātimokkha trong hội chúng có sự hiện diện của cư sỹ. Vị nào tụng đọc, phạm dukkaṭa (đột-kiết-la).[3]

3) Luật Ma-ha Tăng-kỳ của Đại chúng bộ quyển 27: Có tỳ-kheo thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, nói năm nhóm tội từ ba-la-di đến tội việt tỳ-ni cho người chưa thọ cụ túc (người thế tục) nghe, rồi tỳ-kheo đi vào thôn xóm, bị người thế tục nêu tội: “Trưởng lão phạm ba-la-di…” Sau đó, đức Phật dạy không được thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, nói năm nhóm tội cho người chưa thọ cụ túc nghe. Chỉ được phép nói: “Ngươi không được làm phi phạm hạnh, không được trộm cắp, không được sát sinh, không được vọng ngữ.”[4]

4) Luật Tứ phần của Pháp tạng bộ cũng dẫn: “Bấy giờ, đến ngày thuyết giới, nhóm sáu tỳ-kheo làm các việc như chào hỏi và nói chuyện với bạch y, tác yết-ma thuyết giới, thuyết pháp.”[5]

Như vậy chúng ta thấy, xã hội nhà chùa trong thời kỳ đầu, lễ bố-tát thuyết giới có cư sỹ tham dự. Sau đó do phát sinh tâm khinh miệt tỳ-kheo phạm tội, hoặc vì giảm lòng tin của người cư sỹ, hay mất tín tâm đối với những người chưa có lòng tin…, điều này ảnh hưởng lớn đến Tăng đoàn mới khiến đức Phật cấm chế. Về sau, khi tông luật Tứ phần phát triển cực thịnh ở Trung Hoa, đến năm Sùng trinh thứ 16 đời nhà Minh (1643), tỳ-kheo Hoằng Tán[6] biên soạn Tứ phần giới bổn như thích, viết rằng: “Ba đời chư Phật đều thuyết kinh, luật, luận; Tạng kinh và luận đều dành chung cho xuất gia và tại gia. Riêng Tạng luật chỉ có tỳ-kheo độc trì, như kho tàng của vua, ngoại quan không được biết đến. Cho nên bạch y, sa-di mà xem trước vĩnh viễn sau này không được thọ đại giới và phạm ngang tội ngũ nghịch. Phàm làm thầy phải hết sức cẩn thận”.[7] Có lẽ Hoằng Tán y cứ vào luật Ngũ phần mà “tô điểm” thêm, đề cao Luật tạng trở thành bí truyền, tạo học thuyết hăm dọa hoang tưởng quá đáng. Từ đó về sau Phật giáo Việt Nam hành trì tông luật Tứ phần, đôi khi hưởng ứng theo “chủ nghĩa thậm xưng” của tỳ-kheo Hoằng Tán; hoặc giả một số nhà sư hiểu nhầm từ sự nghiêm cấm trên mà giảng dạy cho Phật tử không được đọc luật Phật giáo. Đây chỉ là sự ngộ nhận, vả lại xã hội thời Phật từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 4 trước Tây lịch chưa có bút mực biên chép thành sách thì khái niệm cấm đọc luật tỳ-kheo càng không có.

Để rộng bàn thêm về vấn đề này chúng tôi dẫn thêm vài trường hợp trong luật Tăng-kỳ nêu: Nếu trong Tăng không dập tắt được sự tranh chấp của các tỳ-kheo thì nên tìm một tỳ-kheo có đức, hay đa văn, hoặc tỳ-kheo ở a-luyện-nhã (arañña, sống nơi sơn lâm, hoang dã). Nếu không có thì tìm một ưu-bà-tắc (cư sỹ nam) có thế lực.[8] Hay câu chuyện Tăng đang bố-tát, cư sĩ Cù-sư-la (Ghoṣila) đi vào, cố ý ở lại nghe, không đi. Các tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy, nếu người có đức hạnh cao quý muốn nghe Tăng giải quyết sự việc thì cho họ nghe. Đồng thời, nếu trong chúng có người tài giỏi, nói năng lưu loát, giải quyết sự việc phân minh thì cứ tự nhiên tiến hành. Trái lại, nếu giải quyết sự việc trước kẻ phàm phu tầm thường thì phạm tội việt tỳ-ni.[9]

Vậy rõ ràng đối với những người cư sỹ tại gia đã có tín tâm kiên cố nơi Tam bảo, dù họ có nghe lỗi lầm của tỳ-kheo đi chăng nữa họ vẫn giúp Tăng phục hoạt cho thanh tịnh, hoàn toàn không có tâm cao ngạo hủy báng Tăng. Tuy nhiên cũng có trường hợp việc của Tăng do Tăng quyết định, cậy nhờ đến quan, bạch y thì khó giải quyết – luật Thập tụng nói như vậy.[10]

Qua đây chúng ta thấy luật Phật giáo chỉ ngăn cấm hạng người hiểu biết nhiều, tâm kiêu ngạo bốc cao, bất kính Tam bảo, không có tâm đạo… Ngày nay, giới nghiên cứu luật học Phật giáo đều biết đến E. Frauwallner, Akira Hirakawa, Lamotte, I. B. Horner v.v. Họ là cư sỹ viết về Luật tạng của Phật giáo, công trình của họ để lại cho đời đáng cho người học Phật phải bái phục. Họ là cư sỹ mà thông luật Phật giáo hơn cả tu sĩ trong chùa, vậy họ có phạm tội ngũ nghịch như Hoằng Tán nói không? Phật giáo được truyền bá rộng rãi sang các nước phương Tây cũng chính nhờ họ, những gì họ làm có giá trị miên viễn cho giới học thuật.

Do đó, trách nhiệm của người cư sỹ tại gia nên đọc luật Phật giáo, đọc với mục đích gì, đọc với cái tâm ra sao mọi người tự biết. Thời Ôn Đỗng Minh còn sinh tiền hay đùa với chúng tôi, Ôn nói các nước Phật giáo Nam tông mấy ông sư không cần giữ giới, Phật tử giữ giới cho mấy ông sư. Vì họ hiểu luật lệ của nhà sư. Năm 2011, tôi qua Thái Lan thăm một người bạn, nhằm ngày “Cửu hoàng thắng hội” – tức lễ ăn chay của người Thái, từ ngày mồng 1 tháng 9 Âm lịch đến ngày mùng 10. Một hôm, chúng tôi đi chợ buổi chiều, gặp một người Thái, họ biết chúng tôi là nhà sư Phật giáo Bắc tông ăn chiều nên lấy tiền cúng dường. Điều làm tôi ngạc nhiên là người bạn của tôi không đưa tay nhận mà kéo ống tay ra để họ cúng tờ tiền lên ống tay áo. Đó cũng là một cách “linh hoạt” nhà sư không nhận tiền trực tiếp, và họ là nữ không dám đụng chạm nhà sư, vân vân. Tôi còn biết, tại các trường Phật giáo Thái Lan, môn luật Phật giáo đều có cư sỹ tham gia học tập nghiên cứu. Ngạc nhiên hơn là bộ môn đó do giáo sư cư sỹ giảng dạy.

Chúng tôi bàn thêm chuyện sa-di không được đọc luật tỳ-kheo. Điều này hồi tôi mới vào chùa đã nghe quý thấy thường nhắc nhở vậy. Trong các bộ phái chính thống chỉ có Hóa địa bộ soạn luật Ngũ phần đề cập đến sa-di. Tại sao không cho sa-di dự Tăng yết-ma bố-tát? Theo chúng tôi hiểu, lễ bố-tát sám hối, đọc giới điều của tỳ-kheo, như nêu tội tỳ-kheo đồng nghĩa xử án, luật đời như luật đạo: Tại phiên tòa xét xử, người dưới 16 tuổi không được tham dự. Trừ vụ án có liên quan, được tòa triệu tập thì người này mới được đến. Do đó sa-di chưa đủ tuổi 20 cũng vậy, họ còn nhỏ, tư tưởng chưa chín chắn, không đủ tư cách để tham dự.

Tóm lại, nếu một tỳ-kheo lui vào rừng sâu ẩn dật như con tê giác thì cư sỹ tại gia không cần học luật, hiểu luật Phật giáo để làm gì. Song le đời sống của tỳ-kheo ngày nay hòa nhập, va chạm với xã hội xung quanh quá nhiều, trách nhiệm của họ giữ luật là một lẽ, mà bổn phận của người cư sỹ cũng cần hiểu luật tỳ-kheo, hiểu căn bản thôi, có như vậy mới giúp ích cho tỳ-kheo, và lớp người cư sỹ là vành đai an toàn cho đời sống Tăng, ni và cộng đồng Tăng-già hiện nay.

Nha Trang, ngày 20 tháng 2 năm 2022.
Bhikkhu Cittacakkhu

----------------
Chú thích:

[1] 四分律 卷 5, T22, no. 1428, p. 600b9; 彌沙塞部和醯五分律 卷 4, T22, no. 1421, p. 22c15; v.v…

[2] 彌沙塞部和醯五分律 卷18, T22, no. 1421, p. 123a17.

[3] Pāli, Vin. Mahāvagga, Uposathakkhandhako: Tena kho pana samayena devadatto sagahaṭṭhāya parisāya pātimokkhaṃ uddisati. Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ. Na, bhikkhave, sagahaṭṭhāya parisāya pātimokkhaṃ uddisitabbaṃ. Yo uddiseyya, āpatti dukkaṭassāti.

[4] 摩訶僧祇律 卷27, T22, no. 1425, p. 448b22-21.

[5] 四分律 卷35, T22, no. 1428, p. 819a10.

[6] Hoằng Tán 弘贊 (1611-1685), sống cuối đời Minh đầu đời nhà Thanh.

[7] 四分戒本如釋 卷1, X40, no. 717, p. 193c15-18:三世諸佛。俱說經律論三藏聖教。經論二藏。咸通在家出家。惟律一藏。比丘獨持。如王秘藏。非外官所司。故白衣。沙彌。若先覽者。後永不得受大戒。罪與五逆同例。凡為師者。最宜謹慎.

[8] 僧祇律 12, p. 328a.

[9] Ibid., 27, 449b10.

[10] Cf. 十誦律 49, p. 362a03.

Saturday, 24 June 2023

Bộ Luận A-tỳ-đàm Bắc truyền - Nhất thiết Hữu bộ

 BỘ LUẬN A-TỲ-ĐÀM BẮC TRUYỀN (HÁN TẠNG)
NHẤT THIẾT HỮU BỘ (Sarvāstivāda - 一切有部)

Bộ phái Sarvāstivāda (Nhất Thiết Hữu Bộ, còn gọi tắt là Hữu Bộ) có bảy bộ luận A-tỳ-đàm (Abhidharma, Vi Diệu Pháp), hiện nay chỉ còn lưu bản dịch trong Hán tạng, và gần đây đã được dịch sang tiếng Việt trong bộ Đại tạng kinh Linh Sơn Pháp bảo. Khác với tạng A-tỳ-đàm của bộ phái Theravada (Thượng tọa bộ), bảy bộ luận này đều có ghi tên tác giả.

Có thể tải bản PDF theo những links sau đây:

III.1. A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận – T1536
(Abhidharma-saṅgītīparyāyapāda-śāstra - 阿毘達磨集異門足論)
Tác giả: Śāriputra (Xá-lợi-phất)
https://tinyurl.com/527kmdr7

III.2. A-tỳ-đạt-ma Pháp Uẩn Túc Luận – T1537
(Abhidharmadharma-skandhapāda-śāstra - 阿毘達磨法薀足論)
Tác giả: Maudgalyāyana (Mục-kiền-liên)
https://tinyurl.com/4uk23r6n

III.3. Thi Thiết Luận – T1538
(Prajñapti-śāstra - 施設論)
Tác giả: Maudgalyāyana (Mục-kiền-liên)
https://tinyurl.com/yc4xjf2m

III.4. A-tỳ-đạt-ma Thức Thân Túc Luận – T1539
(Abhidharma-vijñānakāyapāda-śāstra - 阿毘達磨識身足論)
Tác giả: Devakṣema (Đề-bà-thiết-ma)
https://tinyurl.com/mr4duj88

III.5. A-tỳ-đạt-ma Giới Thân Túc Luận – T1540
(Abhidharma-dhātukāyapāda-śāśtra - 阿毘達磨界身足論)
Tác giả: Vasumitra (Thế Thân)
https://tinyurl.com/y7td7u5f

III.6. A-tỳ-đạt-ma Phẩm Loại Túc Luận – T1542
(Abhidharma-prakaraṇapāda-śāstra - 阿毘達磨品類足論)
Tác giả: Vasumitra (Thế Thân)
https://tinyurl.com/mexv3s83

III.7. A-tỳ-đạt-ma Phát Trí Luận – T1544
(Abhidharma-jñānaprasthāna-śāstra - 阿毘達磨發智論)
Tác giả: Kātyāyanīputra (Ca-đa-diễn-ni Tử)
https://tinyurl.com/yvsrxpt6


*-----* 



Friday, 23 June 2023

ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM (Phiên bản dạng PDF)

 ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
(Phiên bản dạng PDF)

A. TAM TẠNG PALI - BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT

I. LUẬT TẠNG

I.1. Phân tích giới bổn. 914 trang, 84.6 MB
https://tinyurl.com/3fpk4h4u

I.2. Hợp phần, Tập yếu. 1502 trang, 140.4 MB
https://tinyurl.com/76f7fv4m

*

II. KINH TẠNG

II.1. Trường bộ. 668 trang, 70.2 MB 
https://tinyurl.com/bdhztbu7

II.2. Trung bộ. 1246 trang, 117.5 MB
https://tinyurl.com/5pb9yan8

II.3. Tương ưng bộ. 1432 trang, 127.4 MB
https://tinyurl.com/ycyvnmne

II.4. Tăng chi bộ. 1424 trang, 171.2 MB
https://tinyurl.com/ycyn3tej

II.5. Tiểu bộ

II.5.1. Tiểu bộ I. 1348 trang, 94.6 MB
https://tinyurl.com/56jm45em

. Tiểu Tụng 
. Pháp Cú 
. Kinh Phật Tự Thuyết 
. Kinh Phật Thuyết Như Vậy 
. Kinh Tập 
. Chuyện Thiên Cung 
. Chuyện Ngạ Quỷ 
. Trưởng Lão Tăng Kệ 
. Trưởng Lão Ni Kệ 

II.5.2. Tiểu bộ II. 1264 trang, 111.6 MB
https://tinyurl.com/y2xdry9c
. Chuyện Tiền Thân (1-438)  

II.5.3. Tiểu bộ III. 1484 trang, 118.7 MB
https://tinyurl.com/bddxsk7f
. Chuyện Tiền Thân (439-547) 

II.5.4. Tiểu bộ IV. 1218 trang, 125.3 MB
https://tinyurl.com/yc5cc6mn

. Đại Diễn Giải
. Tiểu Diễn Giải
. Phân Tích Đạo

II.5.5. Tiểu bộ V. 1268 trang, 115.0 MB
https://tinyurl.com/29b3racx

. Thánh Nhân Ký Sự 
. Phật Sử 
. Hạnh Tạng 
. Milinda Vấn Đạo 

*

III. VI DIỆU PHÁP TẠNG (Abhidhamma, A-tỳ-đàm, Vô tỷ pháp, Thắng pháp).

III.1. Bộ Pháp Tụ: https://tinyurl.com/5n6e277n 

III.2. Bộ Phân Tích: https://tinyurl.com/49wd67uh

III.3. Bộ Nguyên Chất Ngữ: https://tinyurl.com/j2mx4nmc

III.4. Bộ Nhân Chế Định: https://tinyurl.com/4x4vbffy

III.5. Bộ Ngữ Tông: https://tinyurl.com/35d7pc8j

III.6. Bộ Song Đối: https://tinyurl.com/5y2vahw4

III.7 Bộ Vị Trí
III.7.1. Bộ Vị Trí, quyển 1&2: https://tinyurl.com/y4mfhavh
III.7.2. Bộ Vị Trí, quyển 3&4: https://tinyurl.com/37uju3cc
III.7.3. Bộ Vị Trí, quyển 5&6: https://tinyurl.com/4kefjx9b

*-----*

B. HÁN TẠNG - BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT

I. LUẬT TẠNG

I.1. Luật Ma-ha Tăng-kỳ (Mahāsaṅghika)

Tập 1: https://tinyurl.com/28srakzz
Tập 2: https://tinyurl.com/57j4d2u5
Tập 3: https://tinyurl.com/bdzf2sby
Tập 4: https://tinyurl.com/4cep7zvw

I.2. Luật Tứ Phần. 

Tập 1: https://tinyurl.com/ynder7yb
Tập 2: https://tinyurl.com/y9rutf98
Tập 3: https://tinyurl.com/ywmmtdyf
Tập 4: https://tinyurl.com/2vsn5pns
Tập 5: https://tinyurl.com/3crynsh7
Tập 6: https://tinyurl.com/ysva3r76
Tập 7: https://tinyurl.com/3734bjv3 (Tổng mục lục)

I.3 Luật Ngũ Phần.
https://tinyurl.com/5yxmrw3m 

I.4. Luật Thập Tụng
https://tinyurl.com/2p8b2t3d

*

II. KINH TẠNG

II.1. Trường A-hàm. 581 trang, 50.8 MB
https://tinyurl.com/3n4xxvcn

II.2. Trung A-Hàm. 1641 trang, 143.5 MB
https://tinyurl.com/2p9sk9z5

II.3. Tạp A-Hàm. 1784 trang, 211.6 MB
https://tinyurl.com/3uhw4s2d

II.4. Tăng Nhất A-Hàm. 1122 trang, 105.3 MB
https://tinyurl.com/2sdtuy26     

II.5. Tiểu A-hàm

. Kinh Pháp Cú (T0210) 
https://tinyurl.com/2p87k65c 
. Kinh Pháp Cú Thí Dụ (T0211)
https://tinyurl.com/mr27mp86
. Kinh Xuất Diệu (T0212) 
https://tinyurl.com/53346k9h
. Kinh Pháp Tập Yếu (T0213) 
https://tinyurl.com/2d6zexky
. Kinh Phật Thuyết Nghĩa Túc (T0198) 
https://tinyurl.com/5x68jzy3
. Kinh Na-tiên Tỳ-khưu (T1670) 
https://tinyurl.com/3cpam9bw 
. Kinh Hiền Ngu (T0202)
https://tinyurl.com/29p7f73t
. Kinh Tứ Thập Nhị Chương (T0784)
https://tinyurl.com/2sh6vhy8

IIb. Bản dịch Việt trong Tiểu tạng Thanh văn:
IIb.1. Trường A-hàm. Tuệ Sỹ dịch và chú.  

IIb.2. Trung A-hàm. Tuệ Sỹ dịch và chú. 

IIb.3. Tạp A-hàm. Thích Đức Thắng dịch, Tuệ Sỹ chú thích. 

IIb.4. Tăng nhất A-hàm. Thích Đức Thắng dịch, Tuệ Sỹ chú thích. 

*

III. LUẬN TẠNG (A-TỲ-ĐÀM)

III.1. A-tỳ-đạt-ma Tập Dị Môn Túc Luận 
https://tinyurl.com/527kmdr7

III.2. A-tỳ-đạt-ma Pháp Uẩn Túc Luận
https://tinyurl.com/4uk23r6n

III.3. Thi Thiết Luận 
https://tinyurl.com/yc4xjf2m

III.4. A-tỳ-đạt-ma Thức Thân Túc Luận
https://tinyurl.com/mr4duj88

III.5. A-tỳ-đạt-ma Giới Thân Túc Luận
https://tinyurl.com/y7td7u5f

III.6. A-tỳ-đạt-ma Phẩm Loại Túc Luận
https://tinyurl.com/mexv3s83

III.7. A-tỳ-đạt-ma Phát Trí Luận
https://tinyurl.com/yvsrxpt6

*-----*