Saturday, 31 December 2022

Phiên phiến tuổi già - Tràm Cà Mau (2007)

Phiên phiến tuổi già
Tràm Cà Mau (2007)


Bạn tôi, có ông tự xưng là Hai Hô. Bởi răng ông hô. Ông rất thích thú với danh xưng nầy. Ông thường nói rằng, ngày xưa còn trẻ, hăng tiết vịt, ai nói gì, đúng hay sai, cũng tìm lời cãi lại . Bây giờ già rồi, nghe ai nói gì cũng thấy xuôi tai, đúng hết. Bởi già rồi, có nhiều kinh nghiệm, thấy được đúng, sai, có nhiều mặt khác nhau.

Bà mẹ ông đã 92 tuổi, mà thường hay nói câu: "Mai mốt tôi già rồi thì..." Mỗi lần nghe câu đó, ông vội cắt ngang lời mẹ, và hỏi lại: "Hơn chín mươi tuổi rồi mà chưa già hở mẹ? Thế thì bao nhiêu tuổi mới là già?" Bà cụ chỉ cười, không đáp lại. Vợ ông thường nháy mắt, nhìn ông che dấu nụ cười bí mật. Người em ông nói: "Theo tôi, thì không có ai già, và cũng chẳng có ai trẻ. Già hay trẻ, là một khái niệm rất tương đối. Hồi tôi mười bốn, mười lăm tuổi, thấy các chị hàng xóm mười bảy hay mười tám tuổi là đã già khú đế. Già như sắp mua hòm được rồi. Thế mà khi tôi sáu mươi tuổi, tôi thấy các bà năm mươi là trẻ, và các bà bốn chục tuổi là bọn con nít. Thế thì già hay trẻ, không phải tùy theo số tuổi của họ!"

Ông Hai nói, có một lúc nào đó, con người trở nên già. Nầy nhé, mỗi khi đi ra đường, nếu chỉ thấy các bà già nhìn mình, mà các cô gái trẻ không dòm mình nữa, thì phải hiểu là mình đã già rồi. Lại nữa, mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, tóc rụng nhiều, đừng tưởng mình trở nên thông thái, mà phải biết đó là dấu hiệu già. Nếu mình thấy mọi người dường như trẻ lại, thì chính mình già đã đi, vì mình so sánh thiên hạ với cái bóng của mình trong gương soi mỗi ngày.

Ông nói, tuổi già báo hiệu khi sinh lý bắt đầu yếu. Nhịp độ "gần gũi" của vợ chồng thưa dần. Và đôi khi cố gắng làm vừa lòng bà vợ theo định kỳ, mà không có hứng khởi. Những khi đó, nếu bà vợ gạt ra, không cho gần gũi, thì trong lòng lại mừng húm, vì có cái cớ để không làm tròn "bổn phận" mà không áy náy. Ông nói, bực nhất là những lúc mình đang hăng, đang nóng máu, sắp xáp chiến, mà bà vợ cứ cằn nhằn về những chuyện không đâu, như cái hàng rào bị gió vật nghiêng, cây hoa hồng lá bị bạc mốc, con chó bị rận bọ chét. Thế là cả cái thân già nó xìu xuống như cọng bún thiu. Chẳng làm ăn chi được nữa cả. Đành bỏ cuộc vui nửa chừng. Khi còn trẻ, vào những lúc sắp gay cấn như thế nầy, thì dù cho sét nổ trên đầu, cũng không nghe, không biết.

Có người hỏi ông sao không dùng viên thuốc thần kỳ, làm cho vợ chồng vui như thuở ba mươi. Ông nói, đừng tin mà chết sớm, đau tim mà dùng thuốc nầy, thì lăn đùng ra mau lắm. Hồi trước, ông cũng xin ông bác sĩ cho toa thuốc nầy, bác sĩ ấy không chịu. ông cũng hơi giận, nhưng bây giờ thì cám ơn, vì biết được cái nguy hại của nó. Vui chốc lát, mà bỏ mạng, lãng nhách. Theo ông, thì vợ chồng già, ghiền cái hơi của nhau hơn là chuyện vật nhau lăn lộn trên giường. Chỉ cần luồn tay vào áo bà vợ già, mà tìm trái mướp, cũng đủ làm cho bà ấy vui rồi.

Nói về cái tai điếc, ông nói: "Có một lúc nào đó, mình nghe nhạc, cứ tưởng là các anh chị ca sĩ dạo nầy không còn hát hay như ngày xưa. Không phải vậy đâu. Thời nào cũng có ca sĩ giọng hay. Nghe không hay vì cái tai mình đã nặng, lãng. Rồi cứ tưởng nhạc dở. Đó là dấu hiệu già. Nhất là khi nghe truyền thanh, truyền hình, thì con cái, hàng xóm, cứ than phiền mở âm thanh quá lớn. Theo mình, âm thanh như vậy chỉ vừa đủ nghe, mà họ bảo oan cho mình là quá lớn!"

Ông Hai nói với một bạn già rằng, khi già, lãng tai, điếc tai cũng có cái lợi lớn. Là khi nào vợ nói lời êm ái, dịu dàng, yêu thương, thì nghe cho sướng tai. Khi nào bà trở chứng trách móc, chê bai, than vãn, nói nặng lời, thì cứ nhè nhẹ gỡ cái máy trợ thính ra, chỉ thấy bà nhóp nhép cái miệng, trông tức cười lắm. Không nghe, thì không bực mình, không giận hờn, mà còn cười, đôi khi nụ cười rất rạng rỡ, cười rất dễ thương nữa. Bà vợ nói như gió vào phòng trống, thấy ông chồng không giận, mà còn cười vui, thì đành im miệng cho đỡ tốn hơi. Và đôi khi còn thương thêm, vì tưởng ông chồng khéo nhịn. 

Nhưng một ông bạn khác, nói rằng, khi bà vợ trách móc và thở than, thì để bà ấy nói, cho xả ra, nhẹ bớt bực tức trong lòng. Bởi vậy, mỗi khi vợ ông than vãn, trách móc, thì ông mừng và lắng nghe. Nếu bà ngưng nói, thì hỏi rằng em có gì cần nói thêm, than vãn thêm không, hãy nói cho hết đi, anh nghe đây. Thế là bà dịu xuống, và bà cảm thấy hơi quê quê, nên thôi.

Ông Hai nói, khi già, mắt yếu, cầm cuốn sách lên, là móc túi tìm cái kiếng. Không có kiếng thì đành chịu thua. Khi đó, mình ít đọc sách hơn ngày xưa. Rất nhiều bạn ông than phiền rằng, dạo nầy, sách vở, báo chí họ in chữ nhỏ hơn, khó đọc. Không phải đâu. Mắt mình mờ, kém, chứ không phải chữ in nhỏ lại. Mấy anh trẻ hỏi ông có bực vì mắt kém không, ông Hai nói rằng, việc chi mà bực? Phải mừng chứ đừng bực. Mừng và cám ơn khoa học tiến bộ, giúp cho mình còn thấy rõ hơn, nghe rõ hơn, mà nếu mình sống mấy trăm năm trước, thì đã mù loà, và điếc đặc rồi. Dù cho nghe ít, thấy không rõ hoàn toàn, nhưng có thấy, có nghe, đã là quá quý rồi. Tuổi đã cao, mà còn thấy được người thương yêu, con cháu, bạn bè. Còn xem truyền hình, phim truyện, thì đã nhận được rất nhiều ân phước của trời ban cho. Phải biết cảm nhận và cám ơn trời.

Bây giờ, đi đâu xa ông cũng ngại. Đi du lịch, điều nghĩ đến trước tiên của nhiều người già như ông, không phải cảnh đẹp, điều hay, cái lạ, mà nghĩ đến cái cầu tiểu. Không biết nơi đó có hay không. Cứ vào quán xá, hội trường, thì có thói quen, trước tiên là xem cầu tiểu nằm đâu. Quán nào mà không có cầu tiểu, thì đừng hòng có nhiều ông bà già bước vào. 

Ông rất sợ mai đây xui xẻo, người ta tôn ông lên làm lãnh tụ. Vì thấy mấy ông lãnh tụ đứng đọc diễn văn, họp báo, duyệt binh, diễn hành, đứng hàng giờ, phải nín tè, khó chịu, mệt và khổ lắm. Ông cũng rất ngại ngủ nhà lạ, cứ nửa đêm, nhiều lần mò mẫm trong bóng tối dậy đi tiểu. Xối nước ào ào làm người khác mất ngủ. Chưa kể lạ nhà, đêm tối, lạc đường mở lầm cửa phòng vợ, con người ta, thì cũng bẽ bàng.

Một lần, bà vợ đè đầu ông xuống mà nhuộm tóc cho ông. Mấy hôm sau, lên xe công cộng, ngồi vào ghế dành cho người cao niên. Ông thấy có một "lão trượng" đứng nhìn ông chằm chằm, như ngầm hỏi, sao không nhường ghế ngồi cho người già cả. Ông đoán chắc, chín mươi phần là "lão trượng" kia còn nhỏ tuổi hơn ông. Ông cứ ngồi lì, làm lơ. Nhưng khi thấy hành khách chung quanh nhìn, như thúc dục, như nhắn nhủ bằng ánh mắt khó chịu, thì ông nhột quá, đứng dậy nhường ghế cho lão trượng kia. Ông nghĩ, không lẽ phải thét lên là tôi còn già hơn lão, và không lẽ phải móc căn cước ra mà chứng minh? Thôi thì đứng dậy, cho bớt nhột và ngượng ngùng. Rồi tự an ủi rằng, đứng cũng là một cách tập thể dục tốt.

Khi có ai hỏi tuổi, ông Hai Hô cũng tự cộng thêm gần chục năm. Thế là thiên hạ rối rít khen trẻ, xít xoa hỏi làm sao mà giữ được trẻ trung như thế. Ông cười, nói đùa rằng, cứ theo đúng lời dạy vàng ngọc của người xưa để lại, là "đêm bảy, ngày ba" cho khí huyết lưu thông, điều hoà, thì cơ thể trẻ trung mãi. Ông nói rằng, nếu có khai sụt đi năm ba tuổi, cũng chẳng có lợi ích gì, vì mình đâu có toan tính chinh phục, tán tỉnh ai. Khai sụt tuổi, đôi khi người ta còn chê, là trông già trước tuổi. Lại nữa, phong tục của mình, là kính trọng người lớn tuổi. Nhưng các bà, các cô thì khi nào cũng dấu tuổi, cứ 18 tuổi thì khai là 16, khi 20 khai là 18, và lúc 23 khai là 20. Cứ khai sụt vài ba tuổi, và cảm thấy sướng khi được người khác tin. Khi phải đoán tuổi, ông thường rộng rãi hạ xuống cho các bà, các cô từ năm đến bảy tuổi, để họ sướng, mà ông không mất chi cả, cũng là làm một điều thiện nho nhỏ trong ngày, làm cho người khác vui, yêu đời hơn.

Dạo sau nầy, khi ông ăn uống, thường thức ăn bị đổ vung vãi. Nhiều lần ông tự bảo là cẩn thận. Nhưng hình như cái tay nó không hoàn toàn theo mệnh lệnh của cái đầu nữa. Đưa cơm vào miệng không gọn gàng, cứ rớt ra vài chút. Đôi khi tay run, mà ông không biết. Ông cho đó là dấu hiệu của tuổi già. Nhiều lần bà vợ ông nhăn nhó, la nạt, vì làm đổ thức ăn. Một lần ông nhớ lại câu chuyện đứa bé đẽo cái chén gỗ, cha mẹ hỏi đẽo làm gì, nó nói là để sau nầy cho cha mẹ ăn, như cha mẹ đã cho ông nội ăn chén gỗ. Ông nhỏ nhẹ nói với vợ rằng, nhờ bà đẽo cho ông một cái chén gỗ, rồi mỗi bữa dọn cho ông ăn sau vỉa hè, bên thềm. Nghe thế, bà vợ nhìn ông một lúc lâu, rồi rưng rưng nước mắt. Từ đó, bà hết cằn nhằn khi ông làm đổ thức ăn. 

Ông hay quên. Đôi khi đi xuống nhà kho, mà ngẩn ngơ không biết định xuống để làm gì. Quên trước, quên sau. Một bạn già của ông nói, nếu "cái đó" mà ông trời không bắt dính chặt vào người, thì có khối ông già để quên trên xe buýt, trên tàu điện, ngoài công viên, và khi cần đi tiểu, thì chạy quanh, quýnh lên, mà tìm không ra. Còn triệu chứng khác nữa, là làm biếng tắm, đôi khi hai ba ngày ông chưa tắm. Cứ nghĩ là có làm chi dơ đâu mà phải tắm. Nhưng rồi nhận ra, thì tuổi già sợ lạnh, nhạy cảm với cái lạnh, nên ngại tắm. Vì thế mà có nhiều cụ già có mùi, họ đâu biết. Ông phải rán tập thói quen, nóng lạnh chi cũng rán tắm mỗi ngày một lần, ngoại trừ trường hợp đặc biệt.

Bà mẹ ông 92 tuổi, đi ăn tiệm, cắn càng cua-rang-muối nghe rau ráu. Thực khách trong tiệm tròn mắt ra mà nhìn. Còn ông, thì ngay cả bánh mì mềm của Mỹ cũng không dám cắn, dùng tay xé nhỏ ra rồi bỏ vào miệng. Bà mẹ ông, ăn uống không kiêng cữ chi cả. Thịt heo quay, vịt quay, cá chiên, gà chiên, bún bò giò heo, phở, nước béo, các thứ độc địa đều ăn tuốt. Thế mà bà không cao mỡ, không cao máu, dù thân thể tròn quay. Cái đó cũng nhờ trời cho. Nhiều bác sĩ cũng khuyên bà, cứ ăn uống thả dàn, cho sướng cái miệng, đừng kiêng cữ làm chi nữa khi ở cái tuổi nầy.

Nhiều ông bạn ông, kiêng khem kỹ lắm, kiêng đủ thứ. Họ xem ba thứ sau đây ngang hàng với thuốc độc: Ngọt, mặn và béo. Họ ăn lạt, không dám ăn đường, ăn béo. Thấy đồ chiên, là họ đã tái mặt. Họ ăn mãi quen miệng, và thấy các thứ thức ăn không mùi, không vị kia cũng ngon. Bởi khi đói, thì cơm thiu, cơm cháy cũng thành ngon. Có kẻ bảo, uổng quá, phí thức ngon của trời cho. Nhưng những người kiêng cữ nầy nói rằng, không tội chi đem chất độc vào người, rồi bệnh hoạn, hối không kịp.

Một ông bạn cho ông Hai biết rằng, theo nghiên cứu của đại học Rockefeller, thì có ba điều kiện để cho người già khỏe mạnh và ít bệnh là: 1) ăn bằng một nửa của bữa ăn bây giờ, 2) thể dục thường xuyên, và 3) làm tình đều đều. Ông không tin, và cho rằng, cái đó chỉ đúng cho người Mỹ mà thôi. Mỗi bữa, họ ăn miếng thịt to bằng bàn tay, một bữa ăn của họ, mình có thể ăn ba bốn ngày mà chưa hết. Nếu mình chỉ ăn bằng một nửa của bây giờ, thì sẽ suy dinh dưỡng, sớm đau ốm mà chết. Còn chuyện thể dục thường xuyên, thì đúng trăm phần trăm. Phần làm tình đều đều, có lẽ không ai chắc, vấn đề là còn làm được hay không, mà còn đòi đều đều. Mình cứ ăn bình thường, đừng ăn quá no, cũng đừng ăn đói. Cứ theo cái đạo trung dung của người xưa đã bày ra từ mấy trăm năm nay. Rượu chè, nếu uống được, thì uống vừa vừa, cũng tốt cho sức khoẻ. Đừng say sưa là được. Lâu lâu cũng rán vui vợ, vui chồng cho khỏi lạt lẽo. Ông Hai đã chữa bệnh biếng ăn cho nhiều bạn bè rất công hiệu. Đó là đừng ăn vặt, và chờ cho khi thật đói mới ăn, chưa đói rã thì chưa ăn. Như vậy thì ăn gì cũng thấy ngon.

Ông có quan niệm phóng khoáng hơn về sự sống và cái chết. Ông cho rằng, chết là một tiến trình của đời sống, hợp với luật thiên nhiên của tạo hóa. Sợ chết là vô lý. Không ai tránh khỏi cái chết, không sớm thì muộn. Ai cũng sẽ chết cả. Ngay cả Phật, Chúa, thần thánh cũng phải chết, huống chi mình là người trần mắt thịt. Chúa Giê-Su chết lúc mới 33 tuổi. Phật cũng chết, thọ không bằng các ông, các bà cụ bây giờ. Cứ thử nghĩ, nếu già mà không chết, thì bây giờ trên thế giới có đến hơn chín mươi phần trăm cụ già, cụ nào cũng mấy trăm tuổi, mấy ngàn tuổi, ho hen, run rẩy, chậm chạp. Lấy ai làm lao động mà nuôi các cụ? Nhân loại sẽ đói cho vêu mỏ ra. 

Già thì phải chết để cho thế giới được trẻ trung hoá. Khi nào anh chị nghe tin một người già chết, mà lòng không buồn, không thương tiếc, thì anh chị đã giác ngộ rồi đó. Có chi mà buồn? Nếu người chết không để lại một gánh nặng gia đình, một đàn con dại cần nuôi dưỡng, dạy dỗ, một bà vợ chân yếu tay mềm, thì mừng cho người ta thoát được cái hệ lụy của trần gian. Khỏi lo công ăn việc làm, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo thương ghét, ghen tuông, giận hờn, khỏi lo khai thuế cho đúng hạn kỳ. Khoẻ ru. Nếu người chết đã cao tuổi, trong nhiều năm nằm một chỗ, không nói năng, bại liệt, ăn bằng cách bơm qua ống nối với bao tử, nghe họ chết mà mình khóc lóc, tiếc thương, bi ai, thì hoá ra là không biết điều. Muốn người ta bị kéo dài thêm cái cực hình đó lâu hơn nữa, rồi mới được chết sao? Nhiều khi con cháu mừng cho thân nhân họ được chết, mà mình thì sụt sùi thương tiếc.

Ông thường nói, trong tuổi già, sức khoẻ là quý nhất. Nhưng nếu ai đó, có sức khoẻ tốt, không hề đau ốm, thì cũng là một sự nhàm chán. Họ đâu biết họ đang có cái quý báu nhất trong đời. Lâu lâu, phải đau vài trận, để nhắc nhở, và nhớ rằng, không ốm đau là sung sướng, là hạnh phúc lắm lắm. Làm sao bọn trẻ, và những người khoẻ mạnh biết được cái hạnh phúc, cái sung sướng của người già, khi buổi sáng ngủ dậy, mà thân thể không đau rêm, nhức nhối? Cũng như nếu người ta chưa sống dưới chế độ kềm kẹp, hà khắc, thì làm sao biết được nỗi sung sướng khi được đặt chân lên miền đất tự do? Nên quan niệm rằng, với sức khoẻ nào cũng tốt cả, đừng so sánh với trường hợp tốt hơn. Cứ vui với cái sức khỏe mà mình đang có. Được khoẻ nhiều thì sướng nhiều, khoẻ ít, cũng sướng hơn, vì chưa đến nỗi tệ hại lắm. 

Nhớ đi khám bác sĩ đều đều, để khám phá ra bệnh, kịp thời chạy chữa. Một người bạn ông cho biết, không dám đi khám bệnh thường niên, vì sợ "bói ra ma, quét nhà ra rác". Thế nào bác sĩ cũng tìm ra bệnh nầy, bệnh nọ trong cơ thể và thêm lo. Cứ để thế, rồi khi bệnh nặng thì chết. Bà vợ ông nầy khổ sở lắm, nhưng không thuyết phục ông được. Ông còn nói, bác sĩ thường cho uống thuốc chữa bệnh nầy, thì sinh ra thêm bệnh khác nữa. Hoặc bác sĩ chẩn đoán sai bệnh là thường. Có người đọc báo cáo y khoa, cho biết trên nước Mỹ, mỗi năm có đến hai trăm ngàn người chết, hoặc thương tật vì bác sĩ kém hiểu biết, hoặc sơ suất gây ra. Theo ông Hai Hô thì đừng sợ. Vì bác sĩ giỏi nhiều hơn bác sĩ dở, và bác sĩ có lương tâm nhiều hơn bác sĩ thiếu lương tâm. 

Đừng vì một số trường hợp xấu, mà sợ đi khám bệnh. Khám bệnh, để biết trước mà đề phòng, để chữa trị khi bệnh mới chớm, còn kịp, chữa trị dễ dàng hơn. Để ung thư ăn tràn lan ra rồi, thì chỉ có phép lạ, mới cứu được. Người ta, có thể mạnh khỏe cho đến khi chết. Đó là trường hợp hiếm hoi. Nhưng đau yếu trong tuổi già là thường, không đau yếu là bất thường. Có một người than rằng, cứ đi vào, đi ra trong nhà hoài, chán quá. Ông Hai bảo rằng, được đi vào đi ra như thế là sướng lắm rồi, sao mà chán, vì có nhiều người khác mong được đứng dậy đi vài bước, mà không làm được, vì bệnh. Nhưng theo ông, thì cái người nằm liệt trên giường, cũng tìm được cái thú vui riêng, khi nghe nhạc, nằm mơ mộng, nghĩ đến các kỷ niệm thời còn vàng son, nhớ đến những tội lỗi nho nhỏ mà họ đã phạm một cách cố ý và thích thú.

Ông Hai Hô tập thể dục đều đặn. Ông nói không ai chối bỏ được ích lợi của thể dục, dù già dù trẻ. Không bao giờ trễ để bắt đầu tập thể dục. Không thể dục, thì tấm thân nhão nhẹt ra, rất dễ làm mồi cho bệnh hoạn. Đi bộ trong tuổi già là tốt nhất. Còn khoẻ, thì đi nhanh, yếu thì đi chậm hơn, yếu hơn nữa, thì chống gậy mà đi. Có vận động là tốt. Đi bộ, xương đỡ rỗng, đỡ gãy tay chân khi vấp té. Đi bộ cũng làm cho mặt mày trẻ ra, lưng đỡ còng, thân thể đỡ đau đớn, mệt mỏi. Đi bộ cũng vui, nhất là đi với vợ, với chồng, nói đủ thứ chuyện vui buồn. Nhưng khi bà vợ bắt đầu cằn nhằn vì những chuyện không đâu, thì phải giả vờ chạy, để bà lại phiá sau, cho bà nói với cột đèn, cằn nhằn với cây cỏ. Không có vợ đi cùng, thì đi với bà cụ hàng xóm cũng vui. Bà sẽ không bao giờ dám cằn nhằn ông vì những chuyện không đâu. Bà sẽ lịch sự hơn. 

Đi với bà hàng xóm, ông bảo, đừng sợ thiên hạ hiểu lầm, cũng đừng sợ chính bà ấy hiều lầm. Không hiểu lầm thì tốt. Hiểu lầm thì càng tốt hơn, vì làm cho bà ấy vui, làm bà nghĩ là còn sáng giá, còn có người ngưỡng mộ đến cái nhan sắc mùa thu của bà. Bà sẽ yêu đời hơn, sẽ ăn ngon, ngủ được, thế thì ông cũng đã làm được một điều thiện nho nhỏ. Ông nói, ông được nghe chuyện một bà cụ 88 tuổi, bà nói rằng, phải đi bộ, phải tập thể dục để chống lại bệnh hoạn. Mỗi ngày bà đi bộ hơn một giờ. Bà nói rằng: "Mình phải biết tự thương mình. Con cái có thương mình, chúng có thể cho tiền bạc, quà cáp, chứ không cho mình sức khỏe được. Mình phải tự lo lấy, để mà sống cho vui, sống cho có chất lượng." Ông nói rằng, thể dục làm tăng tuổi thọ, chứ không làm giảm. Ngoại trừ ham tập, tập quá sức, thì lăn kềnh ra mà chết, mau lắm. Bơi lội là tốt nhất, vận động đủ các thứ bắp thịt. Nhưng tuổi già, thường sợ nước, sợ lạnh. Cái gì sợ thì không nên làm, hại cho sức khoẻ, hại thần kinh.

Mỗi lần nghe có người than là mất ngủ, ông thưòng nói say sưa về bệnh nầy. Theo ông thì những người nầy, đã ngủ đủ, ngủ thừa, nên không ngủ thêm được, mà tưởng là mất ngủ. Vì ban ngày, họ cứ thấy mệt, mắt ríu lại, là ngủ những giấc ngắn. Nên biết, ngủ một giấc chùng 15 phút lúc ban ngày, có thể tương đương với một giấc ngủ 1 hay 2 giờ ban đêm. Mỗi đêm, người bình thường, chỉ cần ngủ ngon chừng 3 hay 4 giờ là đủ mạnh như gấu bắc cực. Nếu không ngủ ngày, thì đêm về ngủ dễ lắm. Không phải tuổi già là mất ngủ, bằng chứng cho thấy chó mèo già ngủ li bì, ngủ ngày, ngủ đêm, ngủ liên miên. Người già dư thì giờ, ban ngày ngủ rồi, thì ban khó ngủ là chuyện thường. Ông thường nói rằng, đừng sợ mất ngủ. Khi không ngủ được, thì dậy đọc sách, viết thư, làm thơ, xem truyền hình, gõ máy vi tính, đọc thư bạn bè, hãy tận hưởng cái thời gian quý báu đang có. Rồi chờ cho thật buồn ngủ, không thức nổi nữa, vào giường nằm, sẽ ngủ được ngay, và ngủ một giấc ngon lành cho đến sáng. Đừng ép giấc ngủ, ép giấc ngủ sẽ khó ngủ hơn. 

Cũng đừng uống thuốc ngủ. Đại kỵ. Uống thuốc ngủ nhiều, làm hư hại hệ thống thần kinh. Đừng nằm nhắm mắt mà đếm cừu, nếu phải đếm, thì đếm những người tình cũ. Mau ngủ hơn. Nếu đời chỉ có một hai người tình thôi, thì đừng đếm một hai, một hai, không có lợi. Hoặc nằm mà hát trong trí những bài ca du dương, đẹp, gợi nhiều kỷ niệm êm ái, thân thương. Bà chị ông, cứ than phiền là mất ngủ, nhưng khi đi chơi, cứ leo lên xe thì quẹo đầu ngáy khò khò, ngủ suốt buổi, suốt ngày, ngủ mà quên xem phong cảnh. Ngủ như thế thì no rồi, dư rồi, nên khi đến khách sạn, thì làm sao mà ngủ thêm được nữa. Bà chị nói, đi chơi xa sợ mất ngủ. Bà ấy thực sự ngủ nhiều hơn ai cả, mà bà tưởng là mất ngủ. 

Một chị khác than là mất ngủ kinh niên, ghé nhà ông chơi. Ông nói là sẽ chữa bênh mất ngủ cho chị. Ông dẫn chị kia đi chơi, suốt ngày lội bộ, chị vừa đi vừa ngủ gật, ông không cho ngủ. Ông nhờ hết việc nầy qua việc nọ, không để chị có thì giờ mà ngủ gật. Đêm không cho đi ngủ sớm. Mới mười giờ đêm, mệt quá chị năn nỉ xin đi nằm, và đánh một giấc ngon lành dài đến sáng hôm sau. Trong mấy hôm liên tiếp đêm nào chị cũng ngủ li bì, ngủ ngon, không cần thuốc thang chi cả. Ông truyền bí quyết, là không ngủ ngày, mệt mấy cũng không ngủ, ban đêm đừng đi ngủ sớm, phải chờ cho mắt ríu lại, mở không ra, mới đi ngủ, thì ngủ ngon.

Nhiều người già tự đặt cho họ một kỷ luật để sống. Theo ông, thì có kỷ luật cũng tốt, mà không kỷ luật lại càng khỏe hơn. Nhiều người tính tình nghiêm khắc. Mọi sự đều phải răm rắp đúng như quy định mới chịu. Tội chi vậy, nếu không răm rắp, mà không chết ai, hại ai, thì răm rắp làm chi cho khổ mình, khổ người? Nên dễ dãi với mọi sự, dễ dãi với chính bản thân mình, kẻo tội nghiệp nó. Khắc kỷ cũng là điều hay. Nhưng tội gì mà tự khắt khe với chính mình, người khác không khắt khe thì thôi. Nên cứ xem mọi sự như trò chơi. Chơi vui nhiều thì tốt, vui ít cũng tốt luôn. Ông không mong cái tuyệt đối, hoàn hảo. 

Trong một cuộc chơi, ông không hy vọng được tất cả mọi người tham gia, có ít vui ít, có nhiều vui nhiều. Hai ba chục người cũng vui, mà năm bảy bạn bè cũng vui luôn. Nếu hụt một cuộc chơi, một cuộc gặp gỡ, ông cũng không tiếc, chẳng sao cả, ông về nhà mở nhạc, mở TV ra mà thưởng thức. Ông nghĩ, được thêm một dịp nghỉ ngơi, yên tĩnh. Có lần đi trể máy bay, ông bình tĩnh xin đi chuyến sau mà không được. Ông cũng cười, không bực mình, quay về nhà, pha một bình trà, đem một tập thơ ra mà ngâm vịnh, nằm ngửa mà thưởng thức cuộc tranh tài thể thao. Ông nói, đôi khi nhờ trễ một chuyến may bay mà sống sót, nếu máy bay rớt. Chiều ra ngoài quán uống cà phê xem sinh hoạt phố phường. Nói chuyện tào lao với chủ quán.

Ông không bao giờ tranh luận gay gắt với ai. Ông nói, tranh luận làm chi cho mệt, rồi giận nhau? Trong tuổi già, khi có cuộc tranh luận, thì tránh là tốt nhất. Nếu không tránh được, thì chịu thua đi, thắng làm chi, để cho đời ngắn lại? Thắng tranh luận, làm thiên hạ ghét, làm mất lòng bạn bè, làm người bị thua tức giận, và nóng mặt, không ưa mình. Không ai ghét người thua trong cuộc tranh luận. Người thắng cuộc, dễ bị ghét hơn. Thử đánh một ván cờ xem, nhường cho đối phương thắng, làm họ vui hơn, không chừng mình đưọc đãi đằng hậu hỉ hơn. Đến nhà người ta, mà cãi nhau, tranh thắng, làm họ mất mặt với vợ con, với bạn bè, thì đừng mong chi được tiếp đãi thắm thiết. Khi thua, mình không thiệt thòi, mất mát chi cả, mà lại được thương, tại sao không chọn tình thương, mà chọn cái bị ghét. Thắng tranh luận, cũng chưa chắc mình đã giỏi hơn người, mà giỏi hơn để làm chi? Và cũng chưa chắc ngưòi ta đã chịu cái lý của mình là đúng. 

Trong tình vợ chồng cũng vậy, nhiều ông nhiều bà tranh hơn thua từng ly, từng tí, cãi vả nhau tưng bừng về những điều không ích lợi chi cho ai cả. Rồi giận nhau, nói nặng nhau, làm nhau đau đớn vì lời nói thiếu tử tế, thiếu lịch sự. Có ích lợi gì đâu? Tranh nhau thắng thua, làm sứt mẻ hạnh phúc gia đình, làm mất đi thì giờ quý báu bên nhau, làm không khí gia đình nặng nề. Đừng bao giờ nói là phải làm cho ra lẽ, không thì hoá "lừng". Hãy cứ để cho chồng mình, vợ mình "lừng" đi, cho họ sướng. Tại sao đi ra ngoài, không dám "lừng" với thiên hạ, mà về nhà lại "lừng" nhau làm chi cho mất vui. 

Ông thường nói, cứ chịu thua đi là khoẻ nhất. Ông đã thua, thì không việc chi mà ai đó gây hấn thêm. Đúng hay sai, ông tự biết. Không cần tranh luận nhiều. Có tranh luận, thì cũng chưa chắc đã thuyết phục được đối phương mà không gây mất mát. Mỗi lần phải tranh luận với ai, thì ông nhớ lại chuyện ông Pol Pot. Ông nầy đã giết chết hơn hai triệu dân vô tội, tức khoảng một phần ba dân số Kampuchia của ông thời đó. Thế mà cuối đời, khi sắp chết, ông Pol Pot nói với một phóng viên Tây phương rằng, những điều ông đã làm, là lợi ích cho dân tộc của ông. Nhớ chuyện đó, làm ông đỡ ngứa miệng xen vào những cuộc tranh luận.

Khi có ai chê bai ông, ông chẳng bực mình, không giận hờn, mà cứ cười, và xem như không. Ông tự nhủ, biết đâu ông cũng đáng chê, đáng trách. Nghe thiên hạ chê, để mà sửa mình, biết mình còn cái chưa hay, sai sót. Không phải ông là kẻ mặt dày không biết xấu hổ, nhưng thiên hạ chê, mà không phản ứng, thì như gió qua truông. Có một ông khác, bị vợ chê bai hoài, chê đủ thứ. Ông nầy chỉ cười, mà nói với bà vợ rằng, ông không ngờ bà xui xẻo đến thế, lấy phải một thằng chồng tệ hại như vậy, tội nghiệp cho bà quá. Bà vợ nghe mà chột dạ, và biết đã ăn nói quá trớn.

Khi nghe ai khoe khoang, ông cũng không bắt bẻ, không lật mặt thật của họ ra, sợ làm cho họ xấu hổ, bẽ bàng. Ông cứ giả vờ tin, để mà đãi họ vài phút vui sướng, cũng là làm được một việc thiện nho nhỏ. Ông không mất gì, và chẳng thiệt hại cho ai, mà cuộc đời nầy thêm vui, thêm tử tế. Bởi nghĩ thế mà ông làm.

Ông Hai Hô quan niệm rằng, trong tuổi già, có hoài bảo thì cũng tốt, mà không có hoài bảo chi cả thì tốt hơn, và khôn ngoan hơn. Khi trẻ, nhiều thì giờ, nhiều năng lực, mà chưa có hoài bảo nào làm xong, thì khi già rồi, mong chi đạt được? Tội chi đeo vào thân cái hoài bảo cho khổ. Già rồi, đừng xem cái gì là quan trọng cả. Từ danh vọng, tiền tài cho đến tình yêu. Ngay cả cái mạng sống của mình, cũng đừng xem là quá trọng. Có lần, ông đến thăm một nhà văn đang nằm thoi thóp, miệng ngậm một cái que gỗ có thấm nước cho đỡ khát, sắp chết vì ung thư. Ông nhà văn còn thao thức vì một tác phẩm để đời chưa khởi đầu được. Chết chưa an lòng. Ông nói: "Thôi bác ơi, chuyện gì mình chưa làm được, thì thế nào con cháu mình sau nầy cũng làm. Yên tâm mà dưỡng bệnh đi."

Ông Hai Hô cho rằng, cứ năm ba ông bà bạn già gặp nhau, uống vài ly trà, cà phê mà nói chuyện nhảm cũng là một thứ hạnh phúc trong đời. Ông nói, dù đến để nghe thằng bạn già nó chửi mình, cũng cứ vui, được người ta chửi, tức còn có người để ý đến mình, còn hơn là không ai khen, ai chửi cả. Những dịp ra mắt thơ, ra mắt sách, ông thường tham gia cho cuộc họp thêm xôm tụ. Cho tác giả sướng. Ông khoái các buổi ca nhạc cây nhà lá vườn, tài tử. Nó cũng có những cái hay của nó. Những buổi họp mặt anh em bạn cũ, ông không bao giờ bỏ qua, ông nói là không tham dự thì uổng lắm. Ông cho rằng, tuổi già, mà còn gặp lại được bạn xưa, thì không còn gì quý báu hơn. Nằm nhà xem sách, xem truyền hình, đá banh, đâu vui bằng gặp bạn cũ. Gặp dịp vui, thì cứ vui kẻo uổng, biết mình còn sống được bao lâu nữa mà mãi phí ngày giờ chạy theo lợi lộc?

Mỗi khi có ai mời đi đám cưới, tiệc tùng, ông đến đúng giờ, mà thiên hạ tà tà đến trể, ông cũng không bực mình. Bởi người ta quen giờ cao su rồi. Họ có cả trăm ngàn lý do để biện minh. Ông có đến sớm, thì cũng có cái lợi khác, được nói chuyện, gặp gỡ, tâm sự tào lao với những bạn bè mà từ lâu ít có dịp gặp nhau. Cũng vui và quý. Dễ chi có cơ hội thuận tiện để gặp nhau. Đến khi dọn thức ăn ra, không còn cơ hội để nói chuyện nữa, vì ai nấy lo gắp, lo nhai, không rảnh mà nói chuyện. Khi ăn xong, thì bạn bè vội vã ra về, vì đường xa, vì đêm khuya, vì mệt nhọc. Bởi vậy, ông cứ vui với cái bê bối của thiên hạ, và bằng lòng với câu "Không ăn đậu không phải Mễ, không đi trễ, không phải Việt Nam!"

Ông Hai Hô thường nói, tuổi già, cứ phiên phiến với mọi sự, cho khoẻ, cho sướng cái thân già của mình.

Tràm Cà Mau
Santa Ana, tháng 10/2007

-ooOoo-

  


 







Friday, 30 December 2022

Cho người già bệnh - Hòa thượng THÍCH THANH TỪ

 (Pháp thoại tại Thiền viện Thường Chiếu, Đồng Nai, năm 1996)

Hôm nay tôi có bài thuyết pháp ngắn về đề tài cho người già bệnh. Lý do có bài pháp này là vì một Phật tử đến yêu cầu chúng tôi rằng có cha mẹ già bệnh nặng, nên muốn khi cha mẹ lâm chung được tỉnh táo sáng suốt, không bị hôn mê hoảng sợ. Vì tình của người Phật tử hiếu thảo nên tôi hứa, đồng thời cũng nghĩ thương người già bệnh trong khi mệt mỏi đau đớn, nên chúng tôi nói bài pháp này.

Trước hết nói về cái chết không đáng sợ. Mọi người đều có quan niệm sanh là vui, chết là khổ; sanh là mừng, chết là sợ. Vì vậy ngày sinh nhật gọi là ngày ăn mừng sinh nhật, còn ngày chết con cháu cúng giỗ gọi là ngày cúng kỵ, tức ngày sợ sệt.

Quý Phật tử hiểu đạo thì ngày chết là ngày đáng sợ hay không đáng sợ? Thật tình cái chết không đáng sợ. Già, bệnh là hai thứ khổ trong bốn thứ khổ Phật nói: sinh, lão, bệnh, tử. Đã mang hai thứ khổ này vào mình là một gánh nặng đau khổ. Nếu gánh nặng đau khổ được quăng đi thì nó được nhẹ nhàng. Vậy chết là quăng được gánh nặng của già và bệnh. Lúc đó chúng ta thảnh thơi nhẹ nhàng, có gì đâu mà phải sợ. Nên chúng tôi nói chết là không đáng sợ.

Điểm thứ hai, như kinh Phật thường nói, có sanh là có tử. Có sanh ra thì phải có chết, đây là chuyện thường, không ai tránh khỏi. Như đức Phật tu hành rốt cuộc tám mươi tuổi Ngài cũng chết. Các ông tiên mà chúng ta đọc được trong truyện Tàu như Bát tiên v. v… nói trường sinh bất tử, nhưng sự thật tám chín trăm năm rồi cũng mất, cũng chết. Do đó tám ông tiên mà bây giờ tìm một ông cũng không ra.

Nên biết dù cho tu đắc đạo như Phật, thân này tới khi hoại cũng phải hoại. Dù luyện được thuốc trường sinh bất tử như thần tiên, thân này đến lúc hoại cũng phải hoại, chớ không bao giờ giữ được mãi mãi. Vì vậy chết là lẽ thường, là việc chung cho tất cả, không ai tránh khỏi. Cái không tránh khỏi mà mình sợ là chuyện vô ích, nếu không nói đó là chuyện khờ khạo. Chúng ta là người hiểu đạo rồi biết rằng có sanh là phải có tử. Ngày chết là ngày sẽ đến, bất cứ người nào cũng phải nhận. Chết là chuyện thường, đã là thường thì không sợ.

Tôi nhớ Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ khi sắp tịch nằm trên bộ ngựa, nghiêng bên phải nhắm mắt để tịch. Bấy giờ những người hầu thiếp khóc rống lên, Ngài liền ngồi dậy, súc miệng, rửa mặt, rồi nói: "Sanh tử là lẽ thường, sao lại buồn thảm luyến tiếc như thế, làm não hại chân tánh ta! " Nghe xong, các vị kia mới yên lặng. Ngài nằm nghiêng bên phải mà tịch.

Chúng ta thấy rằng đối với Ngài sanh tử là việc thường. Đã là việc thường thì không có gì quan trọng hết. Do đó Ngài tự tại ra đi. Còn chúng ta cho cái chết là lớn lao đáng sợ, nên tới đó chúng ta kinh hoàng. Kinh hoàng là đau khổ. Vì vậy người Phật tử chân chính lúc nào cũng biết rằng chuyện chết sống không thể tránh được. Không tránh được thì chúng ta chuẩn bị ngay những cái gì cần sau khi chết, đừng để tới đó rồi sợ hãi chỉ là chuyện vô ích thôi.

Điểm thứ ba, người Phật tử hiểu đạo khi tu ít nhất cũng giữ năm giới, nhiều hơn thì Thập thiện. Biết giữ năm giới, biết tu Thập thiện thì khi chết chúng ta sẽ sanh về đâu? Nếu giữ năm giới trọn vẹn thì sau khi chết chúng ta sẽ trở lại làm người đầy đủ phước đức. Tức là do giữ giới không sát sanh nên được tuổi thọ; giữ giới không trộm cướp nên được nhiều của cải; giữ giới không tà dâm nên được đẹp đẽ oai nghi; giữ giới không nói dối nên lời nói thanh tao, được mọi người tín nhiệm; giữ giới không uống rượu nên có trí tuệ sáng suốt. Thế nên sinh làm người được đầy đủ phần tốt đẹp của con người, không có gì thiếu thốn hết. Như vậy thân này hoại rồi được thân kế tốt đẹp hơn, phước đức hơn, có gì mà chúng ta phải sợ. Còn nếu tu Thập thiện khi bỏ thân này sẽ được sanh lên cõi trời, hưởng phước đức thù thắng nhiều hơn cõi này, tức là đẹp đẽ hơn gấp bao nhiêu phần.

Chúng tôi thường nói chết như đổi chiếc xe cũ lấy chiếc xe mới. Chiếc xe cũ xấu hư, chúng ta lấy chiếc xe mới tốt đẹp, hoàn hảo hơn. Cho nên chúng ta hoan hỷ bỏ thân này, vì biết rằng khi bỏ thân này chúng ta sẽ được thân sau tốt đẹp hơn, có gì đâu phải lo buồn. Thật ra chết không đáng sợ, chỉ sợ mình không biết tu. Đó là điều tôi muốn nhắc tất cả quý vị đang ở trong hoàn cảnh bệnh hoạn đau ốm, không thể tin tưởng rằng mình còn sống lâu, ráng nhớ mà tu hành.

*

Trong nhà Phật có nói đến cận tử nghiệp. Cận tử nghiệp này rất mạnh, có công năng đưa chúng ta tới chỗ tốt hay chỗ xấu khi chúng ta sắp lâm chung.

Trước hết nói cận tử nghiệp của người làm ác. Nếu người khi gần chết khởi tâm ác liền chuyển cả sự tu hành hay công đức trước của mình, liền sanh vào chỗ không tốt.

Trong kinh có kể: Một người tu ngoại đạo đạt đến định Phi phi tưởng, nếu người đó chết sẽ được sanh về cõi trời Phi phi tưởng. Nhưng khi gần chết gặp chút nghịch duyên, ông nổi giận, bực tức lên rồi chết. Sau khi chết ông sanh làm con chó sói. Như vậy, từ quả vị cõi trời Phi phi tưởng mà chuyển làm một con vật xấu xa, đủ cho ta thấy cận tử nghiệp nguy hiểm như thế nào. Cận tử nghiệp là nghiệp gần lúc chết. Nếu khởi niệm ác thì nó sẽ dẫn chúng ta sanh vào cõi ác, cõi dữ.

Do đó chúng ta thấy trong cõi người cũng như trong các loài thú, có những người, hoặc những con thú sanh ra một thời gian ngắn liền chết. Chúng ta không hiểu tại sao. Nếu là duyên làm người hoặc làm thú thì phải ở lâu cho mãn kiếp người, kiếp thú, tại sao chỉ một thời gian ngắn thì đi. Đó là lý do để thấy rằng những người ấy lẽ ra không phải sanh chỗ như thế, nhưng vì cận tử nghiệp ác mạnh nên phải sanh chỗ đó. Thời gian ngắn sau chết, sanh lại chỗ kháctheo tích lũy nghiệp, tức là nghiệp chứa đựng lâu dài lúc trước của họ. Vì vậy sức mạnh của cận tử nghiệp đưa đẩy người ta sanh vào chỗ không đúng sở nguyện của mình, chỉ vì cơn nóng giận hoặc khởi những niệm ác lúc sắp lâm chung mà ra như vậy. Đó là tôi nói trường hợp cận tử nghiệp ác.

Kế đến là cận tử nghiệp thiện, tức người gần chết khởi niệm lành. Lúc sắp lâm chung khởi niệm lành liền sanh về cõi lành, dù cho tích lũy nghiệp của họ ác, nhưng nhờ khi sắp chết khởi niệm thiện nên chuyển sang sanh cõi lành. Do sức mạnh của cận tử nghiệp làm cho tích lũy nghiệp mờ đi, nhưng không phải mất. Nghĩa là người ấy phải theo cận tử nghiệp một thời gian. Khi nào cận tử nghiệp hết thì họ mới trở lại tích lũy nghiệp.

Nên nhớ nghiệp tích lũy là nghiệp quan trọng mà chúng ta chứa từ thuở nhỏ cho đến lớn trong đời sống. Giả sử chúng ta chứa điều lành, điều tốt đầy đủ, nhưng giờ chót bị cận tử nghiệp ác lôi đi thì phải trả hết nghiệp cận tử đó rồi mới trở lại với nghiệp tích lũy lành, được quả lành, chứ không phải mất hẳn. Nên lúc sắp lâm chung chúng ta phải dè dặt tối đa, không nên khởi những tâm niệm ác.

Trong kinh nói người phạm hai tội trong năm tội ngũ nghịch là ông Đề Bà Đạt Đa, đức Phật thọ ký khi chết ông phải đọa địa ngục. Do đó lúc sắp lâm chung ông hối hận hướng về Phật chắp tay xin sám hối. Sau này đức Phật kể lại cho ngài A Nan nghe rằng ông Đề Bà Đạt Đa tuy bị đọa địa ngục vì tội ngũ nghịch, nhưng vì sắp chết ông biết hối hận sám hối với Phật. Nên sau khi hết đọa địa ngục ông được trở lại làm người gặp Phật pháp tu hành, cuối cùng cũng chứng quả thành Phật.

Chúng ta thấy rằng cả đời Đề Bà Đạt Đa đã tạo những nghiệp ác nhưng khi sắp lâm chung ông đã có tâm thức tỉnh, hối cải. Vì vậy, sau này khi nghiệp ác hết, ông sanh về cõi lành và được tu hành chớ không mất luôn chủng duyên lành. Nên biết cận tử nghiệp lành có thể giúp người bị khổ lâu dài chuyển thành khổ ngắn, không còn lâu dài nữa.

Thêm một chuyện nữa. Có một vị tiên ở cõi trời ba mươi ba. Ông biết mình hết phước sắp chết. Do có thiên nhãn, ông biết mình sẽ sanh làm con của một Trưởng giả ở nhân gian và sau kiếp làm con ông Trưởng giả ông sẽ đọa địa ngục. Hoảng sợ quá, ông khóc rống lên, kêu la cầu cứu. Khi đó Trời Đế Thích đến hỏi: - Vì sao ông khóc kêu cứu như vậy? Ông trình bày chỗ thấy của mình. Trời Đế Thích liền khuyên ông nếu muốn được cứu phải quy y Tam Bảo.

Ông hỏi:

- Quy y Tam Bảo là sao?

Trời Đế Thích nói:

- Quy y Tam Bảo là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Ông hỏi:

- Bây giờ Phật ở đâu?

- Hiện giờ Phật đang thuyết pháp ở Vườn Trúc tại xứ Nalanda.

Ông than:

- Bây giờ tôi sắp chết làm sao đến đó để quy y được.

Trời Đế Thích bảo:

- Không sao, chỉ cần ông chắp tay hướng về chỗ Phật đang thuyết pháp nói to lên thế này: "Con tên…… xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin Phật cứu con, xin Phật độ con", như vậy ba lần.

Nghe vậy ông liền quỳ gối chắp tay hướng về Vườn Trúc Nalanda, nói ba lần: "Con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Xin Phật độ con." Sau khi nói ba lần như vậy rồi, ông liền chết.

Quả thực sanh xuống trần gian ông làm con Trưởng giả. Khi con ông Trưởng giả lớn lên, một hôm gặp đức Phật khất thực ngang qua nhà. Thấy Phật, ông liền phát tâm muốn đi tu. Sau đó ông được Phật độ tu hành chứng quả A La Hán.

Qua đó, chúng ta thấy chỉ cần cận tử nghiệp hướng về Tam Bảo mà sau này khỏi đọa địa ngục, còn được xuất gia và tu hành giải thoát. Như vậy cận tử nghiệp rất là quan trọng. Nếu chúng ta không biết, để cận tử nghiệp chuyển thành ác sẽ đưa tới cõi ác. Nếu chúng ta biết, dù trước kia có làm ác, nhưng nhờ cận tử nghiệp thiện thì sẽ đưa tới cõi lành. Do đó người Phật tử chân chính phải nhớ, phải biết rõ tầm quan trọng của cận tử nghiệp.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa phủ nhận tích lũy nghiệp là nghiệp do chúng ta chứa chấp từ khi mới sanh ra cho tới già. Nếu chúng ta làm điều lành nhiều thì gọi đó là tích lũy nghiệp thiện; làm điều ác nhiều thì gọi là tích lũy nghiệp ác. Nếu tích lũy nghiệp thiện, và lúc sắp lâm chung không khởi niệm ác, thì con đường thiện nhất định sẽ đến với chúng ta. Còn nếu tích lũy nghiệp thiện nhưng khi sắp lâm chung khởi niệm ác thì con đường thiện của chúng ta phải bị quanh co, có khi nó dẫn mình tới chỗ dữ. Ngược lại, nếu tích lũy nghiệp ác nhưng sắp lâm chung khởi niệm thiện thì con đường ác lý đáng chúng ta phải chịu nhưng giờ đây chuyển sang con đường lành. Nên biết cận tử nghiệp rất mạnh, rất đáng sợ. Quý vị nào tuổi đã lớn, hoặc hay bệnh hoạn nên dè dặt tối đa, không nên tạo ảnh hưởng lớn gây cho chúng ta những đau khổ sau này. Đó là tôi nói về sức mạnh của cận tử nghiệp.

*

Tiếp theo, tôi sẽ nói những điều cấm kỵ của người khi sắp lâm chung. Những điều cấm kỵ là những điều không nên làm khi chúng ta biết đạo lý.

Một là lúc sắp lâm chung cấm kỵ không nên sân giận. Dù cho có điều gì trái ý cũng phải bỏ qua để lo cho cái chết của mình, không nên sân giận làm gì. Nếu sân giận thì chúng ta sẽ đọa vào cõi dữ làm những con vật hung dữ khó thể tránh khỏi. Đó là điều thứ nhất.

Thứ hai là phải dứt tâm oán thù. Nếu ôm tâm oán thù thì khi nhắm mắt chúng ta sẽ theo nghiệp oán thù, đền đền trả trả không có ngày cùng. Nghĩa là mình thù người, sanh ra gặp lại nhau rồi hại nhau, đau khổ chồng chất không biết đến đâu cho hết. Vì vậy chúng ta phải dứt tâm oán thù.

Thứ ba là tâm yêu mến con cháu, tiếc của cải, v. v… Đó là mối hiểm họa, nghĩa là vì yêu tiếc mà đôi khi bị trầm luân hay là trở lại làm những con vật không tốt.

Trong sử ba mươi ba vị Tổ có kể về một vị tăng Ấn Độ tôi không nhớ rõ tên. Một hôm Ngài đi khất thực ngang qua nhà ông Trưởng giả. Nhưng ông Trưởng giả đi khỏi. Trong nhà có con chó chạy ra sủa rất to. Ngài nhìn nó và quở: "Ngươi vì bệnh tiếc của mà trở lại làm chó, đã không biết còn sủa om sòm!" Nghe nói như vậy con chó buồn bỏ ăn. Ông Trưởng giả về, thấy con chó cưng của mình bỏ ăn. Ông liền hỏi lý do và được người nhà kể lại rằng hồi sớm mai có một vị Sa môn đi ngang, nó thấy liền sủa. Rồi không biết ông ấy nói gì với nó, từ đó nó buồn, bỏ ăn. Ông hỏi vị Sa môn ấy ở đâu và tìm gặp được Ngài. Với tâm rất sân hận, ông hỏi:

- Hồi sáng ông nói gì mà con chó của tôi nó buồn đến bỏ ăn?

Ngài bảo:

- Ông đừng nóng, để tôi nói cho ông nghe. Con chó đó là cha của ông.

Ông càng tức hơn, hỏi:

- Tại sao con chó đó lại là cha tôi?

Ngài nói:

- Nếu ông không tin ta, ông hãy về tìm ngay giữa giường nơi cha ông khi xưa ngủ mà bây giờ là chỗ con chó hay nằm đó, ông đào xuống sẽ thấy một ché vàng. Vì khi cha ông chết không kịp trối trăn lại với ông, nên bây giờ tiếc của mới sanh trở lại làm chó để giữ của. Nếu không tin ta, ông hãy về đào lên sẽ thấy!

Khi ấy vị Trưởng giả không còn lớn tiếng với Tổ nữa, mà trở về đào chỗ Tổ chỉ. Quả nhiên ông thấy có một ché vàng. Ông liền chạy tới xin Tổ cứu cha ông. Tổ khuyên Trưởng giả nên đem của đó bố thí để cha ông hết nghiệp. Trưởng giả nghe lời Tổ dạy liền đem ché vàng bố thí. Sau đó con chó chết.

Như vậy, vì yêu tiếc của nên trở lại làm chó để giữ của. Đó là điều đáng sợ. Nên ở đây tôi nhắc ba điều cấm kỵ trước khi lâm chung, Phật tử phải nhớ đừng bao giờ để xảy ra. Tôi lặp lại, điều thứ nhất là tâm sân giận; điều thứ hai là tâm oán thù; và điều thứ ba là tâm yêu tiếc, tức yêu con tiếc của. Nhớ, đừng có ba tâm đó mới khỏi đọa vào con đường khổ. Có ba tâm đó là nguy hiểm.

Nếu khi sắp lâm chung mà khởi tâm thiện thì sẽ được điều lành, điều tốt. Tâm thiện là tâm gì? Điều thứ nhất, khi sắp lâm chung phát tâm bố thí, giúp đỡ người nghèo kẻ bệnh. Mình có phương tiện tới đâu phát tâm tới đó. Điều thứ hai đối với người quy y rồi thì phát tâm cúng dường Tam Bảo; còn chưa quy y thì phát tâm quy y Tam Bảo để tâm thiện tăng trưởng. Làm như vậy là đã hướng về điều thiện và sẽ đi theo con đường thiện. Ba là phát tâm phóng sanh, nghĩa là cứu những con vật bị người ta bắt và sẽ bị giết. Mình cứu nó bằng cách mua lại đem thả, hoặc tìm cách nào cứu cho con vật không bị chết. Đó là phát tâm phóng sanh.

Bố thí, cúng dường, phát tâm phóng sanh là tâm lành. Nhờ phát tâm lành, tự nhiên lần lần chúng ta sẽ đi theo con đường lành. Đó là những điều tâm nên khởi khi sắp lâm chung.

*

Người Phật tử biết tu, khi sắp lâm chung, cần biết ứng dụng pháp Phật dạy, gìn giữ tâm mình luôn luôn đi đúng đường, không bị lệch lạc. Đối với người tu Tịnh độ, lâu nay chuyên niệm Phật, khi bệnh nhiều phải ráng nhớ niệm Phật, không quên. Lúc nào tâm mình cũng hướng về Phật không lơi lỏng, không nghĩ tới con, không nghĩ tới cháu, cũng không nghĩ tới tài sản gì hết. Được như vậy thì nhất định sẽ đi theo Phật không nghi ngờ. Đó là điều thứ nhất.

Thứ hai, đối với người không chuyên niệm Phật mà thường hay xem kinh sách thì phải nhớ một bài kệ. Chẳng hạn, nếu quý vị thường tụng kinh Kim Cang, thì phải nhớ một bài kệ, tức là nhớ tới Pháp giống như nhớ tới Phật, niệm Phật vậy. Chúng ta nghiên cứu kinh điển, học pháp của Phật thì phải nhớ pháp, như tụng bài kệ sau đây trong kinh Kim Cang:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.

Nghĩa là tất cả pháp hữu vi như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng, như sương mai, như điện chớp, phải luôn quán như thế. Chúng ta tụng mãi bài kệ này thì tâm chúng ta được trong sáng, không kinh hoàng khi sắp lâm chung. Đó là trường hợp thứ hai.

Trường hợp thứ ba, nếu người biết tu thiền, tâm được yên tĩnh phần nào thì nhớ lúc sắp lâm chung, mình hằng sống với tâm thanh tịnh, đừng chạy theo tâm vọng tưởng điên đảo. Nghĩa là nhớ ngay trong thân người bại hoại này có cái không bại hoại. Nhờ vậy chúng ta không kinh hoàng, không sợ sệt mà hằng sống với tâm bất sinh bất diệt của mình. Thân này chẳng qua là tướng hư ảo, có đó rồi mất đó, chớ không bền. Chỉ cái thể chân thật của mình là thanh tịnh, không sanh, không diệt muôn đời. Đó là chúng ta biết tu.

Trong ba trường hợp tôi kể ở trên, người tu niệm Phật thì chuyên niệm Phật, không nhớ chuyện đời. Người chuyên nghiên cứu Pháp thì nhớ một bài kệ. Người tu Thiền thì nhớ ngay nơi mình có cái chẳng sanh diệt, hằng thanh tịnh, không có gì đáng sợ, không có gì đáng lo. Người biết tu nhớ được những điều này thì không bị mê muội, không có gì sợ hãi, ra đi êm ái nhẹ nhàng. Đó là những điều tôi nhắc cho quý vị khi sắp lâm chung.

*

Bây giờ tôi nói tới hậu sự, tức là việc sau khi mình chết. Nhiều vị nghĩ rằng khi mình chết phải trối trăn lại với con cháu làm thế này, làm thế kia cho mình. Điều đó dư. Tại sao? Bởi vì thân này do tứ đại hòa hợp mà thành, chúng ta sống cũng mượn tứ đại mà sống: uống nước giúp cho thủy đại, ăn giúp cho địa đại, thở giúp cho phong đại, v. v… Như vậy bốn đại đó nhờ vay mượn bên ngoài mới tồn tại.

Đến khi chết là không vay mượn nữa thì trả về cho tứ đại. Tứ đại trả về tứ đại thì chỗ nào cũng là tứ đại hết. Tại xứ người, tứ đại cũng là tứ đại; ở quê hương mình thì tứ đại cũng là tứ đại. Đừng nghĩ bỏ thân ở xứ người là thiệt thòi. Thiệt thòi nhất là cái tâm, tinh thần của mình ra đi mà không sáng suốt, đó mới thật thiệt thòi. Còn thân tứ đại này bỏ ở đâu cũng được hết. Người ta hay nói thân này là thân cát bụi cho nên khi chết trả về cho cát bụi, chứ không phải trả về xứ mình, thành vàng thành ngọc gì, cho nên đừng quan trọng nó.

Thân này để cho con cháu giải quyết bằng cách nào thuận lợi nhất thì tốt, mình khỏi cần dặn dò gì hết, khỏi cần bắt buộc gì hết. Dặn dò bắt buộc nhiều khi làm cho con cháu càng thêm lúng túng. Thí dụ nơi đó không có lò thiêu mà bảo phải thiêu, trong khi có đất chôn mà không chịu chôn. Hay ngược lại, chỗ đó không có đất chôn mà có lò thiêu, mình lại không chịu, nói thiêu nóng lắm, phải tìm đất chôn. Như vậy con cháu lo sợ không biết tìm đất đâu mà chôn, càng làm cực khổ cho người sống chớ không có ích lợi gì. Đã là thân tứ đại hoại rồi thì còn biết gì nữa mà sợ nóng, còn biết gì nữa mà đòi đem về quê hương. Biết chăng là cái tinh thần, cái tâm của mình. Do đó quý vị đừng có lầm lẫn thân này phải trở về quê mình mới tốt. Nghĩ như vậy là sai lầm. Chính cái tâm của chúng ta, tâm sáng thì đi tới chỗ tốt, điều đó mới quan trọng.

Đó là những lời nhắc nhở để quý vị biết sau khi chúng ta có trăm tuổi, không làm phiền hà cho con cháu.

*

Tôi chỉ nói một phần ngắn cho quý vị biết khi đau, bệnh và già sắp lâm chung. Theo đó, quý vị có hướng chọn lựa, đừng bị tâm phàm tục làm cho mình đau khổ ngay hiện tại và kéo dài sau khi lâm chung. Đó là những điều thiết yếu.

Mong rằng tất cả quí Phật tử nghe rồi, khéo ứng dụng để tự cứu mình, đó cũng là lời Phật dạy cho chúng ta thoát khổ.

Hòa thượng Thích Thanh Từ,
Thiền viện Thường Chiếu, Đồng Nai (1996)
(Trích: Hoa Vô Ưu, Tập 3)

*



Lời huấn từ của Hòa thượng THÍCH THANH TỪ

 (Lời huấn từ của Hòa thượng Thích Thanh từ trong buổi lễ chúc thọ Hòa thượng tám mươi tuổi, ngày 23/01/2003 tại Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành, Đồng Nai)

Hôm nay gần như là lần chót chúng tôi nói chuyện tại Thiền viện Thường Chiếu, nên những gì đã ôm ấp từ trước tới giờ, tôi sẽ nói ra cho quí vị nghe và hiểu. Trước hết tôi nói về những thành quả trong đời tôi đã làm được và nguyên nhân của những thành quả đó để quí vị biết, học hỏi, hầu tiếp tục làm tròn phận sự của mình.

Phần lớn những thành quả tôi đạt được đều là những cái không ngờ. Như khi xưa đọc sử chư Tổ, tôi thấy ở Trung Hoa có nhiều vị ra đời giáo hóa đến cuối đời, tính ra có hàng vạn tín đồ. Khi bắt đầu đi vào con đường tu học, tôi nghĩ đời mình tới trăm tuổi giáo hóa nhiều lắm chỉ đến ngàn Phật tử, tức là một phần mười chư Tổ thôi, chớ không bao giờ có sức hướng dẫn một số đông như vậy. Nhưng đến nay số lượng Phật tử qui y, khoảng trên tám mươi bốn ngàn người. Đó là phần Phật tử tại gia, còn số lượng xuất gia khó tính quá. Quí vị biết tại sao không? Vì có vị cạo đầu ba bốn năm rồi để tóc lại, làm sao tính được! Như vậy mới thấy thành quả này không phải là việc ngẫu nhiên. Tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ thu hoạch được kết quả tốt như vậy. Cho nên ngày nay được thế là chuyện không ngờ đối với tôi.

Kế nữa tôi cũng từng tuyên bố với Tăng Ni, Phật tử: Tôi tu hành chỉ lo hướng dẫn Tăng Ni biết rõ đường lối tu, chớ không đặt nặng chùa to Phật lớn, song bây giờ tôi lại có chùa to Phật lớn. Đây dường như là điều mâu thuẫn, nhưng sự thật không phải mâu thuẫn. Vì tôi lo cho Tăng Ni mà Tăng Ni ngày càng đông nên chùa phải to, chùa nhỏ làm sao dung hết? Chùa to thì Phật cũng phải to theo. Đó là điều tự nhiên, không gượng ép gì hết.

Hiện giờ ở trong nước số thiền viện tiêu biểu, trực thuộc dưới sự hướng dẫn của chúng tôi như:

1. Thiền viện Chân Không.
2. Thiền viện Thường Chiếu.
3. Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt.
4. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử.
5. Thiền viện Tuệ Quang.
6. Thiền viện Đạo Huệ.
7. Thiền viện Linh Chiếu.
8. Thiền viện Viên Chiếu.
9. Thiền viện Huệ Chiếu.
10. Thiền viện Phổ Chiếu.
11. Thiền viện Tịch Chiếu.
12. Thiền viện Liễu Đức.
13. Thiền viện Hương Hải.
14. Thiền viện Tuệ Thông.
15. Thiền tự Phúc Trường.

Tại nước ngoài, tiêu biểu như:

1. Thiền viện Đạo Viên tại Canada.
2. Thiền viện Đại Đăng tại Mỹ.
3. Thiền viện Bồ-đề tại Mỹ.
4. Thiền viện Quang Chiếu tại Mỹ.
5. Thiền viện Diệu Nhân tại Mỹ.
6. Thiền tự Vô Ưu tại Mỹ.
7. Thiền tự Hiện Quang tại Úc.
8. Thiền tự Pháp Loa tại Úc.
9. Thiền tự Hỉ Xả tại Úc.
10. Thiền tự Tiêu Dao tại Úc.

Đó là chỗ tôi không bao giờ nghĩ, không bao giờ tưởng, nay nó đến một cách đầy đủ, đột ngột, nên tôi nói bất ngờ. Tôi sẽ kể tiếp đời tu của tôi có những bất ngờ như sau:

Bất ngờ thứ nhất là ngày xưa Thầy tôi, Sư ông tôi và các Hòa thượng dạy tôi đều tu Tịnh độ, nhưng tôi lại tha thiết tu Thiền. Thời xưa của tôi không có một vị Thiền sư nào cả, chỉ có những người dạy Thiền mang tánh cách ngoại đạo thôi. Như vậy tâm nguyện tha thiết của tôi không có chỗ tựa, chỉ một người bạn đồng hành duy nhất là thầy Nhất Hạnh. Lúc còn ở Ấn Quang, thầy cũng tha thiết tu Thiền như tôi. Vì vậy hai chúng tôi có chỗ thông cảm về đường lối tu Thiền. Tuy đồng một quan niệm tu Thiền, nhưng hai người có hai lối tu khác nhau.

Sau khi dạy ở Phật học viện Huệ Nghiêm rồi, tôi thấy mình phần nào đã trả được nợ cơm áo của thí chủ và công ơn Thầy Tổ, nên xin ra Vũng Tàu cất thất tu Thiền. Tuy ham tu Thiền nhưng tôi chưa biết phải tu theo Thiền nào, đó là lỗi không gặp được thầy hướng dẫn. Tôi chỉ lấy kinh làm nền tảng tu. Trước hết nghiên cứu kinh A-hàm, tôi thấy pháp tu Thiền trong A-hàm là pháp Tứ niệm xứ, theo đó thì quán hơi thở. Sau này ngài Trí Khải đại sư viết thành cuốn Lục Diệu Pháp Môn, tôi ứng dụng tu theo hai phần.

Phần thứ nhất là Tứ Niệm Xứ, ứng dụng chưa có kết quả thì tôi đã bị lúng túng, do đó tôi chuyển qua Lục Diệu Pháp Môn. Buổi đầu thấy tiến khá tốt, nhưng đi sâu vào tôi cũng bị dội. Thế là xoay qua Thiền tông, tôi dịch một tác phẩm dạy tu thiền của Thiền sư Hư Vân, trong đó ứng dụng theo lối tu Thiền thoại đầu. Song tôi bị ngăn trở khoảng giữa đường, tu cũng không tiến. Đau khổ vô cùng, tôi không biết hướng nào đi, cứ dò dẫm chỗ này, dò dẫm chỗ kia, rốt cuộc bị ngăn trở không tiến được. Lễ Phật, tôi khóc.

Nhưng điều tôi không ngờ được là do túc duyên đời trước. Một đêm chân thành lễ Phật sám hối, sau đó đi nghỉ, tôi mộng thấy mình đi vào một ngôi chùa xưa giống như chùa Tàu. Tôi thấy hai vị Tổ ngồi ở nhà Tổ. Nhìn qua tôi biết liền, đây là Tổ Tăng Xán, đây là Tổ Huệ Khả, thấy rõ hình ảnh ấy tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Mừng quá, tôi chạy kêu thầy Trụ trì ở đâu sao không đem trà nước mời gì cả, để hai vị Tổ ngồi buồn. Mải lo chạy kêu thầy Trụ trì, khi trở ra thì hai vị đi mất ra ngã sau. Tôi giật mình thức dậy, nghĩ rằng mình đã có duyên với Tổ nên ngày nay mới thấy. Đã có duyên như vậy, tại sao hơn một ngàn năm qua mình còn lao đao, lận đận, tu hành không đến đâu hết. Tôi buồn, thấy tủi thân vì duyên của mình không thành tựu gì cả.

Một đêm khác cũng trong thời gian nhập thất, tôi nằm mơ thấy Tổ Huệ Khả. Ngài đứng trên cao đọc một bài thơ, nghe qua tôi không nhớ hết, chỉ nhớ câu cuối cùng Ngài nói: “Không bình, không trắc”. Giật mình thức dậy, tôi lấy làm lạ quá, tại sao thơ mà không bình không trắc, nếu thơ thì phải có luật bình trắc chứ? Tôi cứ nghiền ngẫm tại sao không bình không trắc? Đến giờ ngồi thiền khuya, bỗng dưng tôi sáng được lý Bát-nhã, từ chỗ không bình không trắc đó, tôi nhớ tới câu “sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Sắc-Không không rời nhau, Sắc-Không không hai, bất thần ngay nơi đó tôi hiểu được lý Sắc-Không. Thế là suốt ba ngày, đi tới đi lui một mình tôi cười hoài, rất vui mà không biết vui ra sao nữa? Sau tôi đọc trong tạng, tới bộ Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, đọc tới đâu thấy sáng tỏ tới đó. Đến đây, rõ ràng tôi biết mình có duyên tu Thiền.

Ngày xưa, vì thấy việc này hơi thần thoại, do đó tôi không dám kể với quí vị, chỉ đơn độc thực hành thôi. Khi thực hành thấy kết quả tốt, tôi đem hết sách Thiền ra đọc và dịch để Tăng Ni, Phật tử có tài liệu tham khảo. Từ đó tôi biết rõ đường lối tu Thiền. Như vậy tôi tu thiền không có thầy, chỉ nhờ duyên đánh thức qua hình ảnh hồi xưa, đó là một lý do. Cho nên những Phật sự ngày nay tôi làm được, không phải là chuyện ngẫu nhiên mà do túc duyên từ thuở nào. Khi đọc kinh Pháp Hoa, tôi càng thấy rõ hơn, không một đức Phật nào thành Phật chỉ trong một đời. Một đời thành Phật là đời chót, chớ không phải tu một đời.

Chúng ta tu từ những đời trước, đã tạo được duyên lành nên qua đời này tuy không gặp thiện tri thức chỉ dạy, song nhân một cơ duyên nào đó mình cũng thức tỉnh được. Trong đời này số Phật tử tôi giáo hóa đông đảo, đương nhiên đã gieo duyên nhiều đời lắm rồi, chớ không phải một đời. Hiểu rõ như thế tôi biết chắc không phải một đời này mình đủ tài đủ đức giáo hóa như vậy. Từ những đời trước chúng ta đã gieo duyên với nhau rồi, nên đời nay gặp lại đông đảo thế này. Lý luân hồi nhân quả của đạo Phật không bao giờ sai chạy. Chúng ta đã gieo nhân thế nào thì sẽ gặt quả thế ấy, không bao giờ mất.

Cho nên trên đường tu chúng ta đừng nghĩ rằng chỉ một đời này mình tu thôi. Những người xuất gia thọ giới tu hành được kha khá đều có duyên từ nhiều đời trước, nên đời này tiếp tục tu nữa. Vì vậy làm được việc gì, tất cả công đức chúng ta tạo ra, gốc đều từ duyên lành đời trước chớ không phải chỉ trong đời này. Nghĩ như vậy rồi chúng ta không có lý do gì để tự cao, ngạo mạn mình là người tài giỏi. Nên biết rằng đây là chúng ta tiếp tục con đường mình đã đi trong nhiều đời, và còn nhiều đời nữa phải tiếp tục, chớ không phải ngang đây là dứt. Đó là lý do thứ nhất mà đời tu này của tôi có được những việc bất ngờ.

Lý do thứ hai tôi muốn nhắc cho Tăng Ni, Phật tử biết việc làm đạt được kết quả tốt là do lòng chân thành của chúng ta. Tôi lo cho Phật pháp, lo cho Tăng Ni, chỉ một bề làm sao cho Tăng Ni tu được, học được, làm sao cho tất cả Phật tử đến với mình phát tâm Bồ-đề ngày càng rộng lớn, chớ không bao giờ nghĩ lợi dụng Phật tử để làm việc riêng cho mình. Muốn cho Phật tử đến chùa mỗi ngày đều được lợi ích, được thấm nhuần chánh pháp; muốn cho Tăng Ni mỗi ngày tu đều, đi sâu trong đạo đức, thấy suốt được lời dạy của Phật Tổ; cả đời tôi chỉ lo cho Tăng Ni, Phật tử tu. Có lẽ vì tâm đó mà Phật tử ủng hộ, giúp đỡ tôi không tiếc công, tiếc của. Tôi chưa kêu gọi quí vị đã hưởng ứng, tôi chưa khuyên bảo tiếp giúp, quí vị đã sẵn sàng gánh vác những công tác tôi muốn làm hay đang làm. Đó là điều chư Tăng, chư Ni nên ghi nhớ muốn làm Phật sự được, chúng ta đừng bao giờ nghĩ đến danh đến lợi, mong mọi người quí kính mình. Chúng ta làm là vì người sau, vì muốn cho chánh pháp ngày càng sáng tỏ, bủa khắp các nơi. Không phải nghĩ tới bản thân mình hoặc nghĩ tới thân nhân mình mà làm Phật sự. Lòng chân thật ấy là lý do thứ hai mà tôi có được những sự việc bất ngờ.

Điều thứ ba tôi muốn nhắc nhở cho Tăng Ni nhớ thật kỹ, chúng ta làm Phật sự phải đúng nghĩa Phật sự, vì muốn cho tất cả chúng sanh hiểu Phật pháp, chớ không nên làm Phật sự mà trá hình bởi cái này, cái nọ. Vì muốn chúng sanh thức tỉnh, giác ngộ được lẽ thật nên chúng ta làm Phật sự, chớ không vì cầu cạnh điều gì, không vì lời khen, không vì những quyền lợi nhỏ lớn nào đó mà làm. Chỉ một bề lo cho Tăng Ni, Phật tử làm sao thức tỉnh, làm sao giác ngộ để đánh tan mê lầm muôn đời của mình, lần lần tiến lên, chớ không nên mong một điều gì khác. Vì vậy tôi mong toàn thể chư Tăng, chư Ni, quí vị đã hi sinh cả cuộc đời, bỏ tất cả thân quyến để vào đạo tu hành, phải làm sao đời tu của mình thật xứng đáng, là một con người giác ngộ thật sự để dìu dắt, chỉ dạy những người sau. Chúng ta là những người mang lại tình thương cho nhân loại bằng cách đánh thức họ, đừng để chúng sanh mê lầm gây tạo tội lỗi khổ đau. Do đó không nên vì một lý do nào mà Tăng Ni xao lãng việc tu hành của mình. Đó là điều hết sức thiết yếu.

Đời này tôi làm Phật sự được kết quả tốt đẹp, nhiều người tán thán không phải do tài của tôi trong một đời, mà là cộng lại quá khứ chúng tôi đã gieo trồng duyên lành với Phật pháp nhiều đời. Đời này tiếp tục nên việc làm dễ dàng có kết quả tốt đẹp, đồng thời cũng do tâm chân thành, một lòng vì chánh pháp, chớ không vì lý do nào khác. Trên bước đường tu, dù chúng ta có giác ngộ cũng chỉ giác ngộ phần nào thôi, chưa phải giác ngộ hoàn toàn. Ví như người thấy núi, đứng dưới chân núi vẫn chưa gọi là đã lên đỉnh núi. Quá trình leo lên tới đỉnh còn trải qua bao nhiêu công phu nữa. Chúng ta đừng lầm khi thấy cái gì hay hoặc tu được kết quả tốt rồi khoe mình thế này, thế nọ. Đó là tổn phước, tổn đức. Phải thấy đường đi của mình còn dài, dù hiện giờ chúng ta biết được đường đi, nhưng chỉ là người đứng ở đầu đường, chưa phải đến được cuối đường. Biết được như vậy, lúc nào cũng là lúc chúng ta phải tu, không nên nói rằng mình làm được nhiều việc rồi, bây giờ thảnh thơi ăn chơi tự tại. Đó là điều không tốt.

Thật tình chúng ta tiến được năm mười bước thì phải thấy rằng đây là những chặng đầu, chưa phải là chặng cuối. Cho nên những bước sau càng mạnh mẽ cố gắng hơn nữa, đừng ngỡ rằng chúng ta đã tiến một hai bước rồi hài lòng, tự mãn, chết chìm trong đó, không tốt. Bởi vậy sau bao nhiêu năm lo dạy Tăng Ni, Phật tử tôi cũng cố gắng tu nhưng sự tu bị giới hạn. Như hôm nay giảng, buổi tối ngồi thiền nhớ câu nào hay hoặc đề tài nào đúng mình lôi ra để mai giảng, bị những thứ ấy lôi đi nhưng vẫn phải chịu thôi. Ngày nào cũng thế, tự nhiên công phu của mình hao hụt rất nhiều, vì vậy việc tu thiệt thòi. Do đó tôi muốn có được một thời gian trọn vẹn để yên ổn tu hành.

Tôi nhớ lại nhiều thầy đồng tuổi với mình đã từ giã cõi đời lâu rồi. Gần nhất là thầy Tịnh Viên ở chùa Linh Sơn Vũng Tàu. Kế đó là thầy Huỳnh Kim ở Sài Gòn đã đi mất hai ba năm nay. Thầy Thiền Định học chung một lớp với tôi cũng đã đi được hai ba năm và nhiều thầy nữa đã đi. Không những quí thầy đồng tuổi với tôi, mà các thầy nhỏ tuổi hơn tôi như thầy Thiện Châu cũng đi, thầy Huyền Vi thì đang bệnh. Tất cả quí thầy kẻ đi trước người đi sau, đi lần mòn, riêng tôi còn sót lại. Đó có phải là điều hạnh phúc không? Chính vì còn sót lại nên tôi mới lo nhiều. Ngày nay mình còn ở đây phải làm gì chứ, không thể chần chừ được. Sanh tử đã chực sẵn, chỉ cần một cái sơ sẩy là mất mạng liền, không thể chần chừ được nữa. Bởi vậy tôi phải từ giã Tăng Ni để ngồi yên nỗ lực tu hành. Ngày nào còn sáng, còn tỉnh, còn mạnh thì ngày đó tôi làm việc cho mình, để khi hết cuộc đời con đường đi của tôi được gần hơn một chút. Hay nói một cách cụ thể hơn, ngày ra đi tôi được tỉnh táo, sáng suốt để Tăng Ni, Phật tử tăng trưởng lòng tin. Nếu không như thế thì tôi chịu trách nhiệm lãnh đạo Tăng Ni, Phật tử tu hành mà không để lại được niềm tin nơi quí vị thì thật đáng buồn!

Các Thiền sư khi ra đi rất là thanh thoát, trước khi đi các ngài còn làm những bài kệ khuyên nhắc đệ tử. Bây giờ nếu tôi ra đi một cách mê muội tối tăm thì chắc rằng lòng tin của Phật tử phải suy giảm. Do đó tôi tu vừa để lợi ích cho bản thân, vừa để làm gương cho những người sau noi theo. Vì lý do đó nên tôi cố gắng tu chớ không phải tu để được ai khen hết. Bởi vì tu là việc của mình, lo cho mình, làm cho mình. Chính mình làm được cho mình mới có thể khuyên nhắc mọi người cùng làm theo. Bản thân mình làm không được mà khuyên người ta làm thì làm cái gì? Mình đứng một chỗ mà xúi người ta đi thì ai đi được? Điều đó không thiết thực.

Tôi muốn trên đường tu của mình, từ khi mới bắt đầu cho đến phút cuối cùng, lúc nào cũng nỗ lực, cũng tinh tấn đi cho hết con đường. Dù biết rằng đường rất dài, tới khúc nào đó ta cũng kiệt lực, nhưng phút kiệt lực chúng ta vẫn là người đang đi, chớ không nên ngã quị hay lăn xuống giếng. Được như vậy mới xứng đáng, mới không hổ thẹn mình là người có trách nhiệm lãnh đạo Tăng Ni, Phật tử tu hành. Do vậy lúc nào tôi cũng tha thiết, cũng muốn làm cho xong phần mình, rồi sau mới kêu gọi anh em cùng làm. Trọng trách này rất là nặng nề.

Hôm nay nhân ngày quí vị tổ chức mừng thượng thọ của tôi, đây là điều mừng hay buồn? Nếu nói theo tôi thì mừng, vì tôi còn sống để lo tu. Thêm được ngày nào là quí ngày ấy, những năm về trước tôi quá nhiều việc nên chạy ra ngoài nhiều, bây giờ ngày nào cũng là ngày của tôi. Sống thêm một tháng là được một tháng, một năm là tốt một năm, được năm bảy năm thì càng tốt hơn, tùy duyên. Biết rằng cái chết lúc nào cũng chực sẵn, chúng ta không ai tránh khỏi, nhưng đi muộn thì mình có thời gian để tu, đó là duyên phúc lành. Vì vậy tuổi cao tôi không sợ, chỉ sợ ngày ra đi mê mờ không biết gì. Thế nên những ai chân thành tu đều phải thấy, phải biết lẽ này để chúng ta dồn sức tu hành. Tuổi càng lớn sự tu càng nhặt hơn, càng nỗ lực hơn. Không thể nói thầy già rồi để thầy chơi, còn mấy đứa nhỏ ráng tu. Mình là người đi trước thì lúc nào cũng phải đi và đi rất mạnh mẽ cho người đi sau nương theo. Đó là trách nhiệm tôi tự thấy, tự gánh vác, tự đặt cho mình, chớ không ai bắt buộc tôi cả.

Những năm còn lại là những năm rất đủ cho tôi làm bổn phận của mình, không phải là những năm thừa để nhàn hạ. Đó là điều tôi muốn nói cho toàn thể Tăng Ni biết, các đệ tử sau tôi cũng theo gương đó dành dụm những ngày chót của mình, nỗ lực tu hành thật nhiều, đừng để phí tổn thời gian vô ích. Cuộc đời tu của chúng ta có mấy chục năm chớ không dài, nếu để phí tổn như vậy thì thật là thiệt thòi lớn!

Tôi đem bản thân mình nhắc nhở cho tất cả chư Tăng Ni, Phật tử hiểu rõ để tu hành, chớ không nói những chuyện gì xa. Mong quí vị nhìn theo tôi, cố gắng tu để đời tu của mình xứng đáng, không hổ thẹn là một người xuất gia tu hạnh giải thoát, mà cuối cùng mình đi trong con đường mê. Cầu mong tất cả Tăng Ni, Phật tử đều là những người tỉnh giác, đi đúng đường cho tới ngày nào đạt được kết quả cuối đường là giác ngộ giải thoát.

Thiền sư Thích Thanh Từ
Thiền viện Thường Chiếu, Đồng Nai
23/01/2003
(Trích: Phật Pháp tại thế gian, Tập 2)

*

 




Thursday, 22 December 2022

Hỏa táng rồi rải tro cốt có ảnh hưởng đến gia tộc và con cháu?

 HỎA TÁNG RỒI RẢI TRO CỐT CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIA TỘC VÀ CON CHÁU?
Giác Ngộ Online, 22/12/2022

Hỏi:
Tôi là Phật tử, có ý định sau này khi mất đi, hỏa táng xong đem tro cốt của tôi rải xuống dòng sông nơi quê nhà. Hiện con cháu của tôi không có ý kiến gì nhưng anh em trong gia tộc phản đối rất gay gắt. Xin hỏi, theo quan điểm Phật giáo, việc này có gì ảnh hưởng đến sự thịnh suy của gia tộc hay hệ lụy gì với con cháu của tôi về sau? – (PHAN DIỄN, phanst...@gmail.com)

Đáp:
Bạn Phan Diễn thân mến!

Việc an táng thi thể người chết tùy thuộc vào phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, xứ sở, vùng miền mà có sự khác biệt nhau. Nhân loại hiện có nhiều cách an táng, có nơi chọn địa táng (chôn dưới đất), nơi khác chọn thủy táng (thả sông hoặc bỏ biển), hỏa táng (thiêu đốt thành tro), thiên táng (treo lên cây hoặc nhét trong hang núi), lâm táng (đem bỏ trong rừng)…. Người Tây Tạng còn có phong tục điểu táng khá rùng rợn, chặt nhỏ thi thể cho kền kền ăn. Người Việt phần lớn theo tập tục địa táng, lâu đời hình thành các tín niệm liên quan đến mồ mả v.v… Hỏa táng với các phương tiện thiêu đốt hiện đại ngày càng được người Việt hưởng ứng vì tiện lợi nhiều mặt.  

Theo quan điểm của Phật giáo, việc an táng theo cách nào là tùy duyên, miễn thân nhân, dòng tộc và xã hội đồng thuận là được; không có một định thức nào trong việc an táng. Bởi Phật giáo quan niệm con người là hợp thể năm uẩn, gồm sắc (thân) và thọ, tưởng, hành, thức (tâm). Khi con người chết đi, phần quan trọng nhất là tâm thức thì theo nghiệp tái sinh. Còn xác thân tứ đại, “cái túi da chứa đầy vật bất tịnh” bấy giờ trở nên vô dụng nên tùy duyên mà an táng. Điều đáng nói là, tuy gọi thân tứ đại nhưng thực ra bấy giờ chỉ còn thủy đại và phần lớn là địa đại. Như vậy, với tuệ giác của Phật giáo, không xem một phần còn lại của thân này, xác chết, là một cá nhân đúng nghĩa nên mọi việc tống táng luôn tùy thuận và tùy duyên.  

Như vậy, bạn cứ di nguyện cho người thân an táng sau khi bạn chết theo cách nào mà bạn cảm thấy phù hợp nhất. Bạn chọn hỏa táng cũng là một cách hay, thiêu xong rồi đổ tro bụi xuống sông biển hay gửi tro vào chùa là cách mà nhiều người hiện nay vẫn làm. Hỏa táng hiện được xem là văn minh, tiết kiệm và không có bất cứ ảnh hưởng gì lên con cháu cả.  

Nước ta có truyền thống địa táng lâu đời nên các tín niệm liên quan đến mồ mả đã ăn sâu vào tâm thức. Việc người mất không có mồ mả khiến cho một số người có cảm giác bất an, chạnh lòng khi người chết không có nơi để “về”. Có người còn suy nghĩ rằng hỏa táng sẽ rất đáng thương vì người chết bị thiêu đốt, thay vì ngàn thu yên nghỉ. Những quan niệm như vậy có thể bị xem là hủ tục, không còn phù hợp trong xu hướng văn minh hiện nay.  

Việc các anh em trong gia tộc phản đối có thể vì họ lo sợ bạn không được mồ yên mả đẹp nên quấy phá con cháu xa gần. Sự thật thì đời sống con cháu hay các thành viên trong gia tộc của bạn hạnh phúc hay bất hạnh là do nghiệp duyên nhân quả tốt hay xấu của họ quyết định chứ không phải do cách an táng thân xác của bạn.  

Chúc bạn tinh tấn!

– Tổ Tư vấn Báo Giác Ngộ (tuvangiacngo@yahoo.com)
22/12/2022

*-----*




Wednesday, 21 December 2022

Cư sĩ hành đạo (Practicing Lay Buddhists) - Ajahn Brahmali (2019)

 CƯ SĨ HÀNH ĐẠO 
(Practicing Lay Buddhists)
Ajahn Brahmali – 22/11/2019
Lược dịch: Một nhóm Phật tử Bắc Mỹ

*  

Lời người dịch:

Mấy dạo sau này chúng tôi thường thấy những tin tức “giật gân” về những điều không hay trong tăng đoàn Phật giáo ở khắp mọi nơi. Chúng tôi rất buồn và có lẽ cũng như đại đa số, chúng tôi có khuynh hướng kết tội người khác mà không bao giờ nghĩ được rằng chính mình cũng đã góp phần rất nhiều cho những tệ nạn này. Tình cờ nghe bài pháp “Cư Sĩ Hành Đạo” của Ajahn Brahmali khiến chúng tôi phải suy ngẫm rất nhiều, hối hận về những phán đoán thiển cận của mình và đồng thời cũng rất phấn khởi khi nhận ra rằng Phật tử chúng ta cũng chính là những thành viên quan trọng trong việc góp phần bảo tồn đạo Phật cho được trường tồn và tinh khiết.    

Nghe bài pháp này chúng tôi nhớ đến trí tuệ siêu phàm của Đức Phật và cách hành xử rất thận trọng của ngài. Chẳng hạn khi nghe Phật tử than phiền về một vị tăng, bao giờ ngài cũng gọi vị tăng ấy đến hỏi “có đúng là ông đã làm như vậy không?” trước khi quở trách hay ra một giới luật mới. Chúng tôi ngẫm lại và thấy dường như thời nay không có ai làm điều này, (kể cả những vị tăng nối tiếng hay cao hạ), đại đa số chỉ nghe qua tin tức báo chí hay truyền thông trên mạng xã hội là đã vội vàng đi đến kết luận. Chúng tôi mong rằng từ nay tất cả chúng ta (dù là tăng ni hay cư sĩ tại gia) sẽ cẩn trọng hơn. Trước khi lên án một tu sĩ, hãy bó chút thời gian tìm hiểu về vị này, cách vị ấy tu hành như thế nào? Cách giảng dạy của vị ấy ra sao? Những hoạt động của tăng đoàn nơi đó có đem lại nhiều lợi lạc cho tứ chúng hay không? Cũng như thế ấy, trước khi cúng dường, hỗ trợ nơi nào, phật tử chúng ta cần phải thận trọng xem xét các tăng ni nơi đó có thật tâm tu hành hay không? Chúng tôi hy vọng rằng, với một đóng góp nhỏ nhoi như vậy của tất cả phật tử chúng ta, sẽ là một duyên lành giúp tất cả thuận duyên tu hành và đồng thời bảo tồn được chánh pháp. 

Nếu vì vô minh chúng con có viết những gì sai quấy, xin các vị cao tăng và thiện tri thức thật lòng chỉ dạy.  

* * *   

Hôm nay tôi sẽ nói về cư sĩ tại gia trong đạo Phật, cách nhìn của Đức Phật về cư sĩ, cách họ tương tác với tăng đoàn (cộng đồng tu sĩ), và cách thực hành lý tưởng nhất cho họ.  

Cư sĩ tại gia rất quan trọng bởi vì cộng đồng cư sĩ đông hơn cộng đồng tu sĩ Phật giáo rất nhiều. Ở cương vị một thày tu, một trong những điều tôi thấy khá thú vị là có một số cư sĩ rất đáng ngưỡng mộ, họ hành đạo tốt đẹp và có nếp sống thật là tuyệt vời. Nhiều khi tôi thấy họ hành xử đáng khâm phục hơn một số tăng sĩ mà tôi biết. Đời nay chỉ có một số rất nhỏ thực sự nghiêm túc tu hành, cho dù họ không mặc áo thầy tu tôi vẫn thấy họ tốt và có trí tuệ hơn đại đa số những vị tuy là tu sĩ mà không coi trọng việc thực hành Phật pháp. Vì lý do đó, tôi nghĩ điều quan trọng mà cư sĩ tại gia cần phải quan tâm tìm hiểu, đó là hành đạo thực sự có nghĩa là thế nào và làm sao để có thể tương tác tốt với cộng đồng tăng ni.  

Trước hết nên bắt đầu với khái niệm nền tảng, một quan niệm phổ thông ở những quốc gia Phật giáo truyền thống, về mối quan hệ cơ bản giữa tu sĩ và cư sĩ, đó là: các tu sĩ là những vị thầy tâm linh, cư sĩ là những người hỗ trợ vật chất cho tu sĩ. Có lẽ đây là một quan điểm hạn chế trong Phật giáo, một quan điểm cơ bản, bởi vì về cơ bản, Phật giáo sẽ không thể tồn tại nếu không có cả hai điều này. Cộng đồng tu sĩ chỉ tồn tại vì sự hào phóng của cư sĩ, và đó là điểm mấu chốt trong mối quan hệ giữa tu sĩ và cư sĩ.  

Đức Phật nói về bốn Parisa. Parisa có nghĩa là một hội đồng, một hội chúng, hoặc một nhóm người. Bốn Parisa đó là Tăng, Ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ. Đây là bốn nhóm, bốn hội chúng trong Phật giáo (tứ chúng) và theo Đức Phật, nếu tất cả bốn hội chúng này tồn tại thì Phật giáo mới đầy đủ, trọn vẹn. Tất cả bốn hội chúng đều cần thiết để giữ cho Phật giáo tiếp tục tồn tại, và một trong những quan niệm cơ bản là quan niệm cư sĩ hỗ trợ tu sĩ và, để đáp lại, tu sĩ dạy giáo lý cho cư sĩ.  

Tuy nhiên, như tôi đã nói, quan hệ cư sĩ - tu sĩ còn đi xa hơn thế nữa. Một trong những vai trò đặc biệt của cư sĩ, của cộng đồng Phật tử, là để kiểm soát các tu sĩ và đây mới chính là điều đáng nói. Từ xa xưa, trong thời Đức Phật, về cơ bản, cộng đồng cư sĩ quan sát các vị tu sĩ và họ hiểu nơi nào nên hỗ trợ, nơi nào không nên hỗ trợ. Qua đó, ta thấy cộng đồng cư sĩ thực sự có một ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo, đối với Tăng đoàn, đối với hàng tăng chúng. Quý vị ở trong một cương vị có rất nhiều quyền lực, bởi vì nếu quý vị ngừng hỗ trợ thì Tăng đoàn không thể hoạt động được nữa và đó chính là một cơ chế an toàn rất quan trọng trong Phật giáo. Tại sao? Bởi vì, nếu quá độc lập thì con người, với những sức mạnh đen tối trong tâm trí, những phiền não, tham lam, giận dữ, ảo tưởng..., những thứ này luôn có xu hướng chế ngự ta (chiếm lấy chúng ta), và chúng ta thấy điều này trong tăng đoàn, chúng ta thấy điều này trên thế giới, chúng ta thấy điều này ở khắp mọi nơi, và một trong những phương thuốc để ngăn ngừa điều này, chính là các cư sĩ biết hướng sự hỗ trợ của mình một cách thiện xảo đến những nơi họ biết, hay đoán rằng, Phật giáo được thực hành đúng đắn.  

Có thể quý vị không biết mình có rất nhiều quyền lực. Thật ra, cư sĩ có nhiều quyền lực hơn tu sĩ rất nhiều. Là tu sĩ, chúng tôi làm được gì? Tăng Ni chỉ có quyền gọi là “úp bát không nhận cúng dường”. Đây là “quyền hành” duy nhất mà tăng ni có được. Đối với một Phật tử trong xứ Phật giáo truyền thống thì đây có thể là một điều khá quan trọng. Một trong những ví dụ thú vị về việc này: gần đây ở Miến Điện, khi quân đội vẫn còn cầm quyền, họ đã làm những điều tồi tệ và có lần, tăng đoàn quyết định cần phải làm gì đó với quân đội để họ không áp bức mọi người, không áp bức tăng đoàn. Vì vậy, họ đã quyết định “úp bát” với chế độ quân sự, điều này rất hệ trọng ở Miến Điện và quân đội đã vô cùng khó chịu. Tại sao? Bởi vì cơ hội tạo nghiệp tốt, làm công đức tốt của họ đã bị phá hủy. Là một tu sĩ, đây là “quyền hành” duy nhất mà chúng tôi có được đối với cư sĩ, thật chẳng đáng kể gì.  

Còn quý vị, với tư cách là cư sĩ, quý vị có quyền lực, từ chối hỗ trợ khi Phật giáo không được thực hành đúng đắn. Nếu nhìn vào lịch sử của Phật giáo, từ thời Đức Phật, cách sử dụng “quyền lực” này là để làm cho Phật giáo được tinh khiết. Một trong những câu chuyện thú vị liên quan đến việc này là câu chuyện được kể lại trong lần kết tập kinh điển lần thứ nhất. Sau khi Đức Phật nhập diệt, tăng đoàn nhận thấy trách nhiệm và mục đích của tăng đoàn là bảo tồn Phật pháp. Vì vậy mà tất cả chư tăng tụ họp lại để tụng niệm những lời Phật dạy và cũng nhờ thế mà ngày nay chúng ta mới còn có được những lời dạy của Đức Phật. Có một điều thú vị xảy ra ở kỳ kết tập kinh điển này, sau khi tụng đọc đã xong, ngài Ananda, thị giả của Đức Phật, người đã ghi nhớ tất cả lời dạy của Phật, nói rằng trước khi nhập diệt Đức Phật nói chư tăng có thể bỏ những giới luật phụ. Tăng có tất cả 227 giới luật, được chia làm hai phần, 17 giới chính và 210 giới phụ. Nếu chúng ta bỏ đi những giới chính thì coi như đã bỏ đi 90 hay hơn 90% giới luật. Ni có đến 310 giới luật nhưng chỉ có 25 giới chính. Các vị tăng hỏi ngài Ananda có biết rõ ràng Đức Phật  muốn nói giới luật nào là phụ ? Ngài Anada nói là không biết! Các vị ấy không thể đồng ý giới luật nào là phụ! Thế là ngài Đại Ca Diếp, vị tăng được tôn kính nhất trong tăng đoàn thời bấy giờ, nói rằng “Đức Phật vừa nhập diệt mà chúng ta đã bỏ hết giới luật thì hàng cư sĩ Phật tử sẽ nói gì? Họ biết những giới luật của chúng ta, nếu chúng ta bỏ đi thì họ sẽ nói các ông thật là bê bối, Đức Phật mới nhập diệt, điều đầu tiên các ông làm là bỏ hết giới luật!”.  

Cơ bản cũng vì biết trước phản ứng của cộng đồng Phật tử về việc dẹp bỏ các giới luật nên các vị ấy đã quyết định giữ lại hết tất cả các giới luật. Thật là đặc biệt và nó cũng cho ta thấy ngay từ thuở ban đầu các Phật tử đã biết những giới luật của chư tăng ni. Tôi cũng khuyến khích quý vị nên tìm hiểu, học hỏi chút ít về giới luật của tăng ni, có như vậy thì quý vị mới có thể biết tăng ni nào sống đúng đắn, tăng ni nào không. Thí dụ khi thấy tu sĩ có gia đình thì chắc chắn là không đúng. Còn nhiều, nhiều giới luật như vậy nữa, thí dụ tu sĩ không nên xử dụng tiền bạc, tu sĩ phải có một đời sống đạo đức, trong sạch và lý tưởng nhất là phải làm gương. Vì vậy, điều quan trọng là nên học để biết một chút về những điều mà các tăng ni có thể làm và những điều tăng ni không được làm. Nếu là một tăng ni tốt thì thực sự chẳng có gì để phải lo sợ. Điều này (biết về giới luật của tăng ni) giúp Phật giáo phát triển đúng hướng, giúp Phật tử biết nên hỗ trợ nơi nào và không nên hỗ trợ nơi nào.  

Một trong những điều thú vị khác là bộ giới luật cho tăng ni được thành lập phần lớn là từ những lời than phiền của hàng cư sĩ tại gia. Khi các Phật tử tìm đến Đức Phật để than phiền về những hành vi xấu của tăng ni thì Đức Phật gọi vị đó đến hỏi có đúng như vậy không? Nếu đúng thì Đức Phật lại ban ra thêm một giới luật mới. Đức Phật xem những lời than phiền của Phật tử rất nghiêm túc, cho nên nếu có vấn đề gì với tăng chúng thì cứ việc nêu lên, không sao cả, nhiều khi nhờ vậy mà có thể thực sự giải quyết được một số vấn đề trong tăng đoàn.  

Vì vậy, đây là một mối quan hệ rất quan trọng giữa tăng đoàn và cộng đồng cư sĩ, đây là cách chúng ta giữ gìn Phật giáo trong sạch cho tương lai, đây là cách chúng ta tránh rơi vào con đường của phiền não và những vấn đề bại hoại trong Phật giáo. Có quá nhiều đồi bại trong Phật giáo trên khắp thế giới. Để giảm thiểu điều đó, Phật tử cần ghi nhớ những phương cách hữu ích này.  

Nhưng đây thật ra cũng chỉ là bước đầu giữa mối quan hệ tăng ni và Phật tử, sự hành trì của Phật tử còn đi xa hơn thế rất nhiều. Trong bài kinh nổi tiếng, Đại bát Niết bàn, có đoạn kinh hay nhất nói về tứ chúng và nói về sự thực hành của cư sĩ tại gia. Bài kinh tuyệt vời này nói về những ngày cuối cùng của Đức Phật trước khi ngài nhập diệt. Thật là một bài kinh vô cùng cảm động, hãy tưởng tượng Đức Phật, một thiên tài vĩ đại nhất trong lịch sử loài người sắp sửa nhập diệt! Có một đoạn nói Ma Vương tìm đến Đức Phật và nói “Thưa ngài, lần đầu gặp gỡ ngài nói sẽ không nhập diệt trước khi bốn chúng: tăng, ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ được thành lập vững mạnh. Bây giờ thì tứ chúng đã được thành lập và vững mạnh, ngài nên nhập diệt đi thôi”. Đức Phật thấy Ma Vương nói có lý, tứ chúng đã được vững mạnh. Vậy thì tứ chúng được vững mạnh là như thế nào? Có nghĩa là trước tiên bạn phải nắm bắt rõ ràng các giáo lý Phật dạy, bạn đã lắng nghe các giáo lý Phật dạy và đã hiểu chúng, bạn đã thâm nhập chúng với chánh kiến để biết những gì đang xảy ra. Vì vậy, điều đầu tiên và cơ bản mà cư sĩ nên làm là hiểu rõ các giáo lý Phật dạy.  

Vào thời Đức Phật có rất nhiều những cư sĩ như vậy. Nếu nhìn vào lịch sử Phật giáo ta sẽ thấy một trong những bài kinh hay của Đức Phật đã được truyền lại từ những cư sĩ tại gia. Thí dụ, trong mùa an cư, khi các tu sĩ không được ra ngoài ngoại trừ trường hợp đặc biệt. Một trong những trường hợp đặc biệt là nếu có cư sĩ nhớ những lời Phật dạy nhưng sắp sửa chết, họ có thể nhắn chư tăng đến học lời dạy này để bảo tồn lời Phật dạy. Vị tăng ấy sẽ đến để nghe, học bài kinh từ vị cư sĩ đó, đem về để rồi kết hợp vào trong kinh tạng. Những trường hợp này cho thấy các cư sĩ được đặt ngang hàng với các tu sĩ trên vấn đề ghi nhớ kinh điển và giữ gìn Phật giáo cho tương lai. Một trường hơp khác rất nổi tiếng, nguyên một tuyển tập nhiều bài kinh ngắn gọi là Itivuttaka (Phật Tự Thuyết, trong Tiểu bộ kinh), đã được ghi nhớ và tụng đọc lại cho chư tăng bởi một nữ cư sĩ. Trong bối cảnh xã hội thời đó, người nữ thường không có địa vị cao trong xã hội, nhưng về phần ghi nhớ kinh điển thì họ được đặt ngang hàng với mọi người khác. Tuyển tập kinh này có nhiều bài kinh rất hay, khi nào đọc quý vị hãy nhớ điều thú vị này.  

Một ví dụ khác mà tôi thấy rất đặc biệt vì nó đã đảo ngược lại vai trò của cư sĩ và tu sĩ. Đó là cư sĩ nổi tiếng Ugga, ông đã đắc quả thánh Bất Lai và ông thường mời tăng chúng đến nhà thọ trai, thông thường sau khi thọ trai một vị tăng sẽ giảng pháp, nhưng nếu không có vị nào giảng pháp thì chính ông cư sĩ Ugga sẽ là người thuyết pháp cho các vị tăng ấy. Chúng ta quen thấy chư tăng là thầy dạy đạo, nhưng ở đây ta thấy cư sĩ lại là người giảng dạy cho chư tăng. Điều này cho ta thấy người nào có trí tuệ, người nào có sự hiểu biết thì người đó nên giảng dạy.  

Như vậy, điều đầu tiên người cư sĩ cần làm là học hỏi giáo pháp, và chỉ khi nào họ thấm nhuần giáo lý thì họ mới thật sự trở thành một “chúng” trong tứ chúng của cộng đồng Phật giáo. Một khi đã học giáo lý thì điều thứ hai cần làm là đem giáo lý ra áp dụng trong việc thực hành. Thực hành một cách đúng đắn là bạn đã hoàn tất mọi giai đoạn trên đường đạo và tất cả những yếu tố cần phải làm, về phương diện giới hạnh, về thiền định và cả về phương diện trí tuệ nữa. Điều này thực sự có nghĩa là bạn đã trở thành một người cao quý, những người đã hoàn toàn thâm nhập vào giáo lý tuyệt vời, siêu việt của nhà Phật. Có rất nhiều “thánh cư sĩ” vào thời Đức Phật và “hành đạo đúng pháp”- Dhammanu dhamma Patipattiya có nghĩa là như thế. Điều này cũng là một phần của đời sống cư sĩ nếu bạn muốn sống trọn vẹn và Đức Phật cũng đã nói là điều này có thể thành tựu được.  

Một khi đã hành trì giáo pháp tốt và hiểu thấu đáo lời Phật dạy, ngài nói bạn nên phân tích, làm cho rõ ràng rồi nên đem ra chia sẻ với người khác. Cư sĩ cũng nên làm thầy vì có rất nhiều lợi ích, chính bạn cũng sẽ học hỏi được rất nhiều. Tôi nghĩ chúng ta nên đem những tư tưởng từ thời Đức Phật về áp dụng trong thời đại mới này và chúng ta nên khuyến khích cư sĩ đi giảng dạy, nhất là thời nay cư sĩ đông hơn tu sĩ rất nhiều, đôi khi chúng ta phải tận dụng nguồn năng lực một cách thiện xảo. Như vậy quý vị đã biết thêm một điều quan trọng nữa về “Parisa”, khả năng ra giảng dạy Phật pháp của cư sĩ.  

Điều cuối cùng mà Đức Phật nói liên quan đến việc giảng dạy là phải có khả năng biện luận, bác bỏ những giáo lý khác. Điều đó có nghĩa là chúng ta có sự hiểu biết về sự khác biệt giữa Phật giáo và các giáo lý khác, chúng ta biết điều gì làm cho Phật giáo trở nên đặc biệt. Vậy thì điều gì khiến cho đạo Phật khác biệt? Nhiều người nói đạo nào cũng giống nhau, cũng hướng về một hướng tốt. Thật tuyệt khi nghĩ như vậy nhưng đó không phải là bức tranh đầy đủ, có rất nhiều điểm tương đồng giữa các tôn giáo trên thế giới, có rất nhiều điều tương đồng trong lĩnh vực đạo đức, nhưng cũng có những khác biệt quan trọng. Điều làm cho Phật giáo khác biệt hoàn toàn với tất cả các giáo lý khác là giáo lý vô ngã. Ý tưởng rằng không có điều gì vốn tự nó hiện hữu trên đời, đây là điều làm cho Phật giáo hoàn toàn độc đáo. Đại đa số các tôn giáo khác trên thế giới tin tưởng có một đấng tạo hóa, một thực thể trường tồn trong vũ trụ. Một phần của quan điểm có một đấng tạo hóa bên ngoài là quan điểm có một linh hồn bên trong, có một bản thể trường cửu trong con người. Chúng ta muốn hiện hữu dưới một hình tướng nào đó, theo một phương cách nào đó, và vì muốn được hiện hữu nên chúng ta có khuynh hướng cho rằng có một cái gì đó trường tồn cố hữu bên trong chúng ta. Vì vậy, đây là một trong những điểm khác biệt quan trọng nhất, nguyên tắc cốt lõi, theo đó Phật giáo khác biệt với hầu hết mọi tôn giáo khác trên thế giới.  

Mặc dù điều này hơi bên lề nhưng để quý vị có thêm hiểu biết nên tôi đã đề cập đến ở đây, ít ra nó cũng cho bạn thấy vào thời Đức Phật, khi bốn hội chúng được thiết lập thực sự mạnh mẽ, các cư sĩ vô cùng uyên bác, họ hiểu ý tưởng về vô ngã, họ hiểu điều này một cách rốt ráo. Trong kinh cũng có những ví dụ rất hay, cho chúng ta nhiều cảm hứng về sự hiểu biết đạo pháp và cách tu hành của các vị cư sĩ trong thời Đức Phật, thí dụ như ông Cấp Cô Độc, người đã cúng dường Đức Phật một tịnh xá lớn nhất thời bấy giờ ở Ấn Độ, gọi là Kỳ Viên tịnh xá ở thành Xá Vệ và ông cũng là đại thí chủ hỗ trợ Đức Phật và tăng đoàn. Sau một thời gian, Đức Phật nói khi đã thực hành tốt đẹp như ông rồi thì ông cũng nên tìm nơi vắng vẻ để hưởng phúc lạc của sự ẩn cư. Vậy thì, nếu quý vị đã có một nền tảng tốt như giữ giới, làm việc phước thiện, sống tử tế thì hãy dùng những điều này để thể nghiệm phúc lạc của việc ẩn cư. Phúc lạc của việc ẩn cư chính là trạng thái thiền định sâu mà chúng ta hướng đến khi thực hành thiền định.  

Có một ví dụ khác trong kinh đã từng gây nhiều cảm hứng cho tôi, đó là câu chuyện về bà Visakha, một đại thí chủ, tài năng và đức độ. Có một lần bà xin Đức Phật đặc quyền để được hỗ trợ tăng đoàn: cúng dường y đến chư tăng ni cho đến trọn đời, hỗ trợ những tăng ni đau ốm và những vị chăm sóc cho tăng ni bị đau ốm, cúng dường cho tăng ni mới đến và tăng ni sắp rời thành Xá Vệ, cúng dường lúa mạch đến tăng ni, cúng dường y tắm mưa đến các ni. Với sự hiểu biết thâm sâu về giáo pháp bà đã trình bày với Đức Phật lý do tại sao bà muốn được đặc quyền ấy, đại để là nhờ đó mà mai kia khi bà nghe nói có tăng ni nào đã từng ở thành Xá Vệ đã giác ngộ hay đã tiến bộ nhiều trên đường đạo thì bà biết là bà đã cúng dường vị đó và tâm bà sẽ hoan hỷ và nhờ niềm hoan hỷ đó bà cũng sẽ đạt được những tầng thiền sâu.  

Quả thật bà đã hiểu sâu sắc một trong những lời dạy chính của Đức Phật về sự tiến bộ trong thiền tập. Nếu thực hành đúng cách, sống tử tế và rộng lượng, có lòng từ bi và bỏ đi những ý xấu, những tư tưởng tiêu cực, khi nền tảng của thiện hạnh đã được vững chắc thì thiền định sẽ tự động tiến triển tốt đẹp. Và dĩ nhiên, từ những tầng định sâu đó mà tuệ giác sẽ phát sinh và khiến bạn trở thành một Aryan, một người cao quý.  

Vì vậy, nên nhớ rằng nếu muốn trở thành một Phật tử thực sự, hãy thực hành một cách nghiêm túc và bạn cũng sẽ có thể đạt được tất cả những thành quả tuyệt vời này. Niềm hạnh phúc hơn xa tất cả những hạnh phúc bạn từng mơ ước là điều mà đạo Phật dành sẵn cho tất cả mọi người trong chúng ta. Vì vậy nếu bạn muốn trở thành một phần của cộng đồng (tứ chúng) này thì hãy làm theo lời khuyên của Đức Phật, hãy thực hành những giáo lý Phật dạy một cách đầy đủ và mỗi chúng ta sẽ trở thành một phước lành cho bản thân và cho mọi người.  

AJAHN BRAHMALI,
Practicing Lay Buddhists, Pháp thoại tại Tây Úc, 22-10-2019

*-----*




Sunday, 18 December 2022

Sách nói (Audio book) - PHẬT ĐIỂN THÔNG DỤNG: HƯỚNG DẪN VÀ TUỆ TRI CỦA ĐỨC PHẬT

Sách nói (Audio book)
PHẬT ĐIỂN THÔNG DỤNG: HƯỚNG DẪN VÀ TUỆ TRI CỦA ĐỨC PHẬT
Thích Nhật Từ,  Chủ biên & hiệu đính (2022)

Thực hiện Sách nói: Nhóm Thế Giới Phật Giáo (https://thegioiphatgiao.org/)
Người  đọc: Giang Ngọc

Link để tải về máy (190 tập tin MP3, thời lượng tổng cộng: 27 giờ):
https://drive.google.com/drive/folders/1NdRGOg7SeHze9ZoyvwUZpVuUoXnbyNyk 

* Tải bản PDF (ấn bản 2022):
https://tinyurl.com/mdwzbxw6 (15.5 MB)

* Bản PDF Anh ngữ:
Common Buddhist Text: Guidance and Insight from the Buddha.
Editors: Venerable Brahmapundit, Peter Harvey (2017)
https://tinyurl.com/2s3az3ab (4.3 MB) 

*




Tuesday, 6 December 2022

Sách: Cốt lõi Kinh Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm - Thích Hạnh Bình

 Sách:

1) Những vấn đề cốt lõi trong Kinh Trường A-hàm. Thích Hạnh Bình. 
https://tinyurl.com/mpr5y6em (1.6 MB)

2) Những vấn đề cốt lõi trong Kinh Trung A-hàm. Thích Hạnh Bình. 
https://tinyurl.com/257k57pt (2.7 MB)

3) Những vấn đề cốt lõi trong Kinh Tạp A-hàm. Thích Hạnh Bình. 
https://tinyurl.com/2s48e6ma (1.9 MB) 

*




Monday, 5 December 2022

Kinh: TAM TẠNG PHẬT GIÁO BỘ PHÁI - BỘ A-HÀM - VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM (2022)

Tải về máy dạng ebook PDF (các tập tin có dung lượng lớn, đề nghị dùng máy tính hay laptop để tải):

- Tập 17a: Kinh Trường A-hàm (CĐPH Huệ Nghiêm dịch), [vn222-17a.pdf], 50.8 MB
https://tinyurl.com/3n4xxvcn

- Tập 17b: Kinh Trường A-Hàm (Trung Tâm DT Trí Tịnh dịch), [vn222-17b.pdf], 54.3 MB
https://tinyurl.com/bddkxyde

- Tập 18: Kinh Trung A-Hàm (CĐPH Hải Đức dịch), [vn222-18.pdf], 117.8 MB
https://tinyurl.com/2p92k7an

- Tập 19: Kinh Trung A-Hàm (Trung Tâm DT Trí Tịnh), [vn222-19.pdf], 143.5 MB
https://tinyurl.com/2p9sk9z5

- Tập 20: Kinh Tạp A-Hàm (HT Thiện Siêu, HT Thanh Từ dịch), [vn222-20.pdf], 161.0 MB
https://tinyurl.com/22hbczks

- Tập 21: Kinh Tạp A-Hàm (Trung Tâm DT Trí Tịnh dịch), [vn222-21.pdf], 211.6 MB
https://tinyurl.com/3uhw4s2d

- Tập 22: Kinh Tăng Nhất A-Hàm (HT Thiện Siêu, HT Thanh Từ dịch), [vn222-22.pdf], 82.3 MB
https://tinyurl.com/5cd6xwtj

- Tập 23: Kinh Tăng Nhất A-Hàm (Trung Tâm DT Trí Tịnh), [vn222-23.pdf], 105.3 MB
https://tinyurl.com/2sdtuy26

*
Liệt kê chi tiết:
TRƯỜNG A-HÀM
01. Kinh Đại Bổn 
02. Kinh Du Hành 
03. Kinh Điển Tôn 
04. Kinh Xà-Ni-Sa 
05. Kinh Tiểu Duyên 
06. Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành 
07. Kinh Tệ-Túc 
08. Kinh Tán-Đà-Na 
09. Kinh Chúng Tập 
10. Kinh Thập Thượng 
11. Kinh Tăng Nhất 
12. Kinh Tam Tụ 
13. Kinh Đại Duyên Phương Tiện 
14. Kinh Thích-Đề-Hoàn-Nhân Vấn 
15. Kinh A-Nậu-Di 
16. Kinh Thiện Sanh 
17. Kinh Thanh Tịnh 
18. Kinh Tự Hoan Hỷ 
19. Kinh Đại Hội 
20. Kinh A-Ma-Trú 
21. Kinh Phạm Động 
22. Kinh Chủng Đức 
23. Kinh Cứu-La-Đàn-Đầu 
24. Kinh Kiên Cố 
25. Kinh Phạm Chí Lõa Hình 
26. Kinh Tam Minh 
27. Kinh Sa-Môn Quả 
28. Kinh Bố-Tra-Bà-Lâu 
29. Kinh Lộ-Già 
30. Kinh Thế Ký 

TRUNG A-HÀM
Phẩm 01 - Bảy Pháp (Kinh số 1 - 10) 
Phẩm 02 - Nghiệp Tương Ưng (Kinh số 11 - 20) 
Phẩm 03 - Tương Ưng Xá-Lợi-Phất (Kinh số 21 - 31) 
Phẩm 04 - Pháp Hy Hữu (Kinh số 32 - 41) 
Phẩm 05 - Tập Tương Ưng (Kinh số 42 - 57) 
Phẩm 06 - Tương Ưng Vua (Kinh số 58 - 71) 
Phẩm 07 - Vua Trường Thọ (Kinh số 72 - 86) 
Phẩm 08 - Uế (Kinh số 87 - 96) 
Phẩm 09 - Nhân (Kinh số 97 - 106) 
Phẩm 10 - Khu Rừng (Kinh số 107 - 115) 
Phẩm 11 - Đại (Kinh số 116 - 141) 
Phẩm 12 - Phạm Chí (Kinh số 142 - 161) 
Phẩm 13 - Căn Bản Phân Biệt (Kinh số 162 - 171) 
Phẩm 14 - Tâm (Kinh số 172 - 181) 
Phẩm 15 - Song (Kinh số 182 - 191) 
Phẩm 16 - Đại (Kinh số 192 - 201) 
Phẩm 17 - Bô-Lợi-Đa (Kinh số 202 - 211) 
Phẩm 18 - Lệ (Kinh số 212 - 222) 

TẠP A-HÀM
Quyển 01 (Kinh số 1 – 32) 
Quyển 02 (Kinh số 33 – 58) 
Quyển 03 (Kinh số 59 – 87) 
Quyển 04 (Kinh số 88 – 102) 
Quyển 05 (Kinh số 103 – 110) 
Quyển 06 (Kinh số 111 – 138) 
Quyển 07 (Kinh số 139 – 187) 
Quyển 08 (Kinh số 188 – 229) 
Quyển 09 (Kinh số 230 – 255) 
Quyển 10 (Kinh số 256 – 272) 
Quyển 11 (Kinh số 273 – 282) 
Quyển 12 (Kinh số 283 – 303) 
Quyển 13 (Kinh số 304 – 342) 
Quyển 14 (Kinh số 343 – 364) 
Quyển 15 (Kinh số 365 – 406) 
Quyển 16 (Kinh số 407 – 454) 
Quyển 17 (Kinh số 455 – 489) 
Quyển 18 (Kinh số 490 – 503) 
Quyển 19 (Kinh số 504 – 536) 
Quyển 20 (Kinh số 537 – 558) 
Quyển 21 (Kinh số 559 – 575) 
Quyển 22 (Kinh số 576 – 603) 
Quyển 23 (Kinh số 604) 
Quyển 24 (Kinh số 605 – 639) 
Quyển 25 (Kinh số 640 - 641) 
Quyển 26 (Kinh số 642 – 711) 
Quyển 27 (Kinh số 712 – 747) 
Quyển 28 (Kinh số 748 – 796) 
Quyển 29 (Kinh số 797 – 829) 
Quyển 30 (Kinh số 830 – 860) 
Quyển 31 (Kinh số 861 – 904) 
Quyển 32 (Kinh số 905 – 918) 
Quyển 33 (Kinh số 919 – 939) 
Quyển 34 (Kinh số 940 – 969) 
Quyển 35 (Kinh số 970 – 992) 
Quyển 36 (Kinh số 993 – 1022) 
Quyển 37 (Kinh số 1023 – 1061) 
Quyển 38 (Kinh số 1062 – 1080) 
Quyển 39 (Kinh số 1081 – 1103).pdf
Quyển 40 (Kinh số 1104 – 1120).pdf
Quyển 41 (Kinh số 1121 – 1144).pdf
Quyển 42 (Kinh số 1145 – 1163).pdf
Quyển 43 (Kinh số 1164 – 1177).pdf
Quyển 44 (Kinh số 1178 – 1197).pdf
Quyển 45 (Kinh số 1198 – 1221).pdf
Quyển 46 (Kinh số 1222 – 1240).pdf
Quyển 47 (Kinh số 1241 – 1266).pdf
Quyển 48 (Kinh số 1267 – 1293).pdf
Quyển 49 (Kinh số 1294 – 1324).pdf
Quyển 50 (Kinh số 1325 – 1362).pdf

TĂNG NHẤT A-HÀM
01. Phẩm Tựa 
02. Phẩm Thập Niệm 
03. Phẩm Quảng Diễn 
04. Phẩm Đệ Tử 
05. Phẩm Tỳ-Kheo-Ni 
06. Phẩm Thanh Tín Sĩ (Ưu-Bà-Tắc) 
07. Phẩm Thanh Tín Nữ (Ưu-Bà-Di) 
08. Phẩm A-Tu-La 
09. Phẩm Một Đứa Con 
10. Phẩm Hộ Tâm 
11. Phẩm Bất Đãi 
12. Phẩm Nhập Đạo 
13. Phẩm Lợi Dưỡng 
14. Phẩm Ngũ Giới 
15. Phẩm Hữu Vô 
16. Phẩm Hỏa Diệt 
17. Phẩm An-Ban (1) 
17. Phẩm An-Ban (2) 
18. Phẩm Tàm Quý 
19. Phẩm Khuyến Thỉnh 
20. Phẩm Thiện Tri Thức 
21. Phẩm Tam Bảo 
22. Phẩm Cúng Dường 
23. Phẩm Địa Chủ 
24. Phẩm Cao Tràng 
25. Phẩm Tứ Đế 
26. Phẩm Tứ Ý Đoạn 
27. Phẩm Tứ Đế 
28. Phẩm Thanh Văn 
29. Phẩm Khổ Lạc 
30. Phẩm Tu-Đà 
31. Phẩm Tăng Thượng 
32. Phẩm Thiện Tụ 
33. Phẩm Ngũ Vương 
34. Phẩm Đẳng Kiến 
35. Phẩm Tà Tư 
36. Phẩm Thính Pháp 
37. Phẩm Lục Trọng 
38. Phẩm Lực 
39. Phẩm Đẳng Pháp 
40. Phẩm Thất Nhật 
41. Phẩm Mạc Úy 
42. Phẩm Bát Nạn 
44. Phẩm Chín Nơi Cư Trú Của Chúng Sanh 
43. Phẩm Thiên Tử Mã Huyết Hỏi Về Bát Chánh 
45. Phẩm Mã Vương 
46. Phẩm Kết Cấm 
47. Phẩm Thiện Ác 
48. Phẩm Thập Bất Thiện 
49. Phẩm Chăn Trâu 
50. Phẩm Lễ Tam Bảo 
51. Phẩm Phi Thường 
52. Phẩm Đại Ái Đạo Nhập Niết-Bàn 

*-----*