Sunday, 16 November 2025

Các vận hành đặc thù kỳ lạ của Nghiệp: Ảnh hưởng sâu sắc của Pháp sư Thích Giác Đức trong đời tôi

CÁC VẬN HÀNH ĐẶC THÙ KỲ LẠ CỦA NGHIỆP:
ẢNH HƯỞNG SÂU SẮC CỦA PHÁP SƯ THÍCH GIÁC ĐỨC TRONG ĐỜI TÔI 
(The strange workings of Karma: The influence of Thích Giác Đức on my life) 
Điếu văn của Bhikkhu Bodhi trong tang lễ Pháp sư Thích Giác Đức, ngày 9/11/2025 

Thích Trừng Sỹ dịch Việt

*  

Đôi khi, chỉ một cuộc gặp gỡ tình cờ với một người cũng có thể làm thay đổi toàn bộ hướng đi của cuộc đời ta theo những cách mà ta không thể nào lường trước được. Chẳng hạn, bạn có thể dự định học quản trị kinh doanh ở đại học, nhưng rồi bạn lại đăng ký một khóa học văn chương do một giáo sư tuyệt vời giảng dạy, người đã truyền cảm hứng cho bạn qua những bài giảng về Shakespeare và thơ hiện đại. Bạn quyết định chuyển ngành sang văn học thay vì quản trị kinh doanh, và cuối cùng trở thành một giáo viên dạy tiếng Anh thay vì một doanh nhân.

Trong trường hợp của tôi, người đã thay đổi hướng đi của cuộc đời tôi chính là Thầy Thích Giác Đức. Chuyện đã diễn ra thế này: Tôi nhập học chương trình tiến sĩ triết học tại Đại học Claremont Graduate University vào tháng 9 năm 1966. Lúc đó, tôi đã có mối quan tâm đến Phật giáo, điều mà tôi đã bắt đầu tìm hiểu từ thời còn là sinh viên đại học. Thậm chí tôi đã từng thử hành thiền một mình, nhưng rồi sớm bỏ cuộc vì không biết cách duy trì việc thiền tập khi không có người hướng dẫn chuyên môn.  

Vào đầu học kỳ hai của tôi tại Claremont, tháng 2 năm 1967, một hôm tôi thấy một người đàn ông mặc áo màu nâu đi ngang qua khu ký túc xá dành cho nghiên cứu sinh. Tôi nhận ra ông là một vị tăng sĩ Phật giáo, và có người nói với tôi rằng ông đến từ Việt Nam. Tôi chưa có dịp nói chuyện với ông, nhưng vài ngày sau, một nhóm bạn học cao học đã mời tôi đến một buổi họp mặt tại một nhà nghỉ trên núi Mount Baldy, một ngọn núi lớn gần Claremont. Khi đến nơi, tôi thấy vị sư người Việt Nam ấy cũng có mặt ở đó.  

Mặc dù trước đây tôi chưa từng nói chuyện với thầy, nhưng thầy bước đến chào tôi và nói rằng thầy cảm thấy chúng tôi có nhiều điểm tương đồng, và có một mối liên kết nào đó. Thầy còn nói rằng tôi có khả năng hiểu được đạo Phật. Điều đó khiến tôi khá ngạc nhiên, thậm chí là bối rối, vì thầy không thể nào biết tôi đã sẵn quan tâm đến Phật Pháp. Có khoảng hai mươi sinh viên có mặt hôm đó, nhưng bằng cách nào đó thầy đã chọn tôi để bắt chuyện. Tôi nói với thầy rằng tôi thật sự quan tâm đến Phật giáo, và đặc biệt là muốn học thiền. Thầy bảo rằng thầy có thể dạy tôi, và chúng tôi hẹn gặp nhau vào tuần sau.  

Vào một ngày trong tuần, tôi đến phòng của thầy trong khu ký túc xá, và thầy đã chỉ dẫn cho tôi bài học thiền đầu tiên – niệm hơi thở. Tôi bắt đầu hành thiền, ban đầu 30 phút buổi sáng và buổi tối, sau đó tăng lên 40 rồi 50 phút, hai lần một ngày. Thỉnh thoảng tôi đến gặp thầy để trình bày kết quả thực tập của mình, và vào những dịp ấy, thầy cũng giảng cho tôi thêm về đạo Phật. Khi tôi cảm nhận được lợi ích của thiền định, dần dần niềm tin của tôi vào giá trị của chánh Pháp càng ngày càng tăng trưởng.  

Một ngày nọ, khoảng hai tháng sau khi tôi bắt đầu thiền tập, ý nghĩ bất chợt xuất hiện trong tâm tôi: “Tôi muốn trở thành một tu sĩ Phật giáo.” Và thế là, trong lần gặp kế tiếp, tôi hỏi thầy liệu thầy có thể cho tôi xuất gia được không. Thầy nói rằng thầy sẽ viết thư xin phép chư Tăng tại Việt Nam để thỉnh ý.  

Bây giờ nhìn lại, tôi thấy ý nghĩ muốn xuất gia của mình khi đó thật điên rồ, không thể giải thích bằng lý trí. Lúc đó tôi mới 22 tuổi, chỉ thực hành thiền được hai tháng, và tôi hoàn toàn không biết việc trở thành một tu sĩ Phật giáo sẽ là như thế nào. Nhưng tôi nghĩ Thầy Giác Đức có tuệ giác đặc biệt về con người tôi, và có lẽ thầy đã thấy rằng giữa chúng tôi có một mối liên hệ nghiệp duyên sâu xa từ quá khứ. Thầy viết thư cho các vị Trưởng lão Tăng Đoàn ở Việt Nam và nhận được sự đồng ý của quý Ngài cho phép tôi xuất gia và truyền giới Sa-di cho tôi trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.  

Lễ xuất gia diễn ra vào ngày 23 tháng 5 năm 1967, đúng ngày rằm tháng Tư – Đại Lễ Phật Đản năm ấy. Thầy có một người bạn ở Los Angeles là Thầy Thích Thiên Ân, một vị giáo sư thỉnh giảng tại Đại học California, Los Angeles (UCLA). Thầy Thiên Ân đã sắp xếp cho chúng tôi tổ chức buổi lễ xuất gia tại một ngôi chùa Phật giáo Nhật Bản ở Los Angeles, và nơi đó tôi chính thức xuất gia và thọ giới Sa-di. Thầy Giác Đức đặt cho tôi pháp danh tiếng Việt là Giác Tuệ, tương ứng với tiếng Nam Phạn Pali hay Bắc Phạn Sanskrit là Bodhi.  

Mùa thu năm 1967, Thầy và tôi chuyển đến một căn nhà nhỏ ở thị trấn Claremont. Một người bạn chung, Conn Hickey, và một nghiên cứu sinh khác tên là Tatsuo Muneto, một vị sư Phật giáo người Nhật đến từ Hawaii cùng đến dùng bữa với chúng tôi mỗi ngày. Trong ba năm sau đó ở Claremont, bốn chúng tôi thường cùng nhau ăn cơm mỗi buổi tối, thay phiên nhau nấu ăn, và Thầy là người nấu rất giỏi. Tôi sống cùng Thầy ở đó ba năm, cho đến khi Thầy học xong tiến sĩ và trở về Việt Nam vào mùa xuân năm 1970.  

Qua Thầy, tôi không chỉ học được lý thuyết và thực hành Phật giáo, mà còn hiểu rõ về những cuộc đấu tranh của những người Phật tử Việt Nam. Tôi được biết Phật giáo Việt Nam đã từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp tàn nhẫn; bản thân Thầy đã bị giam giữ, đánh đập, và tra tấn trong tù; và các Tăng Ni đã tự thiêu để bảo vệ chánh Pháp. Tôi cũng hiểu thêm về tình cảnh Phật giáo Việt Nam bị kẹt giữa hai thế lực: một bên là cộng sản, bên kia là các chính quyền độc tài được Hoa Kỳ hậu thuẫn. Thầy đã trình bày cho tôi thấy tầm nhìn về một Phật giáo dấn thân, không chỉ hướng đến giác ngộ cá nhân, mà còn nhằm chuyển hóa xã hội dựa trên các giá trị Phật giáo về lòng từ bi và bình đẳng của con người.  

Trong thời gian chúng tôi sống chung, Thầy thường thảo luận với tôi về những kế hoạch con đường tu tập tương lai của tôi. Vì lúc bấy giờ, ở Hoa Kỳ chưa có tu viện đào tạo tu sĩ Phật giáo, nên thầy xác định rằng tôi cần sang châu Á để tu học và thọ giới Tỳ-kheo. Thầy nhận biết do chiến tranh nên tôi không thể về Việt Nam tu học. Ban đầu Thầy định cho tôi đến Ấn Độ, học tại Học viện Phật giáo Nalanda. Tuy nhiên, sau đó, Thầy nghĩ rằng nếu tôi sống ở một quốc gia Phật giáo truyền thống thì tốt hơn và đề nghị tôi nên đến Tích Lan (Sri Lanka) tiếp tục con đường tu học Phật Pháp. Điều này có nghĩa là tôi chuyển từ Đại thừa (Mahayana) Phật giáo Việt Nam sang Nguyên Thủy (Theravāda) Phật giáo Tích Lan. Thầy rất tôn trọng truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy và kinh điển Pali. Ngay tại Claremont, chúng tôi đã đặt mua toàn bộ bản dịch tiếng Anh của các bộ Nikāya do Hội Pali Text Society xuất bản, và thường tham khảo và đối chiếu các bộ này với các bộ A-hàm trong Hán tạng.  

Sau khi Thầy trở về Việt Nam, tôi gặp một số chư Tăng Tích Lan đi qua Los Angeles, trong đó có Trưởng lão Piyadassi Thera ở chùa Vajirarama, Colombo. Ngài đã giới thiệu tôi đến vị Trưởng lão Ananda Maitreya, vị Tăng thống của hệ phái Amarapura, người sau này trở thành thầy giáo thọ truyền giới cho tôi. Khi tôi hoàn tất luận án tiến sĩ tại Claremont, tôi rời Hoa Kỳ sang Tích Lan, nhưng trên đường đi, tôi dừng lại ở Việt Nam hai tháng, phần lớn ở Chùa Giác Minh, nơi Thầy Giác Đức trụ trì tại Sài Gòn. Lúc ấy, Conn Hickey cũng đang ở Sài Gòn để nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam.  

Tôi rời Việt Nam vào tháng 10 năm 1972, và khi đến Tích Lan, tôi thọ giới lại theo truyền thống Theravāda, trước tiên là sa-di, rồi sáu tháng sau là tỳ-kheo. Sau ba năm tu học ở Tích Lan, tôi dự định quay lại Việt Nam để thăm Thầy lần nữa. Tháng 3 năm 1975, tôi đến Ấn Độ, dự định an cư mùa mưa, hành hương các thánh tích Phật giáo, và cuối năm sẽ về thăm Việt Nam. Tuy nhiên, vào tháng 4 năm 1975, chính quyền Cộng sản cai quản Việt Nam, và Thầy phải rời Việt Nam sang Hoa Kỳ. Vì vậy, khi kết thúc thời gian thăm viếng ở Ấn Độ, tôi trở lại Tích Lan tu học hai năm nữa, đến 1977 thì tôi trở về Mỹ. Sau đó, tôi quay trở lại Tích Lan năm 1982, và ở đó 20 năm tu học và nghiên cứu Phật Pháp bằng tiếng Pali cho đến khi trở về Hoa Kỳ vào năm 2002.  

Suốt những năm tháng ấy, tôi luôn biết ơn Thầy Giác Đức, người đã dẫn tôi trở thành vị tu sĩ Phật giáo. Nếu không gặp Thầy, cuộc đời tôi hoàn toàn khác hẳn. Có thể tôi đã trở thành giáo sư triết học ở một Đại học nào đó, hay đi theo một ngành nghề nào khác. Nhưng thật là đại phúc cho tôi khi tôi sống đời sống xuất gia suốt 58 năm cho tới nay năm 2025, và chính nhờ duyên lành gặp Pháp Sư Thích Giác Đức hướng dẫn tôi đã đi theo con đường xuất gia tu học Phật Pháp ngay thuở ban đầu.  

Tôi đến thăm Thầy tại nhà riêng ở thành phố Newton vào năm 2015 và 2017, nhưng từ đó tôi không gặp lại Thầy. Đầu năm nay, tôi có dịp sang Việt Nam ba tuần, lần đầu tiên kể từ năm 1972. Tôi ghé thăm lại chùa Giác Minh một lát, nhưng vì chư Tăng đi vắng nên tôi chỉ có thể nhìn Chùa từ bên ngoài. Chuyến thăm ấy khơi dậy trong tôi biết bao kỷ niệm sâu sắc trước đây giữa tôi với Thầy. Khi các Phật tử Bangladesh mời tôi làm diễn giả chính cho buổi lễ hằng năm tại Cambridge vào ngày 31 tháng 8, tôi vui vẻ nhận lời và biết rằng nhân dịp đó tôi có thể gặp lại Thầy. 

Ngày 30 tháng 8, tôi đến thăm Thầy và Cô Dung tại nhà riêng ở Newton. Cuộc gặp thật vui mừng. Tôi thấy Thầy, người vừa tròn 90 tuổi vào trung tuần tháng 8, vẫn còn khỏe mạnh và tinh thần sáng suốt. Cả hai chúng tôi đều vô cùng xúc động và vui mừng khi gặp lại nhau. Thầy kể rằng cuộc viếng thăm của tôi khiến Thầy rơi nước mắt. Tôi hối tiếc vì đã không đến viếng thăm Thầy thường xuyên hơn, nhưng nghĩ rằng chúng tôi sẽ có cơ hội gặp nhau nhiều lần nữa.  

Tuy nhiên, điều đó đã không thành hiện thực. Giữa tháng 10, Conn Hickey báo tin Thầy bị đau tim và đang điều trị tại bệnh viện ở Boston. Khi vừa sắp xếp xong công việc tại Chùa Trang Nghiêm (Chuang Yen), nơi tôi đang sống, tôi lập tức đến Boston thăm Thầy. Thật là một phước lớn lao cho tôi khi được ở bên Thầy trong tuần cuối cùng của đời Thầy trên thế gian này. Conn cũng kịp lúc bay từ California đến để cùng túc trực bên Thầy. Mặc dù Thầy không mở mắt hay nói được, nhưng tôi tin rằng Thầy vẫn nghe và hiểu khi tôi bày tỏ lòng tri ân sâu sắc với Thầy vì tình bạn, tình đồng tu, và sự hướng dẫn của Thầy đã ảnh hưởng rất lớn trong đời sống xuất gia của tôi. 

Tuần cuối ấy, Conn, Thầy, và tôi cùng ở bên nhau trong phòng chăm sóc đặc biệt, như thể khép lại vòng tròn khởi đầu 58 năm trước ở thành phố Claremont. Từ 1967 đến 1970, ba chúng tôi dành thời gian quây quần mỗi tối, bàn luận về Phật pháp, chiến tranh Việt Nam, và những vấn đề lớn lao của thời đại. Giờ đây, chúng tôi dành thời gian cả tuần ngồi lại bên nhau trong phòng bệnh của Thầy, nhưng lần này là sự tĩnh lặng tràn đầy lòng thương yêu, thay vì những cuộc trò chuyện sôi nổi ngày xưa. 

Tôi chắc chắn không nghĩ rằng sự viên tịch của Thầy đánh dấu sự kết thúc mối liên hệ giữa chúng tôi. Thầy vẫn sống mãi trong tâm trí và trái tim tôi. Thầy đã truyền cảm hứng cho tôi ý tưởng rằng mục đích đi theo con đường Phật giáo không chỉ là tìm kiếm giải thoát cho riêng mình, mà còn là nỗ lực tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn – thế giới của hòa bình, công lý, và phẩm giá cho tất cả mọi người. Thầy luôn nhấn mạnh rằng ta phải đặt người khác lên trước bản thân, và chính Thầy đã làm được như vậy, và thầy là hiện thân của Bồ-tát hạnh và Bồ-tát đạo.  

Tấm gương của Thầy tiếp tục là nguồn cảm hứng cho đời sống tu sĩ của tôi, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi mọi người khắp nơi trên thế giới đang phải đối mặt với quá nhiều khổ đau, kể cả tại Hoa Kỳ. 

Dù tôi không có bất cứ ký ức nào về các đời sống quá khứ, nhưng tôi cảm nhận sâu sắc rằng giữa Thầy và tôi đã gặp nhau qua một mối liên hệ nhân duyên mật thiết từ nhiều kiếp trước. Tôi cũng tin chắc rằng khi bánh xe luân hồi tiếp tục quay, chúng ta sẽ gặp lại nhau để cùng nhau đi trên con đường giác ngộ của Đức Thế Tôn, tay trong tay.  

– Bhikkhu Bodhi, 
Boston, Massachusetts, USA 
(Thích Trừng Sỹ dịch Việt)

* Nguồn: https://phapnhan.org/tv/cac-van-hanh-dac-thu-ky-la-cua-nghiep-su-anh-huong-cua-phap-su-thich-giac-duc-trong-doi-toi/ 

*-----*

Bhikkhu Bodhi trong tang lễ Pháp sư Thích Giác Đức, ngày 9/11/2025

Bhikkhu Bodhi và Pháp sư Thích Giác Đức, 30/08/2025

Bhikkhu Bodhi và Thượng tọa Thích Trừng Sỹ, 09/11/2025


Tuesday, 11 November 2025

Bộ Bản Duyên (Hán tạng, T152-T219)

 BỘ BẢN DUYÊN
(Hán tạng, T152-T219)
Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam xuất bản, 6 tập (2025)

- Tập 26: Bộ Bản Duyên, Tập 1 (Trung Tâm DT Huệ Quang dịch), [vn222-26.zip], 201 MB 
https://tinyurl.com/4s3mnumh  
- Tập 27: Bộ Bản Duyên, Tập 2 (Trung Tâm DT Huệ Quang dịch), [vn222-27.zip], 163 MB 
https://tinyurl.com/4kakuraz  
- Tập 28: Bộ Bản Duyên, Tập 3 (Trung Tâm DT Huệ Quang dịch), [vn222-28.zip], 266 MB 
https://tinyurl.com/mrdza4cu  
- Tập 29: Bộ Bản Duyên, Tập 4 (Trung Tâm DT Huệ Quang dịch), [vn222-29.zip], 247 MB 
 https://tinyurl.com/y5y2vr8m 
- Tập 30: Bộ Bản Duyên, Tập 5 (Trung Tâm DT Huệ Quang dịch), [vn222-30.zip], 125 MB 
https://tinyurl.com/4b2ssc3v  
- Tập 31: Bộ Bản Duyên, Tập 6 (nhiều dịch giả), [vn222-31.zip], 175 MB  
https://tinyurl.com/mmjvew8j   

* DẪN LUẬN BỘ BẢN DUYÊN, Hán tạng (T0152-0219)
Thích Nhật Từ (2025).
https://tinyurl.com/mrxkze4t [vn345.pdf], 6.2 MB

* GIỚI THIỆU BỘ BẢN DUYÊN, HÁN TẠNG
Thích Nhật Từ

 Phân loại theo mã số yà chủ đề trong Đại chánh Tân tu Đại tạng kinh, viết tắt là T, Bộ Bản duyên là bộ hay nhóm chủ đề lớn thứ hai trong 28 bộ (chủ đề), có mã số T03n152-T03n191 và T04n0192-T04n219 gồm 68 kinh với nhiều chủ đề khác nhau, bắt đầu từ kinh số 0152 đến kinh số 0219 trong ấn bản CBETA.

 Bộ Bản duyên chia thành 4 nhóm chủ đề chính:

 (i) KINH PHẬT BẢN SANH từ số 0152-0183, gồm 459 trang trong ấn bản Đại Chánh, tương đương với Chuyện tiền thân đức Phật (Jātaka) trong Tiểu bộ. Đây cũng là chủ đề có số lượng câu chuyện tiền thân của đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhiều nhất so với các chủ đề còn lại trong Hán tạng. Các bản kinh này được viết bàng văn xuôi, trong khi đó Jātaka được viết bằng văn vần và được chú giải bằng văn xuôi. Bản Chuyện tiền thân của đức Phật đã xuất bản trong Tiểu bộ là phần kết hợp giữa văn vần trong Chánh tạng và văn xuôi trong Chú giải.

 (ii) PHẬT TRUYỆN, từ số 0184-0196, gồm 629 trang trong ấn bản Đại Chánh, tương đương với Phật sử (Buddhavamsa) trong Tiểu bộ. Nổi bật trong nhóm này là Phật sở hành tán (Buddhacarita) và Kinh Tăng-già-la-sát sở tập.

 (iii) NHÂN DUYÊN PHẬT VÀ CÁC ĐỆ TỬ, từ số 0197-0209, gồm 384 trang trong ấn bản Đại Chánh, tương đương với Thánh nhân ký sự (Apadāna) trong Tiểu bộ. Thể loại này cũng tương đương với Thí dụ truyện (Avadāna).

 (iv) KINH PHÁP CÚ VÀ NHÓM KINH VỀ THÍ DỤ, từ số 0210-0219, gồm 228 trang trong ấn bản Đại Chánh, tương đương Kinh Pháp cú (Dhammapada) trong Tiểu bộ và Chú giải Kinh Pháp cú (Dhammapada-atthakathā) trong hệ thống Phật giáo Thượng Tọa bộ.

 Cấu trúc bản tiếng Việt chia thành 6 quyển. Năm quyển đầu do Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang thực hiện. Quyển 1 tương ứng với chủ đề một. Quyển 2 và 3 tương ứng với chủ đề hai. Quyển 4 tương ứng với chủ đề ba. Quyển 5 tương ứng với chủ đề bốn. Mỗi quyển tiếng Việt đều trên 1.000 trang. Quyển 6 không theo nhóm chủ đề, mà là tổng hợp các bản dịch đơn lẻ của nhiều tác giả khoảng từ thập niên 50 của thế kỷ trước đến hiện nay.

DỊCH GIẢ BỘ BẢN DUYÊN TIẾNG VIỆT
Bộ Bản duyên được phân bố in thành 6 quyển. Năm quyển đầu là thành quả dịch thuật của Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang do Hòa thượng Thích Minh Cảnh - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học, Giám đốc Trung tâm Dịch thuật Hán Nôm Huệ Quang chỉ đạo phiên dịch trong khoảng hơn 10 năm. Năm 2017, khi bắt đầu dự án biên tập và ấn hành Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam, công trình dịch thuật được Hòa thượng chỉ đạo tái biên tập và dịch bổ sung. Năm 2018, Hòa thượng Thích Minh Cảnh viên tịch, Hòa thượng Thích Phước Cẩn - Phó Viện trưởng, tiếp nối sứ mạng làm Giám đốc Trung tâm, cùng với nhị vị Phó Giám đốc Thượng tọa Thích Thiện Thuận, Thượng tọa Thích Nguyên Trang và tập thể dịch giả Trung tâm đã nỗ lực hoàn thành bộ kinh này vào cuối năm 2023. Ngoài ra, vì để đáp ứng kịp tiến độ ấn hành, ấn bản Bộ Bản duyên còn có sự đóng góp một vài dịch phẩm của Thượng tọa Thích Nguyên Hùng và Thượng tọa Thích Đồng Ngộ như Luận về những câu chuyện tiền thân của Bồ-tát, số 0160; Kinh Thái tử Mộ-phách, số 0167; Kinh Thiểm Tử, số 0175a và Phật thuyết kinh Thiểm Tử, số 0175b, 0175c; Kinh Pháp cú, số 0210.

 Một số kinh Bản duyên chữ Hán có cùng một nội dung bởi do một dịch giả thực hiện ở hai thời điểm khác nhau, hoặc trên một để bản nhưng có hai vị dịch. Tất cả đều được bảo lưu đầy đủ trong hệ thống Tam tạng Trung Quốc. Ví dụ: Kinh Bồ-tát Thiểm Tử, số 0174, mất tên người dịch; số 0175a, 0175b, 0175c do Pháp sư Thích Thánh Kiên dịch, nội dung và văn phong các bản dịch gần giống nhau. Thay vì các nhà biên tập Đại Chánh tạng chọn một bản dịch của dịch giả, nhưng các vị đã lưu đầy đủ cả 3 bản. Điều này cho thấy người đời xưa rất cẩn trọng, đã giữ lại các dịch phâm đã hiệu đính hoặc bản đầu tiên chưa kịp hiệu đính của các vị tiền bối. Trong những trường hợp này, chúng tôi chỉ chọn một bản hoàn thiện nhất để dịch sang Việt ngữ.

 Nhiều tích truyện trong kinh không có tựa đề, khiến việc theo dõi và ghi nhớ trở nên khó khăn. Để giúp người đọc dễ dàng hơn trong việc này, Ban Biên tập đã khéo léo chọn lọc và đặt các tựa đề tiếng Việt dựa trên gợi ý từ Đại Chánh tạng hoặc từ chính nội dung kinh văn. Các kinh được đặt tựa đề gồm: (1) Phật thuyết kinh Bồ-tát bản hạnh (số 0155), 12 tích truyện; (2) Kinh đại trang nghiêm luận (sồ 0201), 90 chương; (3) Kinh tạp thí dụ (số 0204), 12 tích truyện; (4) Kinh tạp thí dụ (số 0205), 32 tích truyện; (5) Kinh cựu tạp thí dụ (số 0206), 61 tích truyện; (6) Kinh tạp thí dụ (0207), 39 tích truyện; (7) Chúng kinh soạn tạp thí dụ (số 0208), 44 tích truyện.

 Riêng quyển 6 là tuyển tập đặc biệt các bản dịch lẻ kinh Bản duyên do các dịch giả tiền bối thực hiện từ thập niên 50 của thế kỷ trước đến nay. Các bản dịch tiêu biểu của chư vị Hòa thượng, đại dịch giả như Đại lão HT. Thích Phổ Tuệ, HT. Thích Trung Quán, HT. Thích Nhất Hạnh, HT. Thích Quảng Độ, GS. Lê Mạnh Thát,... được tuyển chọn kết tập, nhằm tôn vinh những đóng góp của quý ngài. Riêng một số bản dịch của HT. Thích Trí Quang và cư sĩ Đào Nguyên, vì lý do tác quyền, nên các dịch phẩm chưa được đưa vào bộ Tam tạng Thánh điển này.

 Vê âm vận của mỗi bản dịch, Ban Biên tập tôn trọng tính khách quan, tính vùng miền của mỗi dịch giả, nên giữ nguyên, không đồng bộ hóa. Ví dụ những từ ngữ “cúng dàng” hay “cúng dường”, “Chính pháp” hay “Chánh pháp”, “sanh” và “sinh”, ... trong các bản dịch được giữ theo cách dụng ngữ của dịch giả.

   – Thích Nhật Từ

*-----*






Sunday, 2 November 2025

KINH TẠNG & LUẬT TẠNG online

 KINH TẠNG & LUẬT TẠNG online 

Có thể tìm đọc trực tuyến (online) các bộ kinh do Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành từ năm 2020 tại:

1) Kinh tạng Pāli:
https://vncphvn.com/tam-tang/tang-pali/kinh-pali

2) Luật tạng Pāli:
https://vncphvn.com/tam-tang/tang-pali/luat-pali

3) Kinh tạng A-hàm:
https://vncphvn.com/tam-tang/bo-phai/kinh-bo-phai

*-----*