Tuesday, 4 October 2016

Đại niệm xứ?

Gần đây, tôi nhận được vài thông tin của bạn bè FB trong đó có cụm từ “đại niệm xứ”. Chúng ta hiểu thế nào về cụm từ nầy? Niệm xứ mà lại có lớn (đại), có nhỏ hay sao?

Có lẽ cụm từ nầy bắt nguồn từ tựa đề bài kinh Đại Niệm Xứ (Trường Bộ, kinh số 22), bài kinh rất quen thuộc với các thiền sinh. Thế nhưng, dịch tựa đề là “Kinh Đại Niệm Xứ” từ tựa Pali “Mahasatipatthana Sutta” có đúng không? Chữ Đại (Maha) là bổ nghĩa cho chữ “niệm xứ” hay chữ “kinh”?

Thật ra, tựa đề “Maha” là để phân biệt 2 bài kinh có nội dung hầu như tương tự: kinh Niệm xứ trong Trung bộ (kinh số 22) và bài kinh dài hơn trong Trường bộ (kinh số 10). Như thế, “maha” (đại) ở đây là bổ nghĩa cho chữ “sutta” (kinh).

Nếu dịch sát nghĩa Hán Việt, tựa đề phải là: "Đại niệm xứ kinh", hay theo cách dùng thông thường trong tiếng Việt ngày nay: Đại kinh Niệm xứ, nghĩa là một bài kinh lớn (dài) về Niệm xứ.

Do đó, cụm từ “Đại Niệm Xứ”, nếu dùng riêng rẻ, là vô nghĩa.

Nhiều năm trước, tôi có viết vài dòng ghi chú về chữ “’Đại” trong tựa đề các bài kinh. Xin ghi lại dưới đây.

* * *

Đại kinh hay kinh đại?

Trong kinh tạng, chúng ta thấy có các cặp bài kinh cùng một tựa đề, chỉ khác nhau ở chữ Maha (Đại) và Cula (Tiểu). Thí dụ như hai bài kinh: Cula-sihanada Sutta (Trung Bộ 11) và Maha-sihanada Sutta (Trung Bộ 12). Chúng ta dịch hai tựa đề đó như thế nào? Kinh Tiểu Sư Tử Hống và Kinh Đại Sư Tử Hống? Hay là Tiểu Kinh Sư Tử Hống và Đại Kinh Sư Tử Hống? Ở đây, chữ Tiểu và Đại là bổ nghĩa cho chữ nào? Nếu dịch là Kinh Đại Sư Tử Hống, ta sẽ hiểu như thế nào về cụm từ "Đại Sư Tử Hống"? Là tiếng rống lớn của con sư tử, hay là tiếng rống của con sư tử lớn?

Vì thế, nếu chúng ta hiểu tựa đề của hai bài kinh trên có nghĩa là bài kinh ngắn và bài kinh dài về tiếng rống sư tử, tựa đề hai bài đó có thể dịch là Tiểu Kinh Sư Tử Hống và Đại Kinh Sư Tử Hống. Điều này cũng tương đồng với tựa đề của các bản dịch Anh ngữ của Tỳ khưu Bodhi: The Shorter Discourse on the Lion's Roar và The Greater Discourse on the Lion's Roar. Tương tự như thế cho các cặp bài kinh khác:

- Đại Kinh Khổ Uẩn (Maha-dukkhakkhanda Sutta, Trung Bộ 13) và Tiểu Kinh Khổ Uẩn (Cula-dukkhakkhanda Sutta, Trung Bộ 14).

- Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi (Cula-hatthipadopama Sutta, Trung Bộ 27) và Đại Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi (Maha-hatthipadopama Sutta, Trung Bộ 28).

- Ðại Kinh Ví Dụ Lõi Cây (Maha-saropama Sutta, Trung Bộ 29) và Tiểu Kinh Ví Dụ Lõi Cây (Cula-saropama Sutta, Trung Bộ 30).

- Tiểu Kinh về Không (Cula-sunnata Sutta, Trung Bộ 121) và Đại Kinh về Không (Maha-sunnata Sutta, Trung Bộ 122).

- Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt (Cula-kammavibhanga Sutta, Trung Bộ 135) và Đại Kinh Nghiệp Phân Biệt (Maha-kammavibhanga Sutta, Trung Bộ 136).

- Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta, Trung Bộ 10) và Đại Kinh Niệm Xứ (Maha-satipatthana Sutta, Trường Bộ 22).

- v.v.

Thêm vào đó, tựa bài kinh Maha-parinibbana Sutta (Trường Bộ 16) có lẽ nên dịch là Đại kinh Bát-niết-bàn, thay vì Kinh Đại Bát-niết-bàn như thường gặp trong nhiều tài liệu kinh sách. Chữ Đại ở đây là bổ nghĩa cho chữ Kinh, Đại Kinh là bài kinh dài. Theo thiển ý, chữ Bát-niết-bàn (phiên âm của parinibbana) tự nó đã đủ nghĩa, không cần có thêm tính từ "Đại".

– Bình Anson, 2007

*

No comments: