Tiến trình tu tập cho hàng cư sĩ
SỢ HÃI VÀ HẬN THÙ (AN 10.92)
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
Bình Anson hiệu đính dựa theo bản dịch tiếng Anh của Bhikkhu Bodhi
Bấy giờ có Gia chủ
Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) đi đến Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên. Rồi
Thế Tôn nói với Gia chủ Anāthapiṇḍika:
“Này Gia chủ, khi nào vị thánh
đệ tử đã diệt trừ năm sợ hãi hận thù, thành tựu bốn chi phần Dự lưu, khéo thấy
và khéo thể nhập thánh lý với trí tuệ; nếu muốn, vị ấy có thể tự tuyên bố rằng:
‘Ta đã đoạn tận địa ngục; ta đã đoạn tận bàng sinh; ta đã đoạn tận ngạ quỷ; ta
đã đoạn tận các cõi dữ, ác thú, đọa xứ; ta đã chứng Dự lưu, không còn bị đọa
lạc, quyết chắc tiến đến chứng đạt cứu cánh giác ngộ.’
“Thế nào là năm sợ hãi hận thù
đã được diệt trừ? (1) Này Gia chủ, người nào sát sinh, do duyên sát sinh tạo ra
sợ hãi hận thù ngay trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai,
khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Người nào từ bỏ sát sinh, người ấy không tạo ra sợ
hãi hận thù trong hiện tại, không tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong tương lai,
tâm không cảm thọ khổ ưu. Do từ bỏ sát sinh, sợ hãi hận thù này được diệt trừ.
(2) “Người nào lấy của không
cho, do duyên lấy của không cho tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong hiện tại, tạo
ra sợ hãi hận thù trong tương lai, khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Người nào từ bỏ
lấy của không cho, người ấy không tạo ra sợ hãi hận thù trong hiện tại, không
tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong tương lai, tâm không cảm thọ khổ ưu. Do từ bỏ
lấy của không cho, sợ hãi hận thù này được diệt trừ.
(3) “Người nào tà hạnh trong
các dục, do duyên tà hạnh trong các dục tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong hiện
tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Người nào
từ bỏ tà hạnh trong các dục, người ấy không tạo ra sợ hãi hận thù trong hiện
tại, không tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong tương lai, tâm không cảm thọ khổ
ưu. Do từ bỏ tà hạnh trong các dục, sợ hãi hận thù này được diệt trừ.
(4) “Người nào nói láo, do duyên
nói láo tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong
tương lai, khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Người nào từ bỏ nói láo, người ấy không
tạo ra sợ hãi hận thù trong hiện tại, không tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong
tương lai, tâm không cảm thọ khổ ưu. Do từ bỏ nói láo, sợ hãi hận thù này được
diệt trừ.
(5) “Người nào đắm say trong
rượu men, rượu nấu, do duyên đắm say trong rượu men, rượu nấu tạo ra sợ hãi hận
thù ngay trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, khiến tâm cảm
thọ khổ ưu. Người nào từ bỏ đắm say trong rượu men, rượu nấu, người ấy không
tạo ra sợ hãi hận thù trong hiện tại, không tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong
tương lai, tâm không cảm thọ khổ ưu. Do từ bỏ đắm say trong rượu men, rượu nấu,
sợ hãi hận thù này được diệt trừ.
“Đó là năm sợ hãi hận thù đã
được diệt trừ.
“Thế nào là thành tựu bốn chi
phần Dự lưu? (1) Ở đây, này Gia chủ, vị thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động
đối với Phật: ‘Ðây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn.’
(2) “Vị ấy thành tựu tịnh tín
bất động đối với Pháp: “Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại,
không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự
mình giác hiểu.’
(3) “Vị ấy thành tựu tịnh tín
bất động đối với Tăng: ‘Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; trực hạnh là chúng đệ
tử Thế Tôn; ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; chân chính hạnh là chúng đệ tử
Thế Tôn; tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được đảnh lễ, đáng được chắp tay, là phước điền vô
thượng ở đời.’
(4) “Vị ấy thành tựu với những
giới được các bậc thánh ái kính, không bị phá hủy, không bị bể vụn, không bị
điểm chấm, không bị uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tán thán, không
bị chấp trước, đưa đến thiền định.
“Ðó là thành tựu bốn chi phần
Dự lưu.
“Thế nào là khéo thấy và khéo
thể nhập thánh lý với trí tuệ? Ở đây, này Gia chủ, vị thánh đệ tử quán sát như
sau: ‘Do cái này có, cái kia có. Do cái này sinh, cái kia sinh. Do cái này
không có, cái kia không có. Do cái này diệt, cái kia diệt. Tức là do duyên vô
minh, có các hành. Do duyên các hành, có thức. Do duyên thức, có danh sắc. Do
duyên danh sắc, có sáu nhập. Do duyên sáu nhập, có xúc. Do duyên xúc, có thọ.
Do duyên thọ, có ái. Do duyên ái, có thủ. Do duyên thủ, có hữu. Do duyên hữu,
có sinh. Do duyên sinh, có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Như vậy, là sự tập
khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
“‘Do vô minh diệt không có dư
tàn, nên các hành diệt. Do các hành diệt, nên thức diệt. Do thức diệt, nên danh
sắc diệt. Do danh sắc diệt, nên sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt, nên xúc diệt.
Do xúc diệt, nên thọ diệt. Do thọ diệt, nên ái diệt. Do ái diệt, nên thủ diệt.
Do thủ diệt, nên hữu diệt. Do hữu diệt, nên sinh diệt. Do sinh diệt, nên già,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này diệt.’
“Ðó là khéo thấy và khéo thể
nhập thánh lý với trí tuệ.
“Này Gia chủ, khi nào với vị
thánh đệ tử, năm sợ hãi hận thù này được diệt trừ, bốn Dự lưu phần này được
thành tựu, và thánh lý này được khéo thấy và khéo thể nhập với trí tuệ, nếu
muốn, vị ấy có thể tự tuyên bố rằng: ‘Ta đã đoạn tận địa ngục; ta đã đoạn tận
bàng sinh; ta đã đoạn tận ngạ quỷ; ta đã đoạn tận cõi dữ, ác thú, đọa xứ; ta đã
chứng được Dự lưu, không còn bị đọa lạc, quyết chắc tiến đến chứng đạt cứu cánh
giác ngộ.’”
* * *
ENMITY (AN 10.92)
translated by Bhikkhu Bodhi
Then the householder
Anāthapiṇḍika approached the Blessed One, paid homage to him, and sat down to
one side. The Blessed One then said to him:
“Householder, when a noble
disciple has eliminated five perils and enmities, possesses the four factors of
stream-entry, and has clearly seen and thoroughly penetrated with wisdom the
noble method, he might, if he so wished, declare of himself:
‘I am one finished with hell,
the animal realm, and the sphere of afflicted spirits; finished with the plane
of misery, the bad destination, the lower world; I am a stream-enterer, no
longer subject to [rebirth in] the lower world, fixed in destiny, heading for
enlightenment.’
“What are the five perils and
enmities that have been eliminated?
(1) Householder, one who
destroys life, with the destruction of life as condition, creates peril and
enmity pertaining to the present life and peril and enmity pertaining to future
lives, and he also experiences mental pain and dejection. One who abstains from
the destruction of life does not create such peril and enmity pertaining to the
present life or such peril and enmity pertaining to future lives, nor does he
experience mental pain and dejection. For one who abstains from the destruction
of life, that peril and enmity has thus been eliminated.
(2) “One who takes what is not
given ...
(3) One who engages in sexual
misconduct ...
(4) One who speaks falsely ...
(5) One who indulges in liquor,
wine, and intoxicants, the basis for heedlessness, with indulgence in liquor,
wine, and intoxicants as condition, creates peril and enmity pertaining to the
present life and peril and enmity pertaining to future lives, and he also
experiences mental pain and dejection. One who abstains from liquor, wine, and
intoxicants, the basis for heedlessness, does not create such peril and enmity
pertaining to the present life or such peril and enmity pertaining to future
lives, nor does he experience mental pain and dejection. For one who abstains
from liquor, wine, and intoxicants, the basis for heedlessness, that peril and
enmity has thus been eliminated.
“These are the five perils and
enmities that have been eliminated.
“And what are the four factors
of stream-entry that he possesses?
(1) Here, householder, a noble
disciple possesses unwavering confidence in the Buddha thus: ‘The Blessed One
is an arahant, perfectly enlightened, accomplished in true knowledge and
conduct, fortunate, knower of the world, unsurpassed trainer of persons to be
tamed, teacher of devas and humans, the Enlightened One, the Blessed One.’
(2) He possesses unwavering
confidence in the Dhamma thus: ‘The Dhamma is well expounded by the Blessed
One, directly visible, immediate, inviting one to come and see, applicable, to
be personally experienced by the wise.’
(3) He possesses unwavering
confidence in the Saṅgha thus: ‘The Saṅgha of the Blessed One’s disciples is
practicing the good way, practicing the straight way, practicing the true way,
practicing the proper way; that is, the four pairs of persons, the eight types
of individuals—this Saṅgha of the Blessed One’s disciples is worthy of gifts,
worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation,
the unsurpassed field of merit for the world.’
(4) He possesses the virtuous
behavior loved by the noble ones, unbroken, flawless, unblemished, unblotched,
freeing, praised by the wise, ungrasped, leading to concentration. These are
the four factors of stream-entry that he possesses.
“And what is the noble method
that he has clearly seen and thoroughly penetrated with wisdom?
Here, householder, the noble
disciple reflects thus: ‘When this exists, that comes to be; with the arising
of this, that arises. When this does not exist, that does not come to be; with
the cessation of this, that ceases. That is, with ignorance as condition,
volitional activities [come to be]; with volitional activities as condition,
consciousness; with consciousness as condition, name-and-form; with name-and-form
as condition, the six sense bases; with the six sense bases as condition,
contact; with contact as condition, feeling; with feeling as condition,
craving; with craving as condition, clinging; with clinging as condition,
existence; with existence as condition, birth; with birth as condition, old age
and death, sorrow, lamentation, pain, dejection, and anguish come to be. Such
is the origin of this whole mass of suffering.
“‘But with the remainderless
fading away and cessation of ignorance comes cessation of volitional
activities; with the cessation of volitional activities, cessation of
consciousness; with the cessation of consciousness, cessation of name-and-form;
with the cessation of name-and-form, cessation of the six sense bases; with the
cessation of the six sense bases, cessation of contact; with the cessation of
contact, cessation of feeling; with the cessation of feeling, cessation of
craving; with the cessation of craving, cessation of clinging; with the
cessation of clinging, cessation of existence; with the cessation of existence,
cessation of birth; with the cessation of birth, old age and death, sorrow,
lamentation, pain, dejection, and anguish cease. Such is the cessation of this
whole mass of suffering.’
“This is the noble method that
he has clearly seen and thoroughly penetrated with wisdom.
“Householder, when a noble
disciple has eliminated these five perils and enmities, and he possesses these
four factors of stream-entry, and he has clearly seen and thoroughly penetrated
with wisdom this noble method, he might, if he so wished, declare of himself:
‘I am one finished with hell, the animal realm, and the sphere of afflicted
spirits; finished with the plane of misery, the bad destination, the lower
world; I am a stream-enterer, no longer subject to [rebirth in] the lower
world, fixed in destiny, heading for enlightenment.’”
*---*---*
Tạp A-hàm – SĀ 846
SỢ HẢI VÀ OÁN THÙ
Hòa thượng Thích Đức Thắng dịch,
Hòa thượng Tuệ Sỹ hiệu chính & chú
thích
Tôi nghe như vầy. Một thời,
Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo
các tỳ-khưu:
“Nếu tỳ-khưu dập tắt được năm
sợ hãi và oán thù[1], được ba pháp quyết định, chẳng sinh nghi hoặc, tri kiến
như thật về chánh đạo của bậc hiền thánh; vị thánh đệ tử này có thể tự ký
thuyết rằng đã diệt tận các đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, đắc
Tu-đà-hoàn, không còn bị rơi vào pháp đường ác, hướng thẳng đến chánh giác, chỉ
còn bảy lần qua lại trời, người, rốt ráo thoát khổ.
“Thế nào là dập tắt năm điều
sợ hãi và oán thù? Nếu sợ hãi phát sinh do nhân duyên oán thù của tội sát sinh;
người ấy tránh xa sự sát sinh, thì sợ hãi phát sinh do nhân duyên oán thù của
tội sát sinh được dập tắt. Nếu sợ hãi phát sinh do nhân duyên oán thù của sự
trộm cắp, người ấy tránh xa sự trộm cắp, thì sợ hãi phát sinh do nhân duyên oán
thù của sự trộm cắp được dập tắt. Nếu sợ hãi phát sinh do nhân duyên oán thù
của sự tà dâm, người ấy tránh xa sự tà dâm, thì sợ hãi phát sinh do nhân duyên
oán thù của sự tà dâm được dập tắt. Nếu sợ hãi phát sinh do nhân duyên oán thù
của sự nói dối, người ấy tránh xa sự nói dối, thì sợ hãi phát sinh do nhân
duyên oán thù của sự nói dối được dập tắt. Nếu sợ hãi phát sinh do nhân duyên
oán thù của sự uống rượu, người ấy tránh xa sự uống rượu, thì sợ hãi phát sinh
do nhân duyên oán thù của sự uống rượu được dập tắt. người ấy tránh xa trộm
cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, thì sợ hãi phát sinh do nhân duyên oán thù của
tội trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu được dập tắt.
“Đó gọi là dập tắt được năm
điều sợ hãi do nhân duyên oán thù phát sinh ra từ các tội trên.
“Thế nào là ba pháp quyết định
không sinh ra nghi hoặc? Là đối với Phật quyết định lìa nghi hoặc, đối với Pháp
quyết định lìa nghi hoặc, đối với Tăng quyết định lìa nghi hoặc. Đó gọi là ba
pháp quyết định lìa nghi hoặc.
“Thế nào là tri kiến như thật
về chánh đạo? Tri kiến như thật về mười hai duyên khởi rằng sự này có, nên sự
kia có; sự này khởi, nên sự kia khởi. Như duyên vô minh có hành, duyên hành có
thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có lục nhập xứ, duyên lục nhập xứ
có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu,
duyên hữu có sinh, duyên sinh có lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ não. Đó gọi là tri
kiến như thật của các bậc hiền thánh.”
Sau khi Phật nói kinh này
xong, các tỳ-khưu nghe những gì Phật đã dạy, đều hoan hỷ phụng hành.
-----------------------------
[1] Khủng bố đối oán 恐怖怨對. Pāli: pañca bhayāni verāni vūpasantāni honti –
đình chỉ năm sợ hãi và oán thù