Sunday, 15 June 2025
Giải mã bí ẩn cận tử - (7) Khi nhà khoa học trải nghiệm cận tử
Giải mã bí ẩn cận tử - (6) Trải nghiệm cận kề cái chết đánh đố khoa học
Giải mã bí ẩn cận tử - (5) Á, Âu có trải nghiệm cái chết giống nhau?
Giải mã bí ẩn cận tử - (4) Sống tốt hơn sau lần đến ngưỡng cửa cái chết
Giới y học chưa chính thức công nhận hiện tượng trải nghiệm cận kề cái chết, nhưng các công trình nghiên cứu cho thấy trải nghiệm này đã góp phần thay đổi đáng kể cuộc sống của những người sống sót.
Họ xem cái chết nhẹ tựa lông hồng
Ông Randy Schiefer nhớ lại năm 1969, lúc ông 16 tuổi, ông đã giật mình thức giấc lúc 4h sáng vì nghe tiếng hét của mẹ.
Gia đình đang ở khách sạn trong chuyến đi nghỉ tại New Jersey (Mỹ). Cha ông lên cơn đau tim. Ông hô hấp nhân tạo cho cha qua đường miệng nhưng không kết quả.
Ông chạy ra hành lang đập cửa kêu cứu nhưng chẳng ai giúp. Đêm đó, cha ông qua đời. Từ đó cứ mỗi lần nghĩ về cha, ông lại cảm giác thấy tội lỗi và sợ hãi đồng thời nghĩ đến cái chết của chính mình.
Tháng 3-2020, ông già ở tuổi thất thập cổ lai hy mắc COVID-19. Sau khi nhập viện, ông được gây mê và thở máy rồi mê man gần một tháng, cuối cùng vượt qua được sau đợt điều trị bằng huyết tương.
Đến khi con gái Lisa được phép ở lại phòng bệnh chăm sóc ông, lúc bấy giờ ông mới kể cho con nghe trải nghiệm cận kề cái chết của ông.
Ông khẳng định lúc hôn mê ông vẫn còn ý thức. Ông đi qua đường hầm có ánh sáng ấm áp dẫn đến căn phòng lớn có cửa sổ hình vòm và các cửa kính màu tràn ngập ánh sáng yêu thương.
Một quý ông đến gần bảo ông không thuộc về nơi đó nên ông phải rời đi. Ông bước qua cánh cửa gỗ sồi khổng lồ đến một thành phố dát vàng. Nơi đó giống như Paris nhưng đẹp và tinh khôi hơn. Cỏ trong công viên có màu xanh đậm khác thường.
Bất chợt ông nhận ra không biết mình đang ở đâu, làm thế nào để trở về và cảm thấy lạc lõng. Ông kể: "Tôi nhớ mình đã ngồi xuống, bắt đầu hoảng sợ rồi khóc".
Ông cảm thấy lạnh và sợ hãi. Đột nhiên ông nhìn thấy một cầu thang lớn màu trắng vươn đến tận bầu trời. Ông leo lên cầu thang, bò bằng tay và đầu gối, sau đó ai đó gọi tên ông, túm lấy áo kéo ông xuống. Rồi mọi vật chuyển sang đen ngòm và ông tỉnh lại.
Câu chuyện trải nghiệm của ông đã được phát trên Đài phát thanh công cộng quốc gia (Mỹ). Cô con gái Lisa cho rằng đó có thể là giấc mơ hay ảo giác do ông dùng thuốc liều cao. Song ông Schiefer phản bác: "Cảm giác rất thật. Ba đã ở đó. Ba cảm thấy rất bình yên và tràn ngập tình yêu thương".
Cô còn nhận thấy hành vi ứng xử của cha cô gần như thay đổi sau khi ông xuất viện về nhà. Ông như tìm thấy năng lượng mới, tỏ ra hào hứng và lạc quan hơn chứ không sống lạc lõng như trước.
Cô bộc bạch: "Trước khi mắc COVID-19, ba không bao giờ nói đến cái chết. Trong nhà không nói về thượng đế, không nói về thế giới bên kia". Còn bây giờ ông nói về cái chết với tâm trạng rất thoải mái.
Ông mở lòng kể lại đêm chứng kiến ông nội cô lên cơn đau tim qua đời. Những lần hoảng loạn từng hành hạ ông từ lúc ông nội mất đã chấm dứt. Ông bắt đầu tìm hiểu sâu về tôn giáo và cầu nguyện thường xuyên.
Trả lời tạp chí Newsweek, TS Bruce Greyson ở Đại học Virginia (Mỹ) nhận xét với tư cách là bác sĩ tâm thần, ông kiếm sống bằng cách giúp bệnh nhân thay đổi lối sống nhưng rất khó thực hiện.
Trong khi đó, trải nghiệm cận kề cái chết chỉ xuất hiện vài giây nhưng đủ sức thay đổi hoàn toàn thái độ, giá trị, niềm tin và hành vi của người sống sót.
Lần đầu tiên khi ông nghe nói người đã qua trải nghiệm này không còn sợ cái chết, ông đã lo họ dễ có ý định tự tử hơn. Song qua nghiên cứu, ông nhận thấy họ lại ít có ý định tự tử hơn nhiều so với những người chưa từng qua trải nghiệm.
Ông kể: "Họ trả lời khi không còn sợ chết, họ cũng không còn sợ cuộc sống. Do không sợ mất tất cả, họ sẽ không sợ nắm bắt cơ hội và sống hết mình. Chính điều đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn, viên mãn hơn".
Sống nhân ái hơn, không đua đòi vật chất
Trải nghiệm cận kề cái chết xảy ra đối với mọi độ tuổi dù già trẻ bé lớn, tuy nhiên các công trình nghiên cứu cho thấy tuổi càng trẻ, xác suất xảy ra trải nghiệm này càng cao hơn.
Theo nghiên cứu của bác sĩ y khoa Pim van Lommel (Hà Lan), người đã qua trải nghiệm này có những thay đổi trong cuộc sống như sau:
- Họ không còn nhìn nhận bản thân như cũ mà trở nên khoan dung hơn với bản thân và với người khác.
- Họ trở nên cuồng kiến thức, bắt đầu tìm đọc các tác phẩm về khoa học và tâm linh.
- Họ phát triển lòng trắc ẩn đối với người khác hơn trước với nhu cầu chân thành và từ bỏ tính hung hăng.
- Họ định hướng lại các mục tiêu trong cuộc đời, ít quan tâm hơn đến sự nghiệp chuyên môn và mọi thứ vật chất như của cải, quyền lực, uy tín, danh tiếng, cạnh tranh.
- Họ xem trọng hơn các chi tiết nhỏ trong cuộc sống, người thân, bạn bè và thiên nhiên.
- Họ không còn sợ cái chết và khẳng định cái chết sẽ mở ra một hình thức tồn tại khác.
- Niềm tin vào tôn giáo có xu hướng biến mất và nhường chỗ cho tâm hồn rộng mở hơn, phổ quát hơn, không bị bó buộc vào giáo điều hay truyền thống.
- Một số người mẫn cảm hơn với ánh sáng, âm thanh, xúc giác, mùi vị.
- Cuối cùng trực giác của họ dường như phát triển hơn, họ dễ dàng đoán được cảm xúc và các vấn đề khó khăn của người khác.
TS Janice Holden (Mỹ) - chủ tịch Hiệp hội quốc tế về nghiên cứu cận kề cái chết (IANDS) - giải thích: "Về thể chất, họ thay đổi thói quen ăn uống, tránh ăn thịt và ít ngủ hơn. Tôi phát hiện một điều thú vị là các thiết bị điện sẽ bị trục trặc nếu để gần những người này.
Ngoài ra, còn có những thay đổi về xã hội như nguy cơ ly hôn cao hơn nếu người sống sót đã kết hôn vào thời điểm xảy ra trải nghiệm. Họ sẽ thay đổi về nghề nghiệp như có sở thích mới đối với các công việc hướng đến cộng đồng như giảng dạy, tư vấn".
TS Bruce Greyson lưu ý: "Sự thay đổi này không biến mất theo thời gian. Tôi đã nói chuyện với nhiều người ở độ tuổi 90 vốn là những người từng qua trải nghiệm cận kề cái chết hồi thời niên thiếu. Họ nói mọi chuyện cứ như mới xảy ra hôm qua và họ không bao giờ có thể quay lại lối sống cũ được nữa".
TS Bruce Greyson kể: "Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân tan vỡ vì người phối ngẫu không thể chịu đựng được sự thay đổi. Tôi đã chứng kiến các quân nhân hoặc cảnh sát chuyên nghiệp không thể chịu đựng được ý tưởng làm tổn thương ai đó sau trải nghiệm cận kề cái chết.
Tôi đã chứng kiến các doanh nhân hay mua bán cắt cổ sau khi trải qua trải nghiệm này đã nhận thức rằng cạnh tranh là điều ngớ ngẩn. Và họ thường chuyển sang làm các nghề giúp đỡ người khác như chăm sóc y tế, giảng dạy, làm công tác xã hội hoặc trở thành tu sĩ ...".
*
Randy Schiefer
Giải mã bí ẩn cận tử - (3) Cận tử, từ đường hầm đến hiện tượng thoát xác
Một tài xế xe tải (55 tuổi) phải chịu phẫu thuật bắc cầu mạch vành cấp cứu. Sau ca mổ, bệnh nhân đã kể lại với TS Bruce Greyson câu chuyện trải nghiệm cận tử rất kỳ lạ.
Lúc người này được gây mê toàn thân và các bác sĩ đã mở ngực, ông có cảm giác rời khỏi cơ thể của mình và nhìn xuống từ trên cao quan sát ca mổ. Ông đã thấy bác sĩ phẫu thuật vỗ vỗ khuỷu tay như thể đang cố bay lên.
12 biểu hiện cơ bản được đúc kết
TS Bruce Greyson chuyên nghiên cứu tâm thần học và khoa học hành vi thần kinh tại Đại học Virginia (Mỹ), hiện nay là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về hiện tượng cận kề cái chết. Ông đã nghiên cứu hiện tượng cận tử kỳ lạ này trong hơn bốn thập niên.
Ông kể lại câu chuyện người tái xế xe tải nêu trên trên tạp chí Newsweek và khẳng định câu chuyện bệnh nhân mô tả hoàn toàn đúng sự thật.
Ông nói: "Sau khi bệnh nhân đồng ý, tôi đã trò chuyện với bác sĩ phẫu thuật của ông ấy và bác sĩ xác nhận điều đó là chính xác. Bác sĩ này có thói quen mang phong cách riêng. Khi bước vào phòng mổ, do không muốn chạm vào bất cứ thứ gì không vô trùng nên bác sĩ này đặt lòng bàn tay áp vào ngực rồi hướng dẫn cho các trợ lý bằng cách vỗ khuỷu tay".
Ông nhận xét: "Bạn có thể suy luận bệnh nhân đã nghe bác sĩ phẫu thuật nói đã làm điều đó hoặc ai đó nói lại điều đó với bệnh nhân, song như vậy không hợp lý. Đây là ca phẫu thuật cấp cứu. Bệnh nhân chưa từng gặp bác sĩ phẫu thuật trước đó và không biết gì về bác sĩ này. Thế nhưng ngay sau khi tỉnh dậy sau ca mổ, bệnh nhân đã biết và mô tả tường tận ca mổ".
Trong tuyển tập Le Bon Passage dày 422 trang (NXB Presses Universitaires de Bordeaux thuộc Đại học Bordeaux Montaigne, Pháp) gồm nhiều tác giả, nhà nghiên cứu Christophe Pérez ghi nhận trải nghiệm cận kề cái chết được chia thành nhiều loại. Trường hợp phổ biến nhất và rõ ràng nhất được TS Raymond Moody xác lập bao gồm 12 biểu hiện như sau:
- Nhân chứng cho rằng ngôn ngữ thông thường không thể diễn đạt trung thực hoàn toàn trải nghiệm mà họ đã trải qua.
- Ban đầu nhân chứng cảm thấy bình yên và thanh thản. Nỗi đau thể xác hoàn toàn biến mất.
- Nhân chứng ý thức mình đã chết.
- Đôi lúc nhân chứng nghe tiếng ồn như tiếng vo ve.
- Hiện tượng thoát xác xảy ra. Nhân chứng cho rằng đã ở trên cơ thể và chứng kiến quá trình hồi sức của chính mình.
- Nhân chứng bị hút vào không gian tối mịt thường được mô tả như đường hầm hoặc đôi khi là thung lũng.
- Ở cuối đường hầm, nhân chứng bước vào một luồng ánh sáng. Ở đây họ cảm nhận được tình yêu vô điều kiện và sự thông hiểu về ý nghĩa của tồn tại.
Trong luồng ánh sáng ấy, một số người kể đã gặp người thân và cha mẹ đã qua đời, đã nhìn thấy phong cảnh tuyệt vời hoặc nghe tiếng nhạc véo von.
- Và rồi tầm nhìn toàn cảnh về quá khứ xuất hiện. Nhân chứng nhìn thấy toàn bộ quá trình cuộc sống diễn ra như đoạn phim.
- Nhân chứng cảm nhận được có một biên giới, một giới hạn mà vượt qua đó sẽ không thể quay lại được nữa.
- Cuối cùng nhân chứng quay trở lại thân xác của mình.
- Khi tỉnh dậy, nhân chứng tỏ ra thất vọng vì được hồi sinh và vì đã rời bỏ chốn tươi đẹp như mơ.
Càng trẻ càng có thể qua trải nghiệm cận kề cái chết
Sau TS triết học - bác sĩ y khoa Raymond Moody ở Mỹ, các nghiên cứu về trải nghiệm cận kề cái chết gia tăng trên thế giới. Bác sĩ tim mạch Michael Sabom ở Florida (Mỹ) ban đầu hoài nghi hiện tượng cận kề cái chết. Ông nảy ra ý tưởng phỏng vấn trực tiếp các bệnh nhân sống sót sau khi ngừng tim trong bệnh viện.
Ông tiến hành khảo sát từ năm 1976-1980 và công bố nghiên cứu vào năm 1982. Ông là một trong những thành viên sáng lập Hiệp hội quốc tế về nghiên cứu cận kề cái chết (IANDS) ra đời ở Mỹ vào năm 1981.
TS Bruce Greyson đã từng nghiên cứu trải nghiệm cận kề cái chết trên 1.595 bệnh nhân tại khoa tim Bệnh viện Đại học Virginia vào năm 2003. Cuối cùng là hai nghiên cứu lớn về trải nghiệm này ở Anh, một do TS Sam Parnia thực hiện vào năm 2001 và một do TS Penny Sartori thực hiện vào năm 2006.
Các nghiên cứu cho thấy trải nghiệm cận kề cái chết xảy ra đối với mọi độ tuổi dù già trẻ bé lớn, tuy nhiên tuổi càng trẻ, xác suất xảy ra trải nghiệm này cao hơn.
TS Janice Holden (Mỹ) giải thích người sống sót có nhiều khả năng gặp trải nghiệm này thường là người sợ chết hoặc người đã từng sống với những trải nghiệm sâu sắc khác như có thời gian quá đỗi đau buồn hay đã từng ngồi thiền quá lâu. Bà hiện là chủ tịch IANDS và tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu cận kề cái chết trực thuộc IANDS.
Nổi tiếng nhất là nghiên cứu ở Hà Lan do bác sĩ y khoa Pim van Lommel thực hiện. Nghiên cứu được chia làm hai giai đoạn với bảy bệnh viện tham gia. Giai đoạn đầu dài bốn năm (năm 1988-1992) nghiên cứu lời kể của các bệnh nhân sống sót sau ngừng tim. Giai đoạn hai dài tám năm (năm 1992-2000) nghiên cứu những thay đổi trong hành vi và cách nhìn nhận cuộc sống ở các bệnh nhân đã qua trải nghiệm cận kề cái chết.
Ở giai đoạn một, 344 bệnh nhân đã trải qua 509 lần hồi sức (tất cả đều đã chết lâm sàng) được phỏng vấn. 82% không nhớ gì hết và 18% cho biết có qua trải nghiệm cận kề cái chết (62 bệnh nhân).
Ở giai đoạn hai, nhóm bệnh nhân đã qua trải nghiệm cận kề cái chết ở giai đoạn một đã thay đổi lối sống rất rõ ràng so với nhóm bệnh nhân không qua trải nghiệm này. Ví dụ số bệnh nhân quan tâm đến tâm linh đã tăng 42% ở nhóm đầu và giảm 41% ở nhóm sau.
Nghiên cứu của Hà Lan đã được công bố trên tạp chí y khoa nổi tiếng The Lancet (Anh) vào tháng 12-2001, đã có tác động trên toàn thế giới và giành được nhiều giải thưởng khoa học.
Chưa chứng minh được có cuộc sống khác sau chết
TS Raymond Moody khẳng định trải nghiệm cận kề cái chết không chứng minh được có cuộc sống khác sau khi chết [*]. Ông giải thích trải nghiệm này chủ yếu dựa vào lời kể của các nhân chứng sống sót, tuy nhiên cần phân biệt rạch ròi giữa lời kể với sự thật. Bệnh nhân sống sót có thể là người thành thật, họ kể lại những gì đã nhìn thấy song lời kể chưa chắc đúng sự thật. Ví dụ người đi trong sa mạc nhìn thấy vũng nước nhưng sự thật đó chỉ là ảo giác.
Một số bệnh nhân sống sót thừa nhận có nói dối về việc đã trải qua trải nghiệm cận kề cái chết, vậy làm sao phân biệt ai nói thật và ai nói dối? Theo TS Moody, người thực sự đã qua trải nghiệm này thường có thái độ khiêm tốn, trầm tĩnh và sẵn sàng thừa nhận có nhiều điều họ không biết trong khi kẻ nói dối chỉ lo tập trung kể những câu chuyện khoe khoang chính cá nhân họ.
----------
[*] Ghi thêm: Trong cuốn sách mới nhất, xuất bản năm 2023, Proof of Life after Life: 7 Reasons to Believe There Is an Afterlife, Dr Moody khẳng định trong phần kết luận rằng bây giờ ông tin có một đời sống sau cái chết: "After decades of persistent, rigorous skeptical inquiry, I am confident of a life after death" (Sau nhiều năm kiên trì tìm hiểu nghiêm túc, tôi tin chắc là có đời sống sau khi chết). – (Bình Anson, 15/06/2025)
*
Giải mã bí ẩn cận tử - (2) Bác sĩ ngừng thở hơn chín phút nhìn thấy gì?
Giải mã bí ẩn cận tử - (1) Hành trình vào cõi chết và hồi sinh
Các nghiên cứu ghi nhận từ 10 - 20% số người sống sót sau khi tim ngừng đập kể lại đã qua trải nghiệm huyền bí cận kề cái chết. Các chuyện kể đều có nhiều chi tiết kỳ lạ trùng hợp nhau.
Ngoài lý giải có yếu tố siêu nhiên, trong vài thập niên gần đây, các nhà khoa học đã chú tâm nghiên cứu hiện tượng cận kề cái chết bí ẩn này.
Lâu nay mọi người đều cho rằng có ranh giới giữa sự sống - cái chết và một khi vượt qua ranh giới ấy thì không thể quay lại.
TS Sam Parnia, ở Trường Y đại học New York (Mỹ), giải thích: "Hơn 60 năm nay, nhờ kỹ thuật hồi sức tim phổi, vấn đề này đã được xem xét lại. Nhiều người bước vào cõi chết theo quan điểm sinh học đã hồi sinh và kể lại trải nghiệm. Đến nay đã có nhiều triệu người trên thế giới kể lại trải nghiệm tương tự". Trường hợp của nữ diễn giả nổi tiếng Julia Nicholson ở Mỹ là một ví dụ điển hình.
Thấy gương mặt người yêu thương lướt qua khi cận kề cái chết
Lúc Julia Nicholson còn nhỏ, cha là quân nhân nên gia đình phải dời nhà nhiều nơi. Do sống trong nhiều môi trường khác nhau nên bà đã có kỹ năng tạo quan hệ với mọi người rất nhanh chóng.
Tuy nhiên con đường khám phá bản thân của bà chỉ thực sự bắt đầu sau biến cố xảy ra năm 18 tuổi.
Năm 1980, đang là sinh viên năm thứ nhất ngành tâm lý học tại Đại học Missouri, bà luôn cảm thấy "cuộc đời vẫn đẹp sao". Một ngày nọ bà đến chơi với người chị gái ở bang Texas.
Chị bà dẫn bà gặp anh chàng người yêu Allan tại bữa ăn tối ở nhà John, bạn thân của Allan. Sau bữa ăn tối lúc 22h30, bốn người quyết định đến dự lễ hội bên hồ cách đó 30 phút lái xe.
John cầm lái, bà ngồi trên ghế trước và cài dây an toàn dù lúc đó luật chưa bắt buộc. Một lúc sau bà cố tháo dây ra nhưng dây bị kẹt. Chị bà cố giúp, dây vẫn không bung ra. Còn cách hồ chừng 15 phút lái xe, xe đang chạy với tốc độ cho phép trên đường cao tốc hai làn xe thì bị một xe hơi khác tông vào. Người phụ nữ lái xe gây tai nạn đã có uống rượu.
Bà bất tỉnh trong xe và mất máu rất nhanh. Bà kể lại câu chuyện trên tạp chí Newsweek: "Tôi nhớ mình đã nghĩ đây hẳn là cảm giác khi chết. Tôi không cảm thấy đau nhưng tôi nghe có nhiều tiếng nói xung quanh. Tôi có thể nghe tiếng chị tôi hét lên: "Em chết rồi, em tôi chết rồi". Vì vậy tôi tin chắc rằng mình đã chết.
Tôi nhớ chị tôi, anh Allan và anh John kêu lên "nếu em có thể nghe tiếng anh chị thì hãy cử động hay chạm vào cái gì đó", thế nhưng tôi không thể cử động được".
Bà kể tiếp: "Tôi nhớ mình đã nhìn thấy gương mặt của những người yêu thương lướt qua trước mắt tôi. Mỗi gương mặt xuất hiện trong ký ức của tôi đều có một điểm chung họ là những người mà tôi yêu thương và đã từng quan tâm sâu sắc. Tôi nghĩ tôi yêu tất cả những người này và tôi chưa bao giờ nói điều đó với họ".
2h sáng, cha mẹ bà nhận được điện thoại báo tin bà bị tai nạn và đang nguy kịch. Họ vội vàng đến bệnh viện ở Texas. Trong khi đó, bà vẫn không cảm thấy đau trên đường được đưa đi cấp cứu.
Sau này bà phải trồng lại toàn bộ hàm răng vì nguyên hàm trên đã bị vỡ và môi dưới gần như đứt lìa.
Bà nhận xét điều kỳ diệu đã cứu sống bà vào đêm gặp tai nạn chính là sợi dây an toàn bị kẹt. Nếu dây không bị kẹt, ắt hẳn bà có thể đã văng khỏi xe và chết ngay tại chỗ.
May mắn, chị bà, anh Allan và anh John đều không bị thương quá nặng. Cổ tay người chị bị gãy còn anh John chỉ bị bầm tím trên đầu.
Từ thiếu tự tin đến nhân vật nổi tiếng
Vết thương về thể xác ảnh hưởng nghiêm trọng đến gương mặt bà nhưng vết thương về tinh thần và tình cảm còn tàn khốc hơn. Thái độ tự tin của bà vỡ vụn.
Nhiều tháng sau tai nạn, bà cảm thấy chán nản và thích tự cô lập bản thân. Rồi một ngày bà bắt đầu thay đổi cách nhìn.
Nếu trước kia bà dằn vặt "Tại sao lại là tôi?", thì bây giờ bà suy nghĩ "Tại sao không phải là tôi? Tại sao tôi lại muốn tai nạn xảy ra cho người khác? Tôi có thể rút ra điều gì từ tai nạn để có thể giúp đỡ người khác hay không?".
Bà xác định mục đích cuộc sống sắp tới của bà là thay đổi lối suy nghĩ cho rằng nỗi đau mất mát chính là bản án chung thân.
Cuối năm 1981, bà lập gia đình. Cuộc hôn nhân không suôn sẻ. Năm năm sau bà yêu cầu ly hôn với người chồng thích bạo lực khi đã có hai con, một đứa 4 tháng và một đứa 3 tuổi.
Bà sống một mình, tập trung sống và kiếm tiền lo cho các con. Năm 1987, bà làm nhân viên kế toán. Sau hai năm làm việc nhưng không được nâng lương, bà hỏi, và giám đốc công ty trả lời thành thật: "Tôi biết bạn làm công việc này tốt hơn những người khác nhưng do bạn không có bằng đại học".
Thế là bà quyết định vừa theo học quản trị kinh doanh tại Đại học Missouri vừa làm công việc bán thời gian để kiếm tiền nuôi con. Năm 1992, bà tốt nghiệp. Ba năm sau, bà vào làm việc cho một công ty tư vấn. Một năm sau đó, bà bắt đầu học chương trình thạc sĩ.
Sau khi tốt nghiệp vào năm 1998, đến tháng 9-1999 bà trở thành giám đốc điều hành cho một công ty trị giá 450 triệu USD. Năm 2014, bà giữ chức giám đốc Quỹ hưu trí và y tế ngành công nghiệp điện ảnh (MPI).
Hiện bà là diễn giả - người truyền cảm hứng, giáo sư kiêm nhiệm tại Đại học William Jessup ở California đồng thời làm chủ công ty tư vấn kinh doanh riêng. Cuối tháng 1-2023, cuốn sách Tiến lên phía trước mạnh mẽ hơn: Khuôn khổ năng động để xử lý thay đổi, mất mát và đau buồn của bà đã được xuất bản ở Mỹ.
Bà nói: "Trải nghiệm cận kề cái chết khiến tôi có cảm giác cần phải khẩn trương hoàn thành mọi việc vì không biết phút còn sống kế tiếp liệu có phải là giây phút cuối cùng của đời người".
Cô Grace Frost
23h30 ngày 26-1-2023, cô gái Grace Frost (24 tuổi) từ bang New York lái xe trở về nhà tại Connecticut (Mỹ) sau buổi làm việc muộn. Trời mưa gió, chiếc Toyota 4Runner mất lái. Một cây tần bì đâm xuyên qua kính. Đầu gối chân phải của cô bị gãy. Bảng điều khiển và kính chắn gió lõm vào cách chân cô chỉ vài cm.
Cửa xe bị mắc kẹt. Cô không thể rút chân khỏi phanh vì xe sẽ chạy tới, bảng điều khiển và kính chắn gió sẽ ép sát hơn. Cô gọi 911 nhưng không ai trả lời. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê cận kề cái chết, cô nhìn thấy những người cô yêu thương và kỷ niệm thời thơ ấu lướt qua tâm trí như bộ phim chiếu chậm.
Một lúc sau, cô lại tỉnh, thử gọi 911 lần nữa và thành công. Cô vẫn giữ cái chân bị gãy nhấn vào phanh suốt 20 phút đến khi xe cấp cứu đến.
Các bác sĩ đã xem tai nạn của cô là phép màu y học. Xe hơi gần như tan nát nhưng cô chỉ bị gãy chân và nhiều vết bầm. Cô phải ngồi xe lăn, 10 tháng sau chân mới bình phục.
Nhớ lại trải nghiệm cận kề cái chết, cô bộc bạch: "Tai nạn đã cho tôi thời gian và không gian để suy ngẫm về cuộc sống và mục tiêu tôi phải thực hiện. Bạn thực sự không bao giờ biết khi nào cuộc sống kết thúc, vì vậy đừng bao giờ coi bất kỳ điều gì là hiển nhiên".
*
Các sách tiếng Anh của AJAHN BRAHM
Các sách tiếng Anh của AJAHN BRAHM
Có thể tải các sách dưới đây về máy, dạng PDF:
1) Ajahn Brahm. Mindfulness, Bliss, and Beyond: A Meditator's Handbook (2006) [en55-eng.pdf]
https://tinyurl.com/4788ep5t
2) Ajahn Brahm. The Art of Disappearing (2011) [en56_eng.pdf]
https://tinyurl.com/4jz8cext
3) Ajahn Brahm. Simply this Moment: A Collection of Talks on Buddhist Practice [en57.pdf]
https://tinyurl.com/57b2t6nb
4) Ajahn Brahm - All You Need Is Kindfulness (2014) [en100_eng.pdf]
https://tinyurl.com/yw4rw7uy
5) Ajahn Brahm. Kindfulness (2016) [en157.pdf]
https://tinyurl.com/bdzdys3z
6) Ajahn Brahm. Karuna-Virus: 19 Original Stories about Ajahn Brahm (2020) [en186.pdf]
https://tinyurl.com/mpfa477s
7) Ajahn Brahm. Soft as Cotton, Strong as Steel - Ajahn Brahm's 50th Bhikkhu Anniversary (2024). [en319.pdf]
https://tinyurl.com/2p96tt2r
8 ) Ajahn Brahm. Journey to the Heart of the Lotus, Unlearning “Buddhist” Meditation (2024). [en320.pdf]
https://tinyurl.com/3ne8u7hy
9) Ajahn Brahm. The Word of the Buddha, An Outline of the Teachings of the Buddha in the Words of the Pāli Canon (2024). [en345.pdf]
https://tinyurl.com/2s35s52k
10) Ajahn Brahm. Opening the door of your heart, Việt-Anh [vn17.pdf]
https://tinyurl.com/2s9438dt
11) Ajahn Brahm. The Basic Method of Meditation
https://tinyurl.com/54sm6snz
12) Ajahn Brahm. Dependent Origination, Việt-Anh [vn115.pdf]
https://tinyurl.com/4hhcmfkw
13) Ajahn Brahm. Wisdom and wonders (2014). [en365.pdf]
https://tinyurl.com/436p72hm
* Trí tuệ và những điều kỳ diệu
https://tinyurl.com/26cjxep9 [vn31.pdf]
14) Ajahn Brahm. Opening up to Kindfulness (2021). [en366.pdf]
https://tinyurl.com/mt5c5efa
*-----*
Saturday, 14 June 2025
Sách Phật giáo căn bản, tiếng Anh
SÁCH PHẬT GIÁO CĂN BẢN, TIẾNG ANH
Xin giới thiệu các sách sau đây, dạng PDF, để tải về máy:
1) Foundations of Buddhism. Rupert Gethin (1998). [en32.pdf]
https://tinyurl.com/mr3rpnz3
2) In the Buddha's Words - An Anthology of Discourses from the Pali Canon. Bhikkhu Bodhi (2005). [en44.pdf]
http://tinyurl.com/5n7exabw
3) The Historical Buddha. Schumann, H.W. (trans. M. Walshe) (1989). [en134.pdf]
https://tinyurl.com/4tju3anu
4) The Direct Path to Realization, Bhikkhu Analayo (2004) [en41.pdf]
http://tinyurl.com/44u7jjpk
5) Theravada Buddhism: A Social History from Ancient Benares to Modern Colombo. Richard Gombrich (1988, 2006). [en06.pdf]
https://tinyurl.com/3wfsvts2
6) Buddhist Teaching in India. Bronkhorst, Johannes (2009). [en362.pdf]
https://tinyurl.com/4hvdj5a7
7) What the Buddha Taught. Rahula, Walpola (1958, 1974). [en116.pdf]
https://tinyurl.com/mrxaja8m
8) What the Buddha Thought. Gombrich, Richard (2009). [en361.pdf]
https://tinyurl.com/54t2t3f4
*-----*
Thursday, 12 June 2025
Hai vị ân sư của tôi
Hòa thượng THÍCH TÂM GIÁC và Phra KHANTIPALO
Tôi luôn luôn ghi nhớ và tri ân hai vị ân sư đã đưa tôi đến với Đạo Phật. Ngài Hòa thượng Thích Tâm Giác là vị thầy đầu tiên khi tôi theo học võ Nhu đạo năm 14 tuổi tại Võ đường Quang Trung, Đa Kao (Quận 1, Sài Gòn). Hòa thượng kể cho chúng tôi nghe các câu chuyện ngắn về cuộc đời Đức Phật, dạy niệm Phật và hành thiền niệm hơi thở trước mỗi buổi tập. Sau đó, tôi chính thức xin quy y Tam Bảo với Hòa thượng.
Mười lăm năm sau, khi tôi đến định cư tại Perth, Tây Úc, qua sự giới thiệu của một người bạn, tôi gặp Phra Khantipalo, một vị sư gốc Anh đã từng tu học ở Thái Lan. Sau nhiều buổi đi nghe Pháp và dự các khóa thiền do Sư hướng dẫn, tôi biết thêm về giáo lý và pháp thiền nguyên thủy, và từ đó, tu học trong truyền thống Theravāda (Phật giáo Nam truyền).
Do phước duyên, tôi có được thêm sự chỉ dạy của nhiều vị ân sư khác, nhưng đây là hai vị ân sư đã khai mở cho tôi thấy được con đường phải đi cho cuộc đời của mình. Tôi thành kính tri ân quý Ngài.
Sadhu sadhu sadhu! 🙏
*
Sunday, 8 June 2025
Chánh ngữ khi sử dụng mạng xã hội
Tâm Tuệ dịch
*
Chỉ cần những cú click chuột, tiếng lạch cạch của bàn phím và tiếng chuông thông báo của mạng xã hội, nghệ thuật trò chuyện và giao tiếp đã bị thu gọn thành những bình luận nhanh chóng, liều lĩnh, dẫn dắt dư luận và phong phú như một bữa chè chén toàn đồ ăn nhanh và cũng không kém phần sôi nổi như một cuộc trộm xe hơi đầy kịch tính.
Bàn phím và điện thoại thông minh trên tay mỗi chúng ta có thể tạo thành một bãi chiến trường, nơi sự kiềm chế bị đẩy lên đỉnh điểm, và hầu hết trong các trường hợp, lực đẩy này lại luôn là kẻ chiến thắng. Tuy nhiên, trong thời đại kỹ thuật số và các thông tin lan tràn trên mạng, thì con đường Bát chánh đạo của Phật giáo, đặc biệt là chánh ngữ, là một liều thuốc giải cho những nỗi ưu tư và phiền não như thế.
Chánh ngữ, một trong những phẩm chất đạo đức của Phật giáo, không phải là sự kiểm duyệt sau khi đã thốt ra lời nói, mà là ý định, nhận thức và những gì gợn sóng trong tâm trí của chúng ta trước khi sắp sửa cất lời. Hãy tưởng tượng nếu trước khi đưa ra một câu bình luận nửa vời đối với một tiêu đề nào đó trên màn hình vừa thoáng lướt qua, chúng ta hãy thử dừng lại, hít thở thật sâu và cân nhắc sức nặng của lời nói cũng như những bình luận mà chúng ta sắp sửa phun ra một cách vô tâm từ chiếc điện thoại thông minh của mình.
Chánh ngữ cũng không phải là một cái rọ mõm ngày xưa mà là một ý niệm mang tính cách mạng, phải thoát khỏi sự cám dỗ để không trở thành một phần của tiếng ồn náo ngoài kia, kiềm chế bản thân để có thể nói không với việc thảy đồng xu duy nhất của mình vào một đài phun nước với đầy ắp những đồng xu khác.
Khi cuộn qua bất kỳ phần bình luận nào, bạn sẽ chứng kiến một bãi chiến trường hỗn độn do những cái lưỡi không được kiểm soát gây ra (có thể là những ngón tay trong trường hợp này). Mỗi bình luận thể hiện sự háo hức “mắc nói” của những người phía sau màn hình điện thoại hơn là sự tương tác có ý nghĩa đối với bài viết, và thường bày tỏ cho thiên hạ biết về bản thân họ hơn là những gì họ hiểu và nhận ra.
Những dòng bình luận ngắn gọn nhưng vô tận hầu hết chỉ là những cuộc nói chuyện phiếm vô ích. Hành động bình luận đó tự nó đã bị chìm nghỉm trong một căn phòng ồn ào, nơi mà việc lắng nghe và thấu hiểu bị chính sự vội vã chà đạp đến mức thương vong. Hãy để mạng xã hội thực sự hoạt động bình thường như một nơi kết nối chúng ta với gia đình và bạn bè đang sống rải rác đâu đó trong một thế giới bận rộn, ồn ào và khắc nghiệt như hiện nay.
Như những gì đã nói ở trên, sự thúc đẩy phải nói lên quan điểm cá nhân của mình về những chuyện viển vông, ngay cả khi nó chỉ mới hình thành được nửa vời, cũng đã trái với truyền thống thiền tập của Phật giáo, bởi mọi hành động và lời nói đều xuất phát từ suy nghĩ. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta xem mỗi bình luận là một viên sỏi thả vào nước, những gợn sóng của nó sẽ lan ra và rộng khắp. Điều tương tự cũng có thể xảy ra với một bài đăng trên mạng xã hội, nó thực sự có thể tạo ra một hố sâu tâm lý bên trong mỗi người.
Giới luật về khẩu nghiệp được xây dựng dựa trên nền tảng của chánh ngữ không chỉ đơn thuần là một phương tiện để kiềm thúc tâm thức loạn động mà còn là một cách để giải thoát bản thân ra khỏi những hành nghiệp xấu ác một cách căn bản nhất. Thông qua sự kết nối với phẩm chất đạo đức này, chúng ta học cách chọn lọc những ngôn từ có tính khai mở, khuyến khích, và chân thành nhất.
Lời nói của chúng ta thậm chí có thể khơi dậy cảm xúc trong tâm người khác, nhưng nói chung, tất cả đều phải xuất phát từ nhận thức và ý định rõ ràng. Đây không phải là kiểm soát, mà là sự giải phóng - một phương pháp dẫn đến sự tương tác tỉnh thức có thể biến căn phòng bình luận lố bịch với những phản ứng có điều kiện theo kiểu Páp-lốp trở thành một không gian dành cho một cuộc đối thoại nội tâm nhằm đưa ra những giải pháp cho chính bản thân mình.
Đối với những bộ óc sẵn sàng dũng cảm bơi ngược lại những thác ghềnh dữ dội của sự vội vã và xem các loại bình luận là vô ích, thì đây là một đề xuất cấp tiến: hãy đọc các bài báo phản ánh đầy đủ các sự kiện. Sau đó, nếu được, bạn hãy để lại nhận xét mang tính đóng góp trên tinh thần tôn trọng việc trao đổi ý tưởng. Đây là chánh ngữ trong thời đại kỹ thuật số: kiềm chế là nổi loạn và chú tâm tỉnh giác là thái độ mang tính cách mạng.
Phần bình luận là mô hình thu nhỏ của thế giới. Nó có thể là vùng đất hoang vu nơi sản sinh ra những lời nói vô giá trị, nhưng cũng có thể là nơi ẩn náu của những trao đổi sâu sắc. Bằng cách áp dụng chánh ngữ, chúng ta có thể lựa chọn một trong hai điều sau. Chúng ta có thể chọn tôn trọng sự im lặng cũng như việc lên tiếng, coi trọng sự góp ý xây dựng hơn là phản ứng và cố chấp vào sự hiểu biết của bản thân, xem đó là trung tâm của sự giao tiếp. Hoặc chúng ta thả trôi tư tưởng của mình vào vùng đất hoang vu của ngạ quỷ lang thang trong trạng thái vô minh tự mình chuốc lấy. Ở đây, sự lựa chọn là chìa khóa quan trọng!
Vì vậy, lần tiếp theo khi sắp sửa bình luận một điều gì đó, hãy tạm dừng lại, suy nghĩ thật sâu rồi mới lên tiếng. Hãy sử dụng lời nói của chúng ta dưới sự soi sáng của chánh niệm và trí tuệ. Và hãy thực tập lời nói đúng đắn. Mỗi khoảnh khắc, mỗi hành động, mỗi suy nghĩ đều là những câu kinh tuyệt vời mở ra trước mắt ta và dạy cho chúng ta rất nhiều điều nếu biết quan sát và suy xét. Vậy nên hãy cẩn thận!
* Nguyên tác: Frederick M. Ranallo-Higgins. “Read Me! Right speech meets the comments section”. Tricycle, November 10, 2023.
*-----*
Monday, 26 May 2025
Thần chú "Tóc lông móng răng da"
Thần chú “TÓC LÔNG MÓNG RĂNG DA”
Nhiều năm trước, khi đến tham dự một buổi lễ xuất gia Sa-di cho các vị giới tử, tôi nghe ngài Ajahn Brahm đọc câu "Kesā Lomā Nakhā Dantā Taco" (Tóc Lông Móng Răng Da), đọc xuôi rồi đọc ngược cho các vị tân sa-di đọc theo, rồi ngài nói các vị ấy phải học thuộc nằm lòng câu này. Mỗi khi tiếp xúc với người khác phái là phải niệm câu ấy để giúp kiểm soát lòng ái dục. Đó là những gì thật sự cấu tạo nên dung mạo bên ngoài của một người mà mình thấy được. Nếu nghĩ sâu xa hơn nữa, năm thứ đó chỉ là những tế bào chết, lộ ra bên ngoài cơ thể rồi từ từ bị đào thải. Không có gì là hấp dẫn, lôi cuốn.
Tôi thấy ý tưởng đó rất hay, thử đem ra áp dụng cho mình. Lúc ấy, tôi còn đi làm việc ở khu trung tâm thành phố. Mỗi ngày lái xe đến trạm xe điện gần nhà. Rồi đón xe điện vào thành phố. Trong xe điện, tôi bắt đầu quán sát những người chung quanh mình, thầm niệm trong tâm câu chú “Tóc Lông Móng Răng Da”. Tôi thấy câu tiếng Việt nhớ nhanh, dễ hiểu, dễ thấm hơn là câu Pāli nguyên thủy. Trong xe có đủ mọi hạng người, từ già đến trẻ, nam lẫn nữ, Âu lẫn Á, ăn mặc trang sức đủ kiểu, từ nghiêm trang đến hở hang khêu gợi. Mình chỉ lặng lẽ quán sát và ghi nhận năm phần tử đó.
Sau một thời gian thử nghiệm, tôi thấy thật sự có ích lợi. Nhìn mọi người một cách bình đẳng, không còn có tâm phân biệt, không còn bị xao động bởi vẻ bên ngoài của người khác. Tất cả đều như nhau, cấu tạo bởi năm phần tử của các tế bào chết. Còn những chuyện mơ mộng rắc rối khác đều là do tác động của tưởng uẩn.
Tháng 5, 2019
*
Friday, 16 May 2025
Lời khuyên cho những ai trên 65 tuổi
HỎI:
Tôi mới vừa nhận được “medicare” [*]. Vậy là đã bắt đầu lên “lão.” Tôi thấy có những người lớn tuổi mà vẫn rất “trẻ trung,” nhanh nhẹn, sáng suốt, nhưng cũng nhiều người bắt đầu lụm cụm, ca cẩm, và nhìn thấy già đi, yếu đi rất nhanh. Xin cho biết có cách nào để lớn tuổi mà vẫn không “già,” sống lâu, thọ, yêu đời và thưởng thức cuộc sống?
[*] “Medicare” là chương trình bảo hiểm y tế do chính phủ Mỹ tài trợ dành cho những người từ 65 tuổi trở lên.
ĐÁP:
Đạt đến tuổi 65 và hơn thế là một cột mốc tuyệt vời trong cuộc đời. Người ta thường gọi đây là “những năm tháng vàng son” và quả thật là có lý do – ta có cơ hội tận hưởng cuộc sống với nhiều sự khôn ngoan và tự do hơn bao giờ hết.
Nhưng sống lâu dài, hạnh phúc và bình an không phải là chuyện tự nhiên mà có. Ta cần một chút hành động thực tế và thái độ tích cực. Tin vui là không bao giờ là quá muộn để thay đổi những điều có thể cải thiện sức khỏe và niềm vui trong cuộc sống. Sau đây, chúng ta sẽ lướt qua những lĩnh vực chính như sức khỏe thể chất, tinh thần, đời sống xã hội, lời khuyên về tài chính, và sự hài lòng chung trong cuộc sống.
I. GIỮ SỨC KHỎE THỂ CHẤT
Việc chăm sóc cơ thể là vô cùng quan trọng sau tuổi 65. Khi ta cảm thấy khỏe mạnh, ta dễ dàng giữ được niềm vui và làm những việc mình yêu thích. Đây là một số cách đơn giản để giữ cơ thể luôn khỏe mạnh:
1.1) Tiếp tục vận động: Việc duy trì sự vận động có thể coi một viên thuốc thần kỳ cho sức khỏe. Tập thể dục có thể giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính và cải thiện tâm trạng, sức mạnh, và sự cân bằng của cơ thể. Ta không cần phải chạy marathon hay nâng tạ nặng – chỉ cần đi bộ mỗi ngày hoặc làm một số bài tập nhẹ nhàng cũng có ích. Các chuyên gia khuyên ta nên tập thể dục vừa phải khoảng hai tiếng rưỡi mỗi tuần (tương đương với 30 phút mỗi ngày, 5 ngày trong tuần). Ví dụ, ta có thể đi bộ nhanh, làm vườn, hoặc tham gia lớp thể dục cho người cao tuổi. Nếu 30 phút một lần là khó, ta có thể chia thành các buổi đi bộ mười phút vài lần trong ngày. Quan trọng là vẫn duy trì sự vận động sao cho phù hợp với khả năng của mình – kiên trì quan trọng hơn cường độ.
1.2) Ăn uống lành mạnh: Có câu nói (rất đúng, là) “mình là những gì mình ăn”: Ăn uống lành mạnh giúp cơ thể ta khỏe mạnh, kiểm soát cân nặng, và thậm chí còn giúp cải thiện sức khỏe trí não. Hãy tập trung vào các thực phẩm bổ dưỡng: nhiều trái cây và rau củ, ngũ cốc nguyên hạt, protein ít mỡ (như cá hay gà), đậu và các loại hạt. Một chuyên gia dinh dưỡng tại Harvard cho biết ông chỉ giữ trong tủ lạnh của mình trái cây và rau tươi, cá và gà, ngũ cốc nguyên hạt, hạt và hạt giống, và chỉ thỉnh thoảng mới ăn thịt đỏ hay đồ ngọt. Hãy tránh ăn quá nhiều thực phẩm chiên hoặc chế biến sẵn – ví dụ, ta có thể chọn các món nướng hay hấp thay vì chiên, và uống nước thay vì nước ngọt có đường.
1.3) Giữ cơ thể luôn đủ nước: Đừng quên uống nước và các chất lỏng lành mạnh trong suốt cả ngày. Khi lớn tuổi, ta cảm thấy ít khát hơn, nhưng cơ thể ta vẫn cần nhiều nước. Uống đủ nước giúp ta luôn tràn đầy năng lượng và ngăn ngừa mất nước (có thể khiến ta mệt mỏi hoặc bối rối). Nếu không thích nước lọc, ta có thể thử trà thảo mộc hoặc cho một lát chanh hay dưa leo vào nước cho thêm chút hương vị.
1.4) Ngủ đủ giấc: Giấc ngủ ngon như việc sạc lại pin cho cơ thể. Nó giúp cải thiện trí nhớ, tâm trạng, và cho cơ thể thời gian phục hồi. Người trưởng thành nên ngủ từ 7 đến 9 tiếng mỗi đêm để có sức khỏe tốt nhất. Nếu gặp khó khăn khi ngủ, ta có thể thử một số cách như tạo thói quen thư giãn trước khi đi ngủ, giữ phòng ngủ yên tĩnh và tối, tránh ăn nhiều hay sử dụng các thiết bị điện tử trước khi đi ngủ.
1.5) Đi khám bác sĩ (phòng bệnh là chính): Hãy duy trì thói quen khám sức khỏe định kỳ. Nếu phát hiện sớm, ta sẽ dễ dàng điều trị hoặc quản lý bất kỳ vấn đề sức khỏe nào. Đừng bỏ qua các cuộc hẹn bác sĩ định kỳ, và làm đầy đủ các xét nghiệm cần thiết (như đo huyết áp, xét nghiệm cholesterol, sàng lọc ung thư như nội soi đại tràng hoặc chụp nhũ ảnh-mammogram, và kiểm tra mắt, tai). Bác sĩ chỉ giúp ta duy trì sức khỏe. Ta mới chính là người chịu trách nhiệm về sức khỏe của mình.
1.6) Uống thuốc đúng cách: Nếu cần uống thuốc, hãy uống đúng theo chỉ dẫn của bác sĩ. Việc sử dụng hộp thuốc chia liều hoặc đặt nhắc nhở có thể giúp ta không quên uống thuốc. Cũng cần chú ý với các loại thuốc không cần kê đơn và thực phẩm bổ sung – hãy luôn tham khảo bác sĩ hoặc dược sĩ để đảm bảo chúng an toàn với mình.
1.7) Không hút thuốc: Đây là điều quan trọng – nếu đang hút thuốc, hãy bỏ ngay khi có thể. Hút thuốc gây hại cho hầu hết các cơ quan trong cơ thể, và việc bỏ thuốc ở bất kỳ độ tuổi nào cũng sẽ giúp ta cải thiện sức khỏe.
1.8) An toàn trước tiên – Ngăn ngừa ngã và chấn thương: Khi cơ thể ta già đi, sự thăng bằng và thị lực có thể kém đi, khiến té ngã trở thành một mối quan tâm lớn. Một cú ngã có thể khiến ta phải tốn nhiều thời gian để hồi phục, vì vậy cần phòng ngừa nó. Hãy làm cho ngôi nhà của ta an toàn hơn: dọn dẹp các vật dụng vướng víu, cải thiện ánh sáng trong các hành lang và cầu thang, và lắp tay nắm ở phòng tắm nếu cần.
Tóm lại, chăm sóc sức khỏe thể chất là một quá trình bao gồm việc duy trì vận động, ăn uống và uống nước hợp lý, ngủ đủ giấc, và sử dụng các dịch vụ y tế một cách thông minh. Cơ thể sẽ cảm ơn ta, và ta sẽ có thêm năng lượng để tận hưởng cuộc sống.
II. GIỮ TINH THẦN SÁNG SUỐT VÀ TÂM TRẠNG TƯƠI SÁNG (SỨC KHỎE TÂM THẦN)
Tương tự như việc chăm sóc cơ thể, việc chăm sóc sức khỏe tinh thần và cảm xúc rất quan trọng để có một cuộc sống hạnh phúc và bình an. Tuổi già đi kèm với những thay đổi, nhưng điều đó không có nghĩa là ta sẽ phải chìm trong buồn bã hay mơ hồ. Thực tế, nhiều người lại tìm thấy sự tự do cảm xúc và niềm vui lớn hơn trong những năm tháng cuối đời. Dưới đây là cách để giữ cho trí óc minh mẫn và tâm trạng vui vẻ.
2.1) Vận động trí não: Não cũng cần được rèn luyện – nhưng theo một cách khác. Việc giữ cho trí óc luôn hoạt động giúp ngăn ngừa mất trí nhớ và giúp ta tỉnh táo hơn.
2.2) Quản lý căng thẳng và giữ thái độ tích cực: Căng thẳng là điều không thể tránh khỏi ở mọi độ tuổi – các vấn đề sức khỏe, lo lắng về những người thân yêu, hay thậm chí sự nhàm chán cũng có thể làm ta buồn. Những cách ta đối mặt với căng thẳng và duy trì thái độ tích cực là rất quan trọng. Hãy tập trung vào những gì có thể lo được (chuyện của mình, và chuyện hiện tại, không phải là quá khứ, vị lai). Không nên, không cần, và tránh lo những chuyện mình không lo được. Càng lo (chuyện ngoài tầm tay của mình - chuyện của “bề trên,” thượng đế) thì càng làm phiền mình (và những người “được” mình lo)
2.3) Đánh bại cảm giác “buồn”: Trầm cảm không phải là một phần bình thường của quá trình lão hóa. Nếu ta cảm thấy buồn bã, tuyệt vọng, hoặc không còn quan tâm đến những điều mình từng yêu thích trong hơn vài tuần, hãy tìm sự giúp đỡ.
2.4) Ngủ và sức khỏe tinh thần: Giấc ngủ không chỉ tốt cho sức khỏe thể chất mà còn giúp tinh thần ta khỏe mạnh. Khi ta ngủ đủ giấc, ta sẽ nghĩ thông suốt hơn và cảm thấy cân bằng hơn về mặt cảm xúc.
2.5) Đừng Lo Lắng Về Những Điều Nhỏ Nhặt (nhắc lại, vì rất quan trọng): Khi ta già đi, nhiều người khám phá ra một bí quyết tuyệt vời để hạnh phúc: đừng lo lắng quá nhiều! Có thể khi còn trẻ (vì chưa đủ khôn ngoan) ta lo lắng về sự nghiệp, giữ gìn sự cạnh tranh với người xung quanh, hay những chuyện vặt vãnh khác. Giờ đây, ta có thể buông bỏ những điều đó. Một nghiên cứu của Harvard cho thấy người lớn tuổi có xu hướng tập trung vào những điều thực sự quan trọng và “không bận tâm quá nhiều về những điều nhỏ nhặt” như khi còn trẻ. Hãy ghi nhớ điều này. Khi có chuyện gì phiền phức hay nhỏ nhặt xảy ra, hãy tự hỏi mình: “Điều này có quan trọng một năm nữa không?” Có thể nó sẽ không quan trọng nữa, vậy thì tại sao phải lo lắng ngay bây giờ? Hãy dành năng lượng cho những điều quan trọng – như sức khỏe, những người thân yêu, và niềm vui cá nhân của mình. Việc phát triển thái độ dễ chịu này sẽ giúp giảm bớt căng thẳng và làm cho mỗi ngày trở nên bình yên hơn. Nó giống như việc buông bỏ gánh nặng khi ta quyết định không mang theo những lo âu không cần thiết.
2.6) Giữ tinh thần cảnh giác và tự tạo niềm vui: Không có gì là hoàn hảo trong cuộc sống – ai cũng có những cơn đau nhức và những ngày không vui. Nhưng việc tập trung vào những điều tốt đẹp sẽ giúp ta cảm thấy hạnh phúc hơn. Hãy dành chút thời gian mỗi ngày để suy ngẫm hoặc thậm chí ghi lại vài điều mà mình biết ơn. Nó có thể đơn giản như “một tách cà phê ngon vào sáng nay,” “cuộc gọi điện thoại với con trai,” hay “ánh nắng mặt trời qua cửa sổ.” Bằng cách nhận ra những khoảnh khắc tích cực này, ta huấn luyện tâm trí để nhìn nhận cuộc sống với cái nhìn lạc quan hơn.
2.7) Lạc quan là bí quyết: Suy nghĩ tích cực có sức mạnh to lớn. Các nghiên cứu cho thấy những người lạc quan thường sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn (có thể vì họ đối mặt với căng thẳng tốt hơn và chăm sóc bản thân tốt hơn). Đôi khi, ta có thể trở nên bi quan nếu đã trải qua nhiều mất mát hoặc vấn đề sức khỏe, nhưng hãy thử nuôi dưỡng hy vọng và sự tích cực. Khi gặp phải thử thách, hãy nhắc nhở bản thân: “Điều này rồi sẽ qua,” hoặc “Ta đã vượt qua khó khăn trước đây, ta sẽ làm được lần nữa.” Hãy bao quanh mình với những ảnh hưởng tích cực – có thể là âm nhạc vui vẻ, sách truyền cảm hứng, hoặc chỉ đơn giản là bạn bè vui tính.
2.8) Chấp nhận và thích nghi: Một phần của việc lão hóa bình an là chấp nhận những gì ta không thể thay đổi và thích nghi với thực tế mới. Có thể giờ ta không thể chạy nhanh như trước, nhưng ta vẫn có thể tận hưởng những buổi đi bộ chậm rãi hay bơi lội. Nếu việc lái xe vào ban đêm trở nên khó khăn, ta có thể thích nghi bằng cách lái xe ban ngày hoặc nhờ người khác chở đi. Hãy tập trung vào những gì ta có thể làm (thay vì những gì ta không thể làm), để duy trì cảm giác kiểm soát và sự tích cực.
2.9) Trân trọng mối quan hệ: Cuối cùng, một trong những nguồn vui lớn nhất chính là những người mà ta yêu thương. Dành thời gian chất lượng với người bạn đời nếu có – làm những buổi hẹn hò nhỏ hay đơn giản là xem một chương trình yêu thích cùng nhau. Hãy trân trọng những mối quan hệ này, vì chúng là di sản và niềm vui hàng ngày của ta.
TÓM TẮT
Cuộc sống lâu dài, hạnh phúc, và bình an sau tuổi 65 hoàn toàn là điều có thể đạt được. Công thức rất đơn giản: chăm sóc cơ thể, chăm sóc tâm trí, duy trì kết nối xã hội, thông minh trong việc quản lý tài chính, và làm đầy cuộc sống với mục đích và niềm vui. Qua tất cả các yếu tố này, ta nhận ra rằng chính mình là người kiểm soát sức khỏe và hạnh phúc của mình. Mỗi quyết định nhỏ mà ta làm hàng ngày, từ việc đi bộ thay vì ngồi một chỗ, gọi điện cho bạn thay vì xem TV một mình, ăn một quả táo ngon thay vì miếng bánh ngọt thứ hai, sẽ tạo ra một lối sống lành mạnh và giúp ta sống lâu hơn, vui vẻ hơn.
Hãy luôn đối xử tốt với chính mình. Không ai là hoàn hảo, và ta không cần phải làm theo từng lời khuyên một cách hoàn hảo mỗi ngày. Có thể ta sẽ có những ngày lười biếng hay thỉnh thoảng tự thưởng cho mình một món ăn ngon – sự cân bằng là điều quan trọng. Mục tiêu không phải là trở thành một người hoàn hảo về sức khỏe, mà là tạo cho mình cơ hội tốt nhất để cảm thấy khỏe mạnh và giảm thiểu những rủi ro, để ta có thể làm những điều mình yêu thích lâu dài nhất có thể. Và nếu có việc khó khăn xảy ra (bệnh tật, mất mát,…), hãy nhớ rằng ta có thể vượt qua với sự hỗ trợ từ gia đình và các chuyên gia. Ta đã chứng minh sức mạnh của mình chỉ bằng việc vượt qua đến được đây. Vậy thì, hãy sống với những năm tháng vàng son đầy nhiệt huyết! Hãy giữ tinh thần vui vẻ, đừng tin vào những định kiến tiêu cực về tuổi tác (ta có thể 70 tuổi mà tâm hồn vẫn 17), và tiếp tục học hỏi và phát triển.
Cuộc sống sau tuổi 65 có thể thật sự là vàng son – đầy sức khỏe, hạnh phúc, và bình an – khi ta chủ động sống tốt. Như một người khôn ngoan đã nói: “Không ai tránh khỏi lão hóa, nhưng chúng ta có thể chọn cách lão hóa.” Bằng việc chú ý đến sức khỏe thể chất, tâm thần, kết nối xã hội, tài chính, và niềm vui cá nhân, ta đang chọn cách lão hóa một cách duyên dáng và sống động.
Chúc quý độc giả thêm nhiều năm tháng tràn ngập tiếng cười, tình yêu và sự viên mãn. Tận hưởng từng khoảnh khắc – ta xứng đáng được như vậy!
* Nguồn: Người Việt News, 15/05/2025
https://www.nguoi-viet.com/doi-song/lon-tuoi-va-gia-yeu/
*-----*
Tuesday, 29 April 2025
50 năm kết thúc chiến tranh: Hiểu về tính đa dạng của lịch sử và của nhau - Alex-Thái Đình Võ
Giới thiệu: Alex-Thái Đình Võ là nhà sử học chuyên về lịch sử Việt Nam hiện đại và người Việt hải ngoại. Hiện ông là phó giáo sư nghiên cứu tại Trung tâm và Lưu trữ Việt Nam, Đại học Texas Tech, nơi ông phụ trách các dự án về lịch sử Chiến tranh Việt Nam và cộng đồng người Việt sau 1975. Ông là tác giả và đồng biên tập những công trình nghiên cứu về chiến tranh, di cư, ký ức và quá trình hình thành cộng đồng người Việt tại Mỹ.
*
Năm thứ 50 lại lặp lại như năm thứ 49, 48, và như bao năm trước — có khác chăng là trên một quy mô rộng lớn hơn, bất kể thuộc về phe nào trong cuộc chiến huynh đệ năm xưa. Và sự lặp lại ấy vẫn sẽ tiếp diễn trong những năm tới, khi chúng ta ngày càng chìm sâu hơn vào vũng lầy lịch sử do chính mình tạo ra — một thứ lịch sử được tạo dựng bằng những khuôn mẫu trắng- đen cứng nhắc, bị nhào nặn bởi những ý thức hệ và nỗi bất an đầy nghi kỵ, thiếu vắng tính trung thực và sự đa chiều cần thiết để có thể hiểu một cách trọn vẹn các sắc thái và tính phức tạp vô tận của quá khứ.
Năm mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, bất kể có bao nhiêu lễ hội chiến thắng hay bao nhiêu nghi lễ tưởng niệm, nếu chúng ta không thể hòa giải được với chính lịch sử của mình, thì chúng ta cũng khó lòng hòa giải được với nhau.
Vậy thì, sau nửa thế kỷ, điều quan trọng nhất chúng ta cần tự hỏi không chỉ là chiến tranh đã kết thúc ra sao, mà còn là: chúng ta đã, đang và sẽ hiểu và tiếp nhận lịch sử Việt Nam, lịch sử Chiến tranh Việt Nam, và chính thân phận con người Việt Nam như thế nào?
Nhìn từ trong: một lịch sử bị lược giản
Từ lâu, lịch sử đã được định hình như một đặc quyền xa xỉ — một câu chuyện được soạn dựng bởi những kẻ chiến thắng và những người nắm quyền lực. Tại Việt Nam, kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi đất nước được thống nhất về mặt địa lý và chính trị, lịch sử cũng bị định hình lại dưới một trật tự duy nhất — một trật tự chịu sự kiểm soát của đảng và nhà nước cộng sản. Kể từ đó, lịch sử chính thống đã nghiêng hẳn về việc phản ánh và bảo vệ quan điểm, lợi ích và tính chính danh của chính thể ấy, hơn là thể hiện tính đa diện, đa chiều vốn có của lịch sử dân tộc. Giới viết sử — từ các nhà nghiên cứu, biên khảo hàng đầu cho đến những người làm sử ở cấp cơ sở — từ lâu đã bị kìm hãm trong khuôn khổ định sẵn, buộc họ phải tự giới hạn mình, không thể lên tiếng một cách trung thực và đầy đủ về những điều cần được nói.
Kết quả là, toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam đã bị giản lược một cách cực đoan — đóng khung trong một hệ thống kể chuyện mang tính huyền thoại về những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Trong hệ hình ấy, cuộc chiến tranh Việt Nam đã bị tái định nghĩa hoàn toàn thành một cuộc kháng chiến chống ngoại xâm — một cuộc "chống Mỹ cứu nước" — dù rằng phần lớn những người trực tiếp tham gia hay bị ảnh hưởng, từ giới lãnh đạo đến binh lính và thường dân, đều là người Việt và mang cùng một dòng máu.
Chính lối kể đó khiến lịch sử bị sử dụng như một thứ công cụ chính trị để cai trị, thay vì là một không gian đối thoại trung thực với quá khứ và con người. Nó làm lu mờ những sắc thái, những mâu thuẫn nội tại, và cả những khát vọng bất đồng trong lòng một dân tộc từng và vẫn tiếp tục bị chia cắt.
Vì thế, những sự kiện và hiện thực lịch sử — từ triều đại Gia Long, cuộc Cải cách ruộng đất, đến phong trào Nhân văn Giai phẩm — đều bị bóp méo hoặc xuyên tạc nhằm phục vụ một hệ tư tưởng đơn tuyến. Những bậc tiền nhân có công với đất nước như Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nhất Linh bị làm lu mờ, gạt khỏi chính sử, nhường chỗ cho những nhân vật được tô vẽ hoặc huyền thoại hóa như Võ Thị Sáu hay Lê Văn Tám — những biểu tượng cách mạng được kỳ công nhào nặn nhiều hơn là được ghi chép trung thực.
Chính thể Việt Nam Cộng hòa cùng với hàng triệu con người từng là công dân dưới thể chế đó bị gán cho cái tên "ngụy quân, ngụy quyền" — như một tội danh chính trị phản dân tộc, phản tổ quốc. Lá cờ vàng ba sọc đỏ — từng là biểu tượng của một quốc gia, một nền cộng hòa, một giai đoạn lịch sử — bị tuyên truyền như một hình ảnh cần phải ruồng bỏ, xóa sạch, bất chấp chiều sâu và sự phức tạp của nó trong ký ức tập thể.
Các sản phẩm văn hóa — từ âm nhạc đến văn chương miền Nam — bị định danh là "đồi trụy," "phản cách mạng," và bị cấm đoán, thiêu hủy. Những câu chuyện về tù cải tạo, về các cuộc vượt biên, vượt biển của hàng triệu người, và cả lịch sử của cộng đồng người Việt hải ngoại — tất cả bị làm lu mờ, tái định nghĩa, hoặc bị đẩy ra bên lề dòng chính sử Việt Nam.
Đó không chỉ là sự lãng quên có chủ đích — mà là một nỗ lực có hệ thống nhằm tái cấu trúc ký ức, áp đặt một bản tường thuật duy nhất và xóa nhòa mọi vết tích của một lịch sử phức hợp và đa chiều. Và chính sự giản lược này khiến chúng ta, nhiều thập niên sau khi chiến tranh kết thúc, vẫn tiếp tục lặp lại những khuôn mẫu cũ — ca tụng, kỳ thị, hoặc im lặng — thay vì đối diện với sự phức tạp và nhân tính trong lịch sử của chính mình.
Nhìn từ ngoài: lịch sử bị giản lược, ký ức bị thao túng
Nếu lịch sử ở Việt Nam là lịch sử của người chiến thắng, thì ở phương Tây — đặc biệt là Hoa Kỳ — lịch sử lại là sản phẩm của những người nắm giữ quyền lực, được viết bằng Anh ngữ để phục vụ cho những nhu cầu và khủng hoảng nội tại của nước Mỹ hơn là để hiểu cho đúng về Việt Nam. Giới học giả Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm đến Việt Nam từ thập niên 1950 và nhiều hơn nữa khi Mỹ can thiệp trực tiếp vào chiến tranh vào giữa thập niên 1960. Trong bối cảnh một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, cộng hưởng với Chiến tranh Lạnh và sự hiện diện ngày càng sâu rộng của người Mỹ tại Việt Nam, những công trình nghiên cứu ban đầu chủ yếu nhằm lý giải Việt Nam cho người Mỹ — một công chúng vốn ít biết đến đất nước này và thường chẳng hình dung nổi Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ.
Khi chiến tranh leo thang và phong trào phản chiến bùng nổ, thế hệ học giả Mỹ đầu tiên nghiên cứu về Việt Nam, tiêu biểu như George Kahin, bắt đầu thể hiện rõ thiên hướng chính trị và cảm xúc cá nhân, phần nhiều chịu ảnh hưởng từ thực tại xã hội ở Hoa Kỳ hơn là thực tại tại Việt Nam. Họ tập trung nghiên cứu phong trào cộng sản Việt Nam như là lực lượng duy nhất mang sức mạnh, tính chính danh và khả năng thắng cuộc, từ đó vô tình (hoặc cố ý) loại bỏ các chủ thể khác khỏi dòng chính sử.
Dù với mong muốn tiếp cận cuộc chiến Việt Nam từ góc nhìn "người Việt," cách tiếp cận này lại mang tính chọn lọc rất cao, dẫn đến sự giản lược và lệch lạc trong việc nhìn nhận bản chất đa chiều, phức tạp và đầy mâu thuẫn của cuộc chiến. David Marr là ví dụ tiêu biểu: thay vì bàn trực diện về vai trò của các nhà dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản, ông lại hòa trộn — hay làm lu mờ — chủ nghĩa dân tộc trong một tiến trình mang tính tất định luận lịch sử, nơi mà các trí thức–cán bộ Marxist–Leninist trở thành trung tâm của câu chuyện cách mạng.
Với định hướng như vậy, phần lớn các học giả thời kỳ đó — vốn không biết tiếng Việt — chủ yếu dựa vào tư liệu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và đặc biệt là các ấn phẩm tuyên truyền của chính quyền Hà Nội, điển hình là các xuất bản của Nhà xuất bản Ngoại văn (The Foreign Languages Publishing House). Đây là cơ quan xuất bản do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập và điều hành, với mục đích đưa tiếng nói của chính phủ cộng sản ra quốc tế, phản bác diễn ngôn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, và xây dựng hình ảnh miền Bắc như một chính thể chính danh và có đạo lý. Những tác phẩm như Ho Chi Minh: Selected Writings (1920–1969) hay Trường Chinh: Selected Writings là những ví dụ tiêu biểu được biên soạn cẩn thận để phục vụ giới trí thức cánh tả và phong trào phản chiến quốc tế.
Sau chiến tranh, giới học giả Hoa Kỳ tiếp tục đặt trọng tâm nghiên cứu vào câu hỏi mang tính nội tâm: "Tại sao Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam?" Câu trả lời thường rơi vào hai hướng: hoặc là vì các quyết định sai lầm của chính quyền Mỹ, hoặc vì cộng sản Việt Nam quá kiên cường và giỏi tổ chức. Để trả lời, họ lại tiếp tục quay về với các tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp, hoặc tiếp cận trực tiếp kho lưu trữ nhà nước ở Hà Nội như Thư viện Quốc gia và Trung tâm Lưu trữ III — nơi chủ yếu chứa các văn kiện chính thống của đảng và nhà nước cộng sản.
Dù khai thác được nhiều dữ liệu, phần lớn các công trình này vẫn dựa trên một giả định có tính "minh định" rằng chiến thắng của cộng sản là tất yếu, là sự tiếp nối của truyền thống chống ngoại xâm hàng ngàn năm. Họ quên rằng, ngoài những người Việt thắng cuộc, còn có hàng triệu người Việt thua cuộc — và không vì thua cuộc mà họ thiếu chính danh, ý chí hay lòng yêu nước.
Chính sự thiên lệch đó đã khiến lịch sử chiến tranh Việt Nam, dù ở Hà Nội hay Washington, trở thành một câu chuyện trắng–đen, chính–tà. Những nhân vật được khắc họa đậm nét vẫn là Kennedy, Johnson, Nixon, Kissinger ở phía Mỹ; Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ở phía cộng sản. Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, nếu có nhắc đến, thì cũng chỉ như những nhân vật phụ bị biếm họa, mang dáng dấp bù nhìn hoặc thất bại.
Trong nỗ lực lý giải sự thất bại của Hoa Kỳ, giới học giả Mỹ vô tình (hoặc hữu ý) đã áp đặt lên đồng minh của họ — Việt Nam Cộng hòa — những nhãn mô tả như "puppet" (bù nhìn), "corrupt" (tham nhũng), "illegitimate" (không chính danh), từ đó xây dựng một lập luận rằng: lẽ ra Mỹ không nên can dự vào Việt Nam, hoặc nếu có, thì đã chọn nhầm phía.
Với nhãn quan đó, trọng tâm nghiên cứu được đặt vào các quyết sách chính trị và quân sự. Vì vậy, thảm sát Mỹ Lai được phân tích cặn kẽ trong sách sử và truyền thông dòng chính, nhưng thảm sát ở Huế thì bị bỏ quên. Những phong trào phản chiến và chống đàn áp ở miền Nam được phơi bày, nhưng đàn áp ở miền Bắc thì bị lờ đi. Từ đó, tất cả những khía cạnh không phù hợp với một tường thuật nhị nguyên đều bị xem là thứ yếu và bị gạt ra bên lề.
Quan điểm lịch sử ấy dần thấm sàn các ngành nghiên cứu khác, từ nhân học đến khoa học chính trị, và cả nghiên cứu Người Mỹ gốc Á. Lịch sử Việt Nam trở thành công cụ để hiểu về Hoa Kỳ — để phản tư, để phê phán chính sách, để chữa lành vết thương của người Mỹ, và để hòa giải với Việt Nam — thay vì là một nỗ lực để hiểu về chính người Việt Nam. Việt Nam trở thành một đối tượng nghiên cứu nhằm hiểu và phê phán nước Mỹ và những thất bại của nó.
Chỉ trong khoảng 15–20 năm gần đây, một thế hệ học giả mới — nhiều người trong số đó là người Việt ở hải ngoại cũng như trong nước, biết tiếng Việt, hiểu văn hóa Việt — mới bắt đầu tìm mò, viết lại, ráp lại những mảnh lịch sử bị từ chối. Kết quả là những nghiên cứu sâu sắc hơn về Điện Biên Phủ, về Ngô Đình Diệm, về chủ nghĩa cộng sản, về chủ nghĩa cộng hòa, về Việt Nam Cộng hòa, về người Việt hải ngoại, cũng như những phức tạp chính trị–xã hội của miền Bắc như phong trào Nhân văn Giai phẩm, Cải cách ruộng đất, các cuộc thanh trừng nội bộ, Tết Mậu Thân, Hòa đàm Paris và Chiến dịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu phá vỡ thế độc thoại của lịch sử.
Lịch sử không chỉ là chiến tranh và ký ức chiến tranh
Lịch sử Việt Nam – lịch sử của con người Việt Nam – và cụ thể là lịch sử cuộc Chiến tranh Việt Nam, không thể và không nên bị gói gọn trong kết cục thắng hay thua. Để có cái nhìn đầy đủ và trung thực hơn, chúng ta cần mở rộng khái niệm lịch sử thông qua những nỗ lực nghiên cứu sâu rộng, nhằm phản ánh chính xác hơn tính đa dạng, đa chiều và phức tạp của xã hội và con người. Trách nhiệm ấy không chỉ thuộc về những người viết sử, mà còn thuộc về từng công dân có ý thức, những người biết đặt câu hỏi: Vì sao lịch sử được kể như vậy? Vì sao có những yếu tố, nhân vật được nhắc đến trong khi những yếu tố và con người khác bị loại bỏ khỏi dòng chính?
Khi nhận thức được điều đó, ta sẽ hiểu rằng lịch sử Việt Nam không thể chỉ là lịch sử của một hay nhiều cuộc chiến, không chỉ là sự đối đầu trắng-đen giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong đó, sự hiện diện của người Mỹ, người Hàn, người Úc… phải được đặt song song với sự hiện diện của chuyên gia, cố vấn, và quân nhân Trung Quốc hay Liên Xô. Rằng giới lãnh đạo – dù thuộc bên nào – không chỉ là những biểu tượng của quyền lực mà còn là những con người với đầy đủ yêu thương, giằng xé, và cả tầm nhìn riêng dành cho đất nước. Rằng những người lính – dù là lính Mỹ, bộ đội miền Bắc hay quân lực Việt Nam Cộng hòa – đều mang trên mình những nỗi niềm, nỗi sợ, nỗi nhớ, và khát khao được sống, được trở về.
Ta cũng phải nhìn nhận rằng trong chiến tranh, không chỉ có đạn bom và chiến trường, mà còn có cả một đời sống xã hội hiện thực – nơi một học sinh đang tuổi mộng mơ hôm nay, ngày mai có thể trở thành một trong hàng ngàn thi thể lạnh lẽo trên chiến trường. Rằng trong lòng những xã hội ấy, từ Bắc đến Nam, tồn tại những tiếng nói riêng biệt thể hiện qua thơ văn, phim ảnh, âm nhạc và hoạt động xã hội dân sự. Qua đó, chúng ta thấy được những tương đồng, dị biệt – thấy được rằng tự do ngôn luận vốn đã là một điều kiện mong manh ngay từ thời Nhân văn Giai phẩm, và rằng nếu không có một giai đoạn Việt Nam Cộng hòa, dù chỉ tồn tại 20 năm, thì có lẽ đã không có một Trịnh Công Sơn với những bản tình ca hay ca khúc da vàng, hay một Văn Cao được nhớ đến dù là tác giả quốc ca ngày nay.
Những lịch sử đó không thể bị nhốt trong một thời điểm hay kết thúc tại mốc 30/4 như một dấu chấm hết. Chúng ta cần nhận diện sự tiếp diễn của chúng – từ những hệ lụy của chiến tranh, chính sách khắc nghiệt với đồng loại, đến những nỗ lực hòa giải với kẻ từng là thù địch; từ thân phận trong trại cải tạo đến trại tị nạn, hay những mảnh đời chìm sâu dưới đáy đại dương.
Lịch sử chiến tranh phải là lịch sử của những con người còn lại và đã ra đi – những người bị ruồng bỏ ngay trên đất mẹ, nhưng vẫn đang tự tái tạo mình trên xứ người. Nó phải ghi nhận sự tồn tại của hàng triệu người Việt ở hải ngoại – không chỉ ở Mỹ, Canada, Pháp hay Úc, mà còn cả ở Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, Nga và Đông Âu – những nơi họ phải vật lộn để tồn tại, đối diện với xung đột thế hệ và nỗ lực khẳng định sự hiện diện và ký ức của mình.
Năm mươi năm sau chiến tranh là thời gian đủ dài để chúng ta nhìn lại và khôi phục sự công bằng cho lịch sử. Không phải để thay thế một hệ tư tưởng này bằng hệ tư tưởng khác, mà để phục hồi sự phong phú và trung thực cần thiết cho việc hiểu đúng một quá khứ từng bị từ chối – từ những sự kiện, nhân vật, biểu tượng, đến ký ức cá nhân và tập thể.
Muốn hòa giải với nhau, trước tiên chúng ta phải hòa giải với chính lịch sử – bằng cách can đảm đối diện với nó, nhận diện sự hiện diện của nhau trong lịch sử, trong hiện tại, và cả tương lai. Bởi nếu không thể thừa nhận sự tồn tại của nhau, thì chúng ta lấy gì để bắt đầu một cuộc hòa giải đúng nghĩa? Và nếu chúng ta không thể mở lòng để làm được điều đó, có lẽ chúng ta sẽ mãi giậm chân trong sự lão hóa của năm tháng, chứ không bao giờ đủ trưởng thành để hiên ngang đứng trên nền tảng của lịch sử mà bước tới tương lai.
Texas, Hoa Kỳ
* Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c62x6v9z9eqo
*