Sunday, 15 June 2025

Giải mã bí ẩn cận tử - (7) Khi nhà khoa học trải nghiệm cận tử

 Giải mã bí ẩn cận tử
(7) Khi nhà khoa học trải nghiệm cận tử

Thùy Chi
Tuổi Trẻ Online, 13/07/2023

Có vô vàn chuyện lạ đến mức ly kỳ về trải nghiệm cận tử. Đó là chuyện người bị bệnh nan y sẵn sàng với sự kết thúc cuộc đời, là những người phải bất đắc kỳ tử như gặp tai nạn ...

Tuy nhiên, khi các nhà khoa học, đặc biệt là bác sĩ, kể lại trải nghiệm cận tử của chính mình đều được đặc biệt chú ý bởi họ là những người có kiến thức chuyên môn sâu rộng, uy tín, không dễ "cảm tính, cả tin"...

Những trải nghiệm "địa ngục, thiên đàng"

Cách đây 15 năm, tiến sĩ - bác sĩ Rajiv Parti, trưởng khoa gây mê hồi sức của Bệnh viện Tim Bakersfield ở California (Mỹ), bị sa sút sức khỏe nghiêm trọng. Các xét nghiệm y khoa kết luận ông mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. 

Ông đã trải qua phẫu thuật loại bỏ khối u, nhưng căn bệnh hiểm nghèo này vẫn chưa chịu dừng hành hạ ông. Năm 2010, ông bị sốc nhiễm khuẩn và lại tiếp tục trải qua phẫu thuật. Chính lần này, ông đã có cuộc trải nghiệm cận tử sâu sắc mà không thể quên.

Kể lại trong cuốn sách Dying To Wake Up (Chết để thức tỉnh), tiến sĩ Rajiv Parti tự sự có thể nhớ lại chi tiết hành trình trải nghiệm cận tử của chính bản thân. Đầu tiên, ông thấy mình ở trên cao và chứng kiến ca mổ trên thân xác chính mình. Ông còn nhớ lời các bác sĩ phẫu thuật trao đổi và "tán dóc" với nhau. Sau đó, ông lại thấy mình tiếp tục đến một thế giới khác, nhớ lại một số kiếp sống của mình và gặp lại người cha đã mất từ lâu.

Viết sách, vị bác sĩ gốc Ấn Độ này kể trong lúc thân xác nằm trên bàn phẫu thuật thì nơi ông đến là "biên giới địa ngục". Ông đã nhìn thấy các khung cảnh u ám, đáng sợ, nhưng người cha đã ôm ông và đưa ông đến một đường hầm ánh sáng, rồi tiếp tục là hai thiên sứ xuất hiện dẫn ông đến một nơi trong sáng, an lành. Hai thiên sứ này nói cần chữa bệnh cho thân tâm của ông và khuyên ông nên thay đổi, sống nhân ái hơn với mọi người, với bệnh nhân của mình mà trước đó ông khi là bác sĩ điều trị hay cáu giận họ...

Một trải nghiệm cận tử khác cũng được rất nhiều người quan tâm là của tiến sĩ Eben Alexande, một chuyên gia phẫu thuật não uy tín ở Mỹ. Kể lại câu chuyện cận kề cái chết của mình, ông đã viết cuốn sách Proof of Heaven (Minh chứng thiên đàng) bán rất chạy ở cả Mỹ và nhiều nước khác gồm Việt Nam. 

Nên nhớ rằng Eben Alexander có hồ sơ khoa học rất uy tín. Ông học Đại học Bắc Caroline, chuyên ngành hóa năm 1976, sau tiếp tục học lên tiến sĩ ở Đại học y khoa Duke năm 1980. Vị tiến sĩ - bác sĩ này học tiếp nội trú của Đại học y khoa Duke, Bệnh viện đa khoa Massachusetts và Đại học y khoa Harvard danh tiếng. Sau đó, Eben Alexande là nghiên cứu sinh giải phẫu não tại Anh, rồi trở thành phó giáo sư ngoại khoa của Đại học y khoa Harvard.

Năm 2008, ông Eben Alexande bị viêm màng não nghiêm trọng do E.coli gây hôn mê trong suốt một tuần. Các bác sĩ điều trị cho ông đã tư vấn gia đình nên chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Nhưng đây cũng là khoảng thời gian cho nhà khoa học này những trải nghiệm cận tử vô cùng đặc biệt mà ông đã viết rằng cuộc sống và thế giới quan của mình đã thay đổi hoàn toàn sau đó. Tuy nhiên, trải nghiệm của ông lại có điều khác biệt với trải nghiệm cận tử của nhiều người khác hay kể rằng gặp người thân đã mất, ý thức rõ được cái tôi của mình, xem lại được quá khứ.

Còn riêng với Eben Alexande không nhớ cái tôi của mình là ai, không được hội ngộ với người thân yêu đã khuất như những người khác. Thế giới kỳ lạ ông trải nghiệm là một thứ cảm giác "phi thời gian, phi biên giới" và vô tận đến nỗi ông thấy mình chỉ là "một điểm ý thức đơn độc giữa một đại dương bên ngoài giới hạn thời gian". 

Ông kể lại trong sách rằng cảm thấy bản thân mình "đi xuyên qua ánh sáng tuyệt đẹp, tới một thung lũng ngập tràn sự tươi tốt"... Ông thấy mình cũng như mỗi người khác đều có sự liên kết với mọi người, với vũ trụ bao la trong sự rộng mở của thấu hiểu và tình yêu thương. Một trải nghiệm đã làm thay đổi hoàn toàn nhà khoa học này sau khi ông tỉnh lại.

Say mê "âm nhạc thiên đàng" sau khi chết hụt

Tuy không nổi tiếng như Eben Alexande nhưng bác sĩ chuyên ngành phẫu thuật chỉnh hình Anthony Cicoria, của Bệnh viện Chenango Memorial, New York, Mỹ, cũng được các nhà nghiên cứu cận tử chú ý.

Ông sinh năm 1952, đến năm 1994 thì bị sét đánh trong chuyến đi dã ngoại cùng gia đình. Lúc đó, ông đang đứng gọi điện thoại cho mẹ ở bồn điện thoại công cộng trong khu Albany (New York) thì bị sét đánh trúng khiến tim ông ngừng đập. Người thân nghĩ ông đã không qua khỏi.

Kể lại trải nghiệm cận tử của riêng mình, bác sĩ Anthony Cicoria nói rằng khoảnh khắc bị điện giật ngã gục xuống, ông đã thấy mình tách ra khỏi thân xác vật chất để có thể thấy rõ cơ thể đang nằm đấy. Rồi ông có thể đi xuyên các vật cản như bức tường, cây cối để tới nơi phát ra ánh sáng xanh êm dịu trong sự háo hức về với Chúa... Sau đó, ông được cấp cứu tỉnh lại với cơ thể có nhiều vết bỏng.

Điều đặc biệt là sau lần đối diện với cái chết, ông tự dưng thay đổi tính cách với niềm đam mê sâu sắc âm nhạc piano cổ điển mà ông gọi là âm nhạc của thiên đường. Những giai điệu liên tục tuôn chảy vào tâm hồn để ông mua cây đàn piano đầu tiên và tập luyện, sáng tác âm nhạc để rồi được mời biểu diễn trong các dàn nhạc lớn, kể cả độc tấu piano những bản nhạc cổ điển nổi tiếng. 

Từ một người không hiểu biết về âm nhạc, bác sĩ Anthony Cicoria đã thật sự trở thành một nghệ sĩ piano đầy đam mê và tài năng khác thường sau lần bị sét đánh...

Câu trả lời vẫn còn ở phía trước

Còn rất nhiều chuyện cụ thể về trải nghiệm cận tử từ những người dân lao động bình thường đến các nghệ sĩ, bác sĩ, nhà khoa học uy tín trên khắp thế giới. Và cũng đã có nhiều nghiên cứu khoa học về vấn đề này với những kết quả thu được ở mức độ nhất định. 

Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, câu hỏi lớn của loài người là liệu có cuộc sống khác, thế giới khác sau cái chết hay không thì vẫn tiếp tục là... câu hỏi mà khoa học chưa thể giải đáp xác đáng và vẫn đang trên hành trình đi tìm câu trả lời.

Lý do là dù có không ít cá nhân kể chuyện trải nghiệm cận tử của mình rằng đã gặp lại cha mẹ đã mất, đã thấy ánh sáng thiên đàng, xuống địa ngục..., nhưng thực tế cũng có rất nhiều người được cấp cứu tỉnh lại khẳng định hoàn toàn không biết, không nhớ gì hết khi cận kề cái chết. 

Lý do thứ hai là đến nay các kỹ thuật khoa học vẫn chưa có cách nào chứng minh chính xác được những chuyện kể trải nghiệm cận tử đầy ly kỳ và nhân văn là đúng hay không ngoài niềm tin về họ là chủ yếu. Các kỹ thuật và giải pháp y tế tới nay cũng không thể thực hiện thí nghiệm đưa người ta đến ngưỡng cận tử để tìm hiểu chính xác xem họ đã thấy gì...

Thực tế, nhân loại vẫn đang "chia phe" trong câu hỏi lớn ngàn đời của loài người sẽ về đâu sau khi chết. Cơ bản là có phe hoàn toàn tin rằng con người không hoàn toàn chết đi mà sẽ tiếp tục sống ở một hình thái khác, một thế giới khác nào đó; phe hoàn toàn không tin; và phe giữa, tức những người mà chủ yếu là các nhà khoa học, vẫn đang trên hành trình đi tìm câu trả lời.

Từ phương Đông đến phương Tây đều đã, đang và sẽ tiếp tục có nhiều nghiên cứu vấn đề này. Hy vọng loài người sẽ câu trả lời khoa học khả tín ở một thời điểm nào đó: chúng ta sẽ về đâu sau khi chết.

*
Eben Alexande

Giải mã bí ẩn cận tử - (6) Trải nghiệm cận kề cái chết đánh đố khoa học

 Giải mã bí ẩn cận tử
(6) Trải nghiệm cận kề cái chết đánh đố khoa học

Dạ Thảo 
Tuổi Trẻ Online, 12/07/2023

Năm 1991, trường hợp trải nghiệm cận kề cái chết của nữ ca sĩ - nhạc sĩ Pamela Reynolds đã lan truyền khắp thế giới vì giới khoa học cho rằng trải nghiệm này không thể xảy ra.

Bệnh nhân kể đã nhìn thấy bác sĩ cưa hộp sọ

Bà Reynolds sinh năm 1956 tại Mỹ. Năm 35 tuổi, bà được chẩn đoán mắc chứng phình động mạch não. Bệnh của bà có hai trở ngại lớn.

Một là động mạch hình thành cái túi có kích thước lớn và hai là nằm ở động mạch gần thân não nhất. Do đó, động mạch có nguy cơ vỡ bất cứ lúc nào gây xuất huyết não dẫn đến tử vong.

Cơ hội sống sót của bà rất mong manh. Bà quyết định liên hệ với bác sĩ Robert Spetzler, ở Viện Thần kinh Barrow tại Arizona, bác sĩ phẫu thuật thần kinh nổi tiếng thế giới. Mặc dù tiên lượng xấu, ông vẫn đề nghị phẫu thuật não cho bà bằng một phương pháp mới được gọi là "phương pháp hạ thân nhiệt".

Trong ca phẫu thuật, các bác sĩ ngừng hoạt động tim (kết nối bệnh nhân với hệ thống tim - phổi nhân tạo), rút hết máu ra khỏi cơ thể để loại bỏ áp lực lên mạch máu, sau đó mới loại bỏ chỗ phình động mạch.

Thân nhiệt được giảm còn 15,5°C để bảo vệ não khỏi thiếu oxy. Bệnh nhân được đặt trong tình trạng chết lâm sàng trong khoảng 60 phút.

Ca mổ não thành công. Khi não bị rút hết máu và thân nhiệt giảm còn 15,5°C, lẽ ra bà không thể lưu giữ được ký ức nào.

Song điều đáng kinh ngạc là dù đã có ba lần kiểm tra lâm sàng xác nhận não đã chết, sau khi hồi tỉnh bà vẫn có thể nhận thức rõ ràng đã trải qua trải nghiệm cận kề cái chết hoàn chỉnh với các giai đoạn thoát xác, vào đường hầm, gặp bà nội và người chú đã khuất, nhìn thấy ánh sáng và cuối cùng hồi tỉnh.

Bà cho biết: "Nghe có vẻ điên rồ, đột nhiên tôi thoát đi từ phía đỉnh đầu. Tôi nhìn thấy cơ thể nằm bên dưới và tôi biết đó là cơ thể của tôi. Tôi nhìn quanh mình. Tôi không còn thấy đau nữa. Tôi nhìn thấy các bác sĩ".

Bà kể chính xác và chi tiết ca mổ dù dụng cụ dùng để khoan không bao giờ được bày ra ngoài để bảo quản vô trùng tuyệt đối. Bà có thể nghe tiếng cưa được sử dụng để mở hộp sọ và hai lần các bác sĩ khử rung tim.

Khi các bác sĩ muốn nối cơ thể bà với hệ thống tim - phổi nhân tạo, bà nghe họ nói các động mạch tại chân phải của bà quá nhỏ nên quyết định rạch một vết khác ở chân trái. Điều khiến bà thích thú là các bác sĩ có thể nghe nhạc trong phòng mổ.

Ban đầu bà Reynolds nói đùa với chồng và gia đình những gì bà thấy xảy ra trong giấc mơ. Nhưng sau khi bà kể lại, các bác sĩ và y tá xác nhận những điều bà kể đều đúng thực tế.

Bà qua đời vào tháng 3-2010 ở tuổi 54. Vì sao não ngừng hoạt động nhưng bà Reynolds vẫn trải qua trải nghiệm cận kề cái chết? Các nhà khoa học đã cố gắng giải thích vấn đề này.

Giả thiết phổ biến nhất là não thiếu oxy. Khi tim ngừng đập, não bị mất hoàn toàn hoặc một phần oxy nên não phóng thích một số chất dẫn truyền thần kinh như endorphin gây ra ảo giác.

Do tình trạng thiếu oxy thường đi kèm với nồng độ carbon dioxide (khí CO2) tăng lên trong máu, trải nghiệm cận kề cái chết có thể xuất hiện do CO2 gây ra.

Người sử dụng thuốc gây ảo giác phổ biến như LSD (ma túy), dymethyltryptamine (DMT - chất hướng thần), psilocybin (nấm ma thuật), ayahuasca (trà gây ảo giác) cũng có thể có các cảm giác như thay đổi nhận thức về thời gian, nhìn thấy quá khứ vị lai, vui vẻ và bình yên, thoát xác, gặp gỡ các sinh vật thần bí, linh hồn người quá cố hoặc nhân vật tôn giáo.

Ngoài ra, trải nghiệm cận kề cái chết có thể phát sinh khi sử dụng các hóa chất dùng trong quá trình gây mê hay não bị tổn thương làm gián đoạn giai đoạn giấc ngủ mơ. Hiện tượng thoát xác còn có thể xuất hiện sau khi kích thích điện cho não.

Bí ẩn chưa có lời giải đáp trọn vẹn

TS Bruce Greyson, ở Đại học Virginia (Mỹ), đã nghiên cứu hiện tượng trải nghiệm cận kề cái chết hơn 40 năm và đã viết hơn 100 bài đăng trên các tạp chí y học về lĩnh vực này, song ông phải thú nhận:

"Bản thân tôi là nhà khoa học và là người hoài nghi, tôi đánh giá nghiêm túc vấn đề trải nghiệm cận kề cái chết và cố gắng nghiên cứu. Song các dữ liệu nghiên cứu cho thấy đây vẫn là vấn đề bí ẩn".

Một số vấn đề chưa được giải thích như sau:

- Do ảo giác: Ảo giác thay đổi khác nhau tùy mỗi người trong khi chuyện kể về trải nghiệm cận kề cái chết đều nói đến các biểu hiện giống nhau.

- Do thuốc gây ảo giác: Chỉ DMT mới tạo ra trải nghiệm gần giống trải nghiệm cận kề cái chết. Đối với giả thiết dược phẩm gây ra ảo giác, bệnh nhân càng dùng nhiều thuốc càng ít có khả năng trải qua trải nghiệm cận kề cái chết.

- Thiếu oxy hoặc CO2: Não của người đã qua trải nghiệm cận kề cái chết có nhiều oxy hơn nhóm đối chứng. Ngoài ra, trải nghiệm này xuất hiện ở nhiều bối cảnh khác nhau như khi cái chết chắc chắn xảy tới (tai nạn giao thông...) hay khi không có nguy cơ tử vong như trầm cảm nặng, sốc tinh thần hoặc không rõ nguyên nhân.

- Kích thích điện cho não: Kích thích này chưa bao giờ tái hiện thành công hiện tượng thoát xác.

Thật ra trải nghiệm cận kề cái chết ẩn chứa nhiều bí mật vì quá trình nghiên cứu vấp phải hai trở ngại chính, một là bằng chứng và hai là làm thực nghiệm.

Bằng chứng chỉ dựa vào chuyện kể của người sống sót, vì vậy không thể xác minh đúng hay sai.

Còn về thử nghiệm thì không thể thực hiện vì lý do đạo đức.

Không thể cho ngừng tim tự nguyện, đo toàn diện về thể chất và não bộ rồi đánh thức người tham gia thử nghiệm để hỏi xem họ nhớ gì không.

Một nghiên cứu quy mô gần đây đã hé lộ ít nhiều về trải nghiệm cận kề cái chết. Nghiên cứu của Trường y khoa Đại học New York được trình bày tại hội nghị khoa học về hồi sức của Hiệp hội Tim mạch Mỹ ngày 6-11-2022 ở Chicago đã chứng minh hai điều:

Ý thức không chết khi cơ thể chết (tim ngừng đập) và các biểu hiện như thoát xác, nhìn thấy cuộc đời lướt qua không phải là ảo giác, mê sảng hoặc giấc mơ.

Nhóm nghiên cứu đã xem xét 567 bệnh nhân được hồi sức tim phổi sau khi tim ngừng đập tại 25 bệnh viện ở Anh và Mỹ từ tháng 5-2017 đến 3-2020. Từ 10 - 20% bệnh nhân hồi phục. Kết quả trong năm người sống sót có một người mô tả rõ ràng trải nghiệm cận kề cái chết.

Khi kiểm tra não của 85 bệnh nhân, nhóm nghiên cứu phát hiện não hoạt động đột biến suốt một tiếng sau khi hồi sức và xuất hiện một số sóng não thường phát sinh khi con người còn có ý thức và sử dụng nhận thức để suy nghĩ hoặc hồi tưởng ký ức.

TS Sam Parnia - nhà nghiên cứu chính - nhận xét: "Trải nghiệm được ghi nhớ và hiện tượng thay đổi sóng não có thể là dấu hiệu đầu tiên của cái gọi là trải nghiệm cận kề cái chết. Đây là lần đầu tiên chúng tôi nắm bắt được trải nghiệm này trong nghiên cứu lớn".

TS Eben Alexander là bác sĩ phẫu thuật thần kinh cấp cao ở Mỹ. Năm 2008, bản thân ông đã trải qua trải nghiệm cận kề cái chết trong lần được gây mê để điều trị bệnh viêm màng não. Ông có cảm giác bồng bềnh trên suối, thác nước và trên cánh đồng, nhìn thấy nhiều người nhảy múa, hàng triệu con bướm và trẻ em nô đùa vui vẻ.

Nghiên cứu về trải nghiệm của ông đăng trên tạp chí Bệnh Tâm Thần Và Thần Kinh (Mỹ) năm 2018 khẳng định trải nghiệm này không liên quan đến hoạt động của não vì não sau gây mê có rất ít hoặc không có hoạt động nào.

*

Pamela Reynolds

Giải mã bí ẩn cận tử - (5) Á, Âu có trải nghiệm cái chết giống nhau?

 Giải mã bí ẩn cận tử 
(5) Á, Âu có trải nghiệm cái chết giống nhau?

Dạ Thảo 
Tuổi Trẻ Online, 11/07/2023

Văn hóa có thể tác động ở mức độ nhất định đến trải nghiệm cận kề cái chết nhưng đến nay không đủ dữ liệu nghiên cứu để chứng minh.

Thời tiết trên bãi biển Tel Aviv (Israel) vào mùa hè vẫn như thường lệ. Trời nắng. Không khí ẩm. Những người lướt sóng luyện tập khi thủy triều xuống. Đột nhiên một cơn sóng cao bất thường ập tới đẩy cô gái Ila Or (18 tuổi) mắc kẹt trong đê chắn sóng. Cô uống một lượng lớn nước biển và bất tỉnh.

Không theo đạo vẫn có thể trải nghiệm cận tử kỳ lạ

26 năm sau, Ila Or kể lại câu chuyện sống sót trên báo Israel Hayom (Israel): "Tôi bắt đầu nhìn thấy toàn bộ cuộc đời diễn ra trước mắt như phim trình chiếu. Chào đời, học mẫu giáo, học trung học. 

Lúc tôi nhìn thấy đám tang của mình, tôi nghe một tiếng động lớn và cảm thấy đang rời khỏi cơ thể từ từ bay lên. Từ trên cao, tôi quan sát cơ thể mình chìm xuống nước nhưng không cảm thấy đau đớn nữa. 

Rồi tôi đến một đường hầm rất yên tĩnh. Ánh sáng trắng dẫn dắt tôi vào con đường sáng lạ thường. Tôi nhìn thấy hai bóng người mặc đồ trắng hỏi tên tôi và hỏi tôi có biết vì sao tôi lại ở đây không".

Ila Or nhớ lại lúc đó rất sợ: "Họ kể cho tôi nghe những chuyện tốt và chuyện xấu tôi đã làm trong đời. Khi nhận ra mình đang bị phán xét, tôi bắt đầu hét lên kinh hoàng rằng tôi chưa sẵn sàng chết và họ phải cho tôi sống lại. 

Tôi thuyết phục họ rằng tôi cần phải có con cái, thiên hướng của tôi là làm mẹ và tôi còn tương lai phía trước. Họ nhìn chằm chằm vào tôi cho đến khi một người đập búa và ra điều kiện nếu cho tôi trở về, tôi phải dâng hiến phần đời còn lại cho thượng đế. 

Tôi đồng ý ngay và hỏi họ tôi trở về như thế nào. Họ nói rồi tôi sẽ thấy phép lạ". Ngay sau đó Ila Or hồi tỉnh. Một thợ lặn đã kéo Ila Or lên mặt nước gần đê chắn sóng.

Chuyện kể về trải nghiệm cận kề cái chết của Ila Or ở Israel rất giống trải nghiệm của nhân chứng Julia Nicholson ở Mỹ. 

Trong tuyển tập nghiên cứu Le Bon Passage (Pháp), nhà nghiên cứu Christophe Pérez ghi nhận: "Điều khiến các nhà khoa học băn khoăn là trải nghiệm cận kề cái chết mang tính chất phổ quát, nghĩa là trải nghiệm luôn bao gồm nhiều yếu tố giống nhau bất kể văn hóa, giới tính, tuổi tác, tôn giáo hay niềm tin. 

Các nghiên cứu dù được thực hiện tại nhiều châu lục, trong các bối cảnh tôn giáo và văn hóa khác nhau đều cho thấy các trải nghiệm cận kề cái chết bao gồm nhiều yếu tố giống nhau".

TS Raymond Moody giải thích trên trang Mediapart (Pháp): "Tôi đã đến Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Nga, châu Phi, Bắc Mỹ và Nam Mỹ, ở đâu mọi người cũng kể cho tôi nghe những điều cơ bản giống nhau. 

Câu chuyện chỉ khác về hình tượng tôn giáo. Họ mượn hình ảnh từ truyền thống tôn giáo để giải thích những gì họ đã trải qua, nhưng thông thường họ lý giải: Tôi phải sử dụng từ ngữ theo truyền thống của tôi bởi đó là những từ ngữ tôi biết".

Ông lưu ý nhiều người không theo tôn giáo nào vẫn có thể trải qua trải nghiệm cận kề cái chết. 

Ông nhấn mạnh: "Dù vậy họ cho rằng có thế giới bên kia và có thượng đế. Điều này đã thay đổi đáng kể cuộc sống sau đó. Họ đã khẳng định điều quan trọng nhất mà chúng ta có thể làm là học cách yêu thương nhau".

Christophe Pérez kết luận tương tự: "Niềm tin tôn giáo không đóng vai trò gì trong trải nghiệm cận kề cái chết. Một người không tin đạo nào vẫn có trải nghiệm như tín hữu Công giáo dù họ giải thích các sự kiện khác nhau tùy theo văn hóa hoặc niềm tin tôn giáo của họ". 

Chi tiết phổ biến nhất trong các chuyện kể là luồng ánh sáng và họ lý giải luồng sáng đó là Chúa Kitô (tín hữu Công giáo), Đức Phật (Phật tử), thiên thần (tín đồ Do Thái giáo) hay sinh vật ánh sáng (người không theo đạo nào).

Hai hướng nghiên cứu khác nhau

Trong bài viết Trải nghiệm cận kề cái chết - tổng hợp tài liệu nghiên cứu đăng trên tạp chí khoa học L'Année psychologique (Pháp), các nhà nghiên cứu Pháp nhận xét hiện nay giới khoa học có hai cách tiếp cận khác nhau:

* Trải nghiệm cận kề cái chết thay đổi tùy nền văn hóa: Một số nghiên cứu đã chứng minh các chuyện kể về trải nghiệm này có khác biệt đáng kể giữa các nước phương Tây và các nền văn hóa khác. Ví dụ được trích dẫn nhiều nhất xảy ra ở Ấn Độ. 

Một buổi sáng năm 1958, ông Munnichinnappa lúc bấy giờ 12 tuổi rơi từ trên cây xuống bất tỉnh. Người thân được thông báo nạn nhân đã chết. 

Khoảng 3h chiều ông tỉnh lại và kể lại ông bị đưa xuống diêm giới Yamaloka (hoặc Yamapatna), sau đó diêm chúa Yama (thần chết theo Ấn Độ giáo và Phật giáo) đã quyết định trả ông về trần gian.

Các chuyện kể ở phương Tây cho rằng luồng ánh sáng thường được liên kết với một nhân vật quan trọng (như Chúa, Phật) hoặc gắn với cảm giác yêu thương. 

Ngược lại, tại một số quốc gia như Nhật, ánh sáng không được nhân cách hóa và không liên quan gì đến cảm xúc. Nhà nghiên cứu Keith Augustine (Mỹ) ghi nhận các biểu hiện về trải nghiệm cận kề cái chết ở Trung Quốc và Chile rất khác với chuyện kể ở phương Tây. 

Ông giải thích trải nghiệm cận kề cái chết chịu ảnh hưởng bởi kỳ vọng của cá nhân về cái chết và cuộc sống sau khi chết trong khi kỳ vọng ấy thường liên quan chặt chẽ đến văn hóa và đặc biệt là tôn giáo.

* Trải nghiệm cận kề cái chết giống nhau giữa các nền văn hóa: Một số nghiên cứu ở Iran và Israel kết luận các chuyện kể về trải nghiệm này đều giống nhau giữa các nền văn hóa. Một số nhà khoa học lập luận thật ra các biểu hiện khác nhau chỉ mang tính chất bên ngoài và là cách giải thích khác cho cùng một hiện tượng. 

Ba nhà nghiên cứu John Belanti, Mahendra Perera và Karuppiah Jagadheesan (Úc) kết luận dù các chuyện kể về trải nghiệm cận kề cái chết ở các nền văn hóa khác nhau có một số yếu tố khác biệt nhưng tựu trung vẫn có nhiều điểm tương đồng.

Tóm lại, văn hóa có thể tác động ở mức độ nhất định đến trải nghiệm cận kề cái chết nhưng đến nay không đủ dữ liệu nghiên cứu để chứng minh. 

Nói chung phần lớn nghiên cứu chỉ dựa vào các chuyện kể trong khi phương pháp thu thập và phân tích chuyện kể lại rất khác nhau nên khó so sánh. 

Ngoài ra, dù các nghiên cứu xem xét các nền văn hóa khác nhưng hầu hết lại được thực hiện ở các nước phương Tây, vì vậy vẫn cần thêm nhiều nghiên cứu mới.

Các biểu hiện như nhìn thấy đường hầm hoặc nhìn lại cuộc đời diễn ra rất ít xuất hiện trong các chuyện kể ở Ấn Độ. Nghiên cứu của TS Susan Blackmore (Anh) năm 1993 là nghiên cứu duy nhất đề cập đến đường hầm trong trải nghiệm cận kề cái chết của người Ấn Độ.

Ngược lại, một số biểu hiện không có trong chuyện kể ở phương Tây lại trở thành đặc điểm trung tâm trong các nền văn hóa khác.

Ví dụ do nhầm lẫn danh tính nên người sống sót được thần chết Yama trả về trần gian. Nhà nghiên cứu Todd Murphy (Canada) ghi nhận hiện tượng này được kể rất phổ biến ở Ấn Độ và Thái Lan. Murphy cũng ghi nhận "người Thái sợ địa ngục hơn người phương Tây". 

*


Giải mã bí ẩn cận tử - (4) Sống tốt hơn sau lần đến ngưỡng cửa cái chết

 Giải mã bí ẩn cận tử
(4) Sống tốt hơn sau lần đến ngưỡng cửa cái chết

Dạ Thảo 
Tuổi Trẻ Online, 10/07/2023

Giới y học chưa chính thức công nhận hiện tượng trải nghiệm cận kề cái chết, nhưng các công trình nghiên cứu cho thấy trải nghiệm này đã góp phần thay đổi đáng kể cuộc sống của những người sống sót.

Họ xem cái chết nhẹ tựa lông hồng

Ông Randy Schiefer nhớ lại năm 1969, lúc ông 16 tuổi, ông đã giật mình thức giấc lúc 4h sáng vì nghe tiếng hét của mẹ. 

Gia đình đang ở khách sạn trong chuyến đi nghỉ tại New Jersey (Mỹ). Cha ông lên cơn đau tim. Ông hô hấp nhân tạo cho cha qua đường miệng nhưng không kết quả. 

Ông chạy ra hành lang đập cửa kêu cứu nhưng chẳng ai giúp. Đêm đó, cha ông qua đời. Từ đó cứ mỗi lần nghĩ về cha, ông lại cảm giác thấy tội lỗi và sợ hãi đồng thời nghĩ đến cái chết của chính mình.

Tháng 3-2020, ông già ở tuổi thất thập cổ lai hy mắc COVID-19. Sau khi nhập viện, ông được gây mê và thở máy rồi mê man gần một tháng, cuối cùng vượt qua được sau đợt điều trị bằng huyết tương. 

Đến khi con gái Lisa được phép ở lại phòng bệnh chăm sóc ông, lúc bấy giờ ông mới kể cho con nghe trải nghiệm cận kề cái chết của ông.

Ông khẳng định lúc hôn mê ông vẫn còn ý thức. Ông đi qua đường hầm có ánh sáng ấm áp dẫn đến căn phòng lớn có cửa sổ hình vòm và các cửa kính màu tràn ngập ánh sáng yêu thương. 

Một quý ông đến gần bảo ông không thuộc về nơi đó nên ông phải rời đi. Ông bước qua cánh cửa gỗ sồi khổng lồ đến một thành phố dát vàng. Nơi đó giống như Paris nhưng đẹp và tinh khôi hơn. Cỏ trong công viên có màu xanh đậm khác thường.

Bất chợt ông nhận ra không biết mình đang ở đâu, làm thế nào để trở về và cảm thấy lạc lõng. Ông kể: "Tôi nhớ mình đã ngồi xuống, bắt đầu hoảng sợ rồi khóc". 

Ông cảm thấy lạnh và sợ hãi. Đột nhiên ông nhìn thấy một cầu thang lớn màu trắng vươn đến tận bầu trời. Ông leo lên cầu thang, bò bằng tay và đầu gối, sau đó ai đó gọi tên ông, túm lấy áo kéo ông xuống. Rồi mọi vật chuyển sang đen ngòm và ông tỉnh lại.

Câu chuyện trải nghiệm của ông đã được phát trên Đài phát thanh công cộng quốc gia (Mỹ). Cô con gái Lisa cho rằng đó có thể là giấc mơ hay ảo giác do ông dùng thuốc liều cao. Song ông Schiefer phản bác: "Cảm giác rất thật. Ba đã ở đó. Ba cảm thấy rất bình yên và tràn ngập tình yêu thương".

Cô còn nhận thấy hành vi ứng xử của cha cô gần như thay đổi sau khi ông xuất viện về nhà. Ông như tìm thấy năng lượng mới, tỏ ra hào hứng và lạc quan hơn chứ không sống lạc lõng như trước. 

Cô bộc bạch: "Trước khi mắc COVID-19, ba không bao giờ nói đến cái chết. Trong nhà không nói về thượng đế, không nói về thế giới bên kia". Còn bây giờ ông nói về cái chết với tâm trạng rất thoải mái. 

Ông mở lòng kể lại đêm chứng kiến ông nội cô lên cơn đau tim qua đời. Những lần hoảng loạn từng hành hạ ông từ lúc ông nội mất đã chấm dứt. Ông bắt đầu tìm hiểu sâu về tôn giáo và cầu nguyện thường xuyên.

Trả lời tạp chí Newsweek, TS Bruce Greyson ở Đại học Virginia (Mỹ) nhận xét với tư cách là bác sĩ tâm thần, ông kiếm sống bằng cách giúp bệnh nhân thay đổi lối sống nhưng rất khó thực hiện. 

Trong khi đó, trải nghiệm cận kề cái chết chỉ xuất hiện vài giây nhưng đủ sức thay đổi hoàn toàn thái độ, giá trị, niềm tin và hành vi của người sống sót.

Lần đầu tiên khi ông nghe nói người đã qua trải nghiệm này không còn sợ cái chết, ông đã lo họ dễ có ý định tự tử hơn. Song qua nghiên cứu, ông nhận thấy họ lại ít có ý định tự tử hơn nhiều so với những người chưa từng qua trải nghiệm. 

Ông kể: "Họ trả lời khi không còn sợ chết, họ cũng không còn sợ cuộc sống. Do không sợ mất tất cả, họ sẽ không sợ nắm bắt cơ hội và sống hết mình. Chính điều đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn, viên mãn hơn".

Sống nhân ái hơn, không đua đòi vật chất

Trải nghiệm cận kề cái chết xảy ra đối với mọi độ tuổi dù già trẻ bé lớn, tuy nhiên các công trình nghiên cứu cho thấy tuổi càng trẻ, xác suất xảy ra trải nghiệm này càng cao hơn. 

Theo nghiên cứu của bác sĩ y khoa Pim van Lommel (Hà Lan), người đã qua trải nghiệm này có những thay đổi trong cuộc sống như sau:

- Họ không còn nhìn nhận bản thân như cũ mà trở nên khoan dung hơn với bản thân và với người khác.

- Họ trở nên cuồng kiến thức, bắt đầu tìm đọc các tác phẩm về khoa học và tâm linh.

- Họ phát triển lòng trắc ẩn đối với người khác hơn trước với nhu cầu chân thành và từ bỏ tính hung hăng.

- Họ định hướng lại các mục tiêu trong cuộc đời, ít quan tâm hơn đến sự nghiệp chuyên môn và mọi thứ vật chất như của cải, quyền lực, uy tín, danh tiếng, cạnh tranh.

- Họ xem trọng hơn các chi tiết nhỏ trong cuộc sống, người thân, bạn bè và thiên nhiên.

- Họ không còn sợ cái chết và khẳng định cái chết sẽ mở ra một hình thức tồn tại khác.

- Niềm tin vào tôn giáo có xu hướng biến mất và nhường chỗ cho tâm hồn rộng mở hơn, phổ quát hơn, không bị bó buộc vào giáo điều hay truyền thống.

- Một số người mẫn cảm hơn với ánh sáng, âm thanh, xúc giác, mùi vị.

- Cuối cùng trực giác của họ dường như phát triển hơn, họ dễ dàng đoán được cảm xúc và các vấn đề khó khăn của người khác.

TS Janice Holden (Mỹ) - chủ tịch Hiệp hội quốc tế về nghiên cứu cận kề cái chết (IANDS) - giải thích: "Về thể chất, họ thay đổi thói quen ăn uống, tránh ăn thịt và ít ngủ hơn. Tôi phát hiện một điều thú vị là các thiết bị điện sẽ bị trục trặc nếu để gần những người này. 

Ngoài ra, còn có những thay đổi về xã hội như nguy cơ ly hôn cao hơn nếu người sống sót đã kết hôn vào thời điểm xảy ra trải nghiệm. Họ sẽ thay đổi về nghề nghiệp như có sở thích mới đối với các công việc hướng đến cộng đồng như giảng dạy, tư vấn".

TS Bruce Greyson lưu ý: "Sự thay đổi này không biến mất theo thời gian. Tôi đã nói chuyện với nhiều người ở độ tuổi 90 vốn là những người từng qua trải nghiệm cận kề cái chết hồi thời niên thiếu. Họ nói mọi chuyện cứ như mới xảy ra hôm qua và họ không bao giờ có thể quay lại lối sống cũ được nữa".

TS Bruce Greyson kể: "Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân tan vỡ vì người phối ngẫu không thể chịu đựng được sự thay đổi. Tôi đã chứng kiến các quân nhân hoặc cảnh sát chuyên nghiệp không thể chịu đựng được ý tưởng làm tổn thương ai đó sau trải nghiệm cận kề cái chết.

Tôi đã chứng kiến các doanh nhân hay mua bán cắt cổ sau khi trải qua trải nghiệm này đã nhận thức rằng cạnh tranh là điều ngớ ngẩn. Và họ thường chuyển sang làm các nghề giúp đỡ người khác như chăm sóc y tế, giảng dạy, làm công tác xã hội hoặc trở thành tu sĩ ...".

*

Randy Schiefer

Giải mã bí ẩn cận tử - (3) Cận tử, từ đường hầm đến hiện tượng thoát xác

Giải mã bí ẩn cận tử 
(3) Cận tử, từ đường hầm đến hiện tượng thoát xác

Dạ Thảo 
Tuổi Trẻ Online, 09/07/2023 

Một tài xế xe tải (55 tuổi) phải chịu phẫu thuật bắc cầu mạch vành cấp cứu. Sau ca mổ, bệnh nhân đã kể lại với TS Bruce Greyson câu chuyện trải nghiệm cận tử rất kỳ lạ.

Lúc người này được gây mê toàn thân và các bác sĩ đã mở ngực, ông có cảm giác rời khỏi cơ thể của mình và nhìn xuống từ trên cao quan sát ca mổ. Ông đã thấy bác sĩ phẫu thuật vỗ vỗ khuỷu tay như thể đang cố bay lên.

12 biểu hiện cơ bản được đúc kết

TS Bruce Greyson chuyên nghiên cứu tâm thần học và khoa học hành vi thần kinh tại Đại học Virginia (Mỹ), hiện nay là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về hiện tượng cận kề cái chết. Ông đã nghiên cứu hiện tượng cận tử kỳ lạ này trong hơn bốn thập niên.

Ông kể lại câu chuyện người tái xế xe tải nêu trên trên tạp chí Newsweek và khẳng định câu chuyện bệnh nhân mô tả hoàn toàn đúng sự thật. 

Ông nói: "Sau khi bệnh nhân đồng ý, tôi đã trò chuyện với bác sĩ phẫu thuật của ông ấy và bác sĩ xác nhận điều đó là chính xác. Bác sĩ này có thói quen mang phong cách riêng. Khi bước vào phòng mổ, do không muốn chạm vào bất cứ thứ gì không vô trùng nên bác sĩ này đặt lòng bàn tay áp vào ngực rồi hướng dẫn cho các trợ lý bằng cách vỗ khuỷu tay".

Ông nhận xét: "Bạn có thể suy luận bệnh nhân đã nghe bác sĩ phẫu thuật nói đã làm điều đó hoặc ai đó nói lại điều đó với bệnh nhân, song như vậy không hợp lý. Đây là ca phẫu thuật cấp cứu. Bệnh nhân chưa từng gặp bác sĩ phẫu thuật trước đó và không biết gì về bác sĩ này. Thế nhưng ngay sau khi tỉnh dậy sau ca mổ, bệnh nhân đã biết và mô tả tường tận ca mổ".

Trong tuyển tập Le Bon Passage dày 422 trang (NXB Presses Universitaires de Bordeaux thuộc Đại học Bordeaux Montaigne, Pháp) gồm nhiều tác giả, nhà nghiên cứu Christophe Pérez ghi nhận trải nghiệm cận kề cái chết được chia thành nhiều loại. Trường hợp phổ biến nhất và rõ ràng nhất được TS Raymond Moody xác lập bao gồm 12 biểu hiện như sau:

- Nhân chứng cho rằng ngôn ngữ thông thường không thể diễn đạt trung thực hoàn toàn trải nghiệm mà họ đã trải qua.

- Ban đầu nhân chứng cảm thấy bình yên và thanh thản. Nỗi đau thể xác hoàn toàn biến mất.

- Nhân chứng ý thức mình đã chết.

- Đôi lúc nhân chứng nghe tiếng ồn như tiếng vo ve.

- Hiện tượng thoát xác xảy ra. Nhân chứng cho rằng đã ở trên cơ thể và chứng kiến quá trình hồi sức của chính mình.

- Nhân chứng bị hút vào không gian tối mịt thường được mô tả như đường hầm hoặc đôi khi là thung lũng.

- Ở cuối đường hầm, nhân chứng bước vào một luồng ánh sáng. Ở đây họ cảm nhận được tình yêu vô điều kiện và sự thông hiểu về ý nghĩa của tồn tại.

Trong luồng ánh sáng ấy, một số người kể đã gặp người thân và cha mẹ đã qua đời, đã nhìn thấy phong cảnh tuyệt vời hoặc nghe tiếng nhạc véo von.

- Và rồi tầm nhìn toàn cảnh về quá khứ xuất hiện. Nhân chứng nhìn thấy toàn bộ quá trình cuộc sống diễn ra như đoạn phim.

- Nhân chứng cảm nhận được có một biên giới, một giới hạn mà vượt qua đó sẽ không thể quay lại được nữa.

- Cuối cùng nhân chứng quay trở lại thân xác của mình.

- Khi tỉnh dậy, nhân chứng tỏ ra thất vọng vì được hồi sinh và vì đã rời bỏ chốn tươi đẹp như mơ.

Càng trẻ càng có thể qua trải nghiệm cận kề cái chết

Sau TS triết học - bác sĩ y khoa Raymond Moody ở Mỹ, các nghiên cứu về trải nghiệm cận kề cái chết gia tăng trên thế giới. Bác sĩ tim mạch Michael Sabom ở Florida (Mỹ) ban đầu hoài nghi hiện tượng cận kề cái chết. Ông nảy ra ý tưởng phỏng vấn trực tiếp các bệnh nhân sống sót sau khi ngừng tim trong bệnh viện. 

Ông tiến hành khảo sát từ năm 1976-1980 và công bố nghiên cứu vào năm 1982. Ông là một trong những thành viên sáng lập Hiệp hội quốc tế về nghiên cứu cận kề cái chết (IANDS) ra đời ở Mỹ vào năm 1981.

TS Bruce Greyson đã từng nghiên cứu trải nghiệm cận kề cái chết trên 1.595 bệnh nhân tại khoa tim Bệnh viện Đại học Virginia vào năm 2003. Cuối cùng là hai nghiên cứu lớn về trải nghiệm này ở Anh, một do TS Sam Parnia thực hiện vào năm 2001 và một do TS Penny Sartori thực hiện vào năm 2006.

Các nghiên cứu cho thấy trải nghiệm cận kề cái chết xảy ra đối với mọi độ tuổi dù già trẻ bé lớn, tuy nhiên tuổi càng trẻ, xác suất xảy ra trải nghiệm này cao hơn. 

TS Janice Holden (Mỹ) giải thích người sống sót có nhiều khả năng gặp trải nghiệm này thường là người sợ chết hoặc người đã từng sống với những trải nghiệm sâu sắc khác như có thời gian quá đỗi đau buồn hay đã từng ngồi thiền quá lâu. Bà hiện là chủ tịch IANDS và tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu cận kề cái chết trực thuộc IANDS.

Nổi tiếng nhất là nghiên cứu ở Hà Lan do bác sĩ y khoa Pim van Lommel thực hiện. Nghiên cứu được chia làm hai giai đoạn với bảy bệnh viện tham gia. Giai đoạn đầu dài bốn năm (năm 1988-1992) nghiên cứu lời kể của các bệnh nhân sống sót sau ngừng tim. Giai đoạn hai dài tám năm (năm 1992-2000) nghiên cứu những thay đổi trong hành vi và cách nhìn nhận cuộc sống ở các bệnh nhân đã qua trải nghiệm cận kề cái chết.

Ở giai đoạn một, 344 bệnh nhân đã trải qua 509 lần hồi sức (tất cả đều đã chết lâm sàng) được phỏng vấn. 82% không nhớ gì hết và 18% cho biết có qua trải nghiệm cận kề cái chết (62 bệnh nhân). 

Ở giai đoạn hai, nhóm bệnh nhân đã qua trải nghiệm cận kề cái chết ở giai đoạn một đã thay đổi lối sống rất rõ ràng so với nhóm bệnh nhân không qua trải nghiệm này. Ví dụ số bệnh nhân quan tâm đến tâm linh đã tăng 42% ở nhóm đầu và giảm 41% ở nhóm sau. 

Nghiên cứu của Hà Lan đã được công bố trên tạp chí y khoa nổi tiếng The Lancet (Anh) vào tháng 12-2001, đã có tác động trên toàn thế giới và giành được nhiều giải thưởng khoa học.

Chưa chứng minh được có cuộc sống khác sau chết

TS Raymond Moody khẳng định trải nghiệm cận kề cái chết không chứng minh được có cuộc sống khác sau khi chết [*]. Ông giải thích trải nghiệm này chủ yếu dựa vào lời kể của các nhân chứng sống sót, tuy nhiên cần phân biệt rạch ròi giữa lời kể với sự thật. Bệnh nhân sống sót có thể là người thành thật, họ kể lại những gì đã nhìn thấy song lời kể chưa chắc đúng sự thật. Ví dụ người đi trong sa mạc nhìn thấy vũng nước nhưng sự thật đó chỉ là ảo giác.

Một số bệnh nhân sống sót thừa nhận có nói dối về việc đã trải qua trải nghiệm cận kề cái chết, vậy làm sao phân biệt ai nói thật và ai nói dối? Theo TS Moody, người thực sự đã qua trải nghiệm này thường có thái độ khiêm tốn, trầm tĩnh và sẵn sàng thừa nhận có nhiều điều họ không biết trong khi kẻ nói dối chỉ lo tập trung kể những câu chuyện khoe khoang chính cá nhân họ.

----------
[*] Ghi thêm: Trong cuốn sách mới nhất, xuất bản năm 2023, Proof of Life after Life: 7 Reasons to Believe There Is an Afterlife, Dr Moody khẳng định trong phần kết luận rằng bây giờ ông tin có một đời sống sau cái chết: "After decades of persistent, rigorous skeptical inquiry, I am confident of a life after death" (Sau nhiều năm kiên trì tìm hiểu nghiêm túc, tôi tin chắc là có đời sống sau khi chết). – (Bình Anson, 15/06/2025)

*


Pim van Lommel



Giải mã bí ẩn cận tử - (2) Bác sĩ ngừng thở hơn chín phút nhìn thấy gì?

Giải mã bí ẩn cận tử 
(2) Bác sĩ ngừng thở hơn chín phút nhìn thấy gì?

Dạ Thảo 
Tuổi Trẻ Online, 08/07/2023

'Tôi ra ngoài và ào một cái, tôi di chuyển với vận tốc gần với vận tốc âm thanh phía trên cây cối...', bác sĩ kể lại giây phút cận tử mà mình trải qua.

Cuối năm 1943, binh nhì George Ritchie (20 tuổi) đóng quân tại căn cứ huấn luyện Barkeley gần thành phố Abilene (bang Texas, Mỹ). Ngày 20-12, anh trở lại Richmond để hoàn thành nốt chương trình học tại Đại học Y khoa Virginia. 

Thế nhưng anh đã bỏ lỡ chuyến tàu vì phải nhập viện cấp cứu do viêm phổi.

Những hình ảnh lạ lùng được giấu kín 10 năm 

Hơn một tuần sau, bệnh tình của Ritchie ngày càng xấu. 24 tiếng sau khi lên cơn sốt đến 41oC, anh không còn dấu hiệu sự sống. Lời khai có tuyên thệ của nhân viên bệnh viện khẳng định bệnh nhân đã chết. 

Thế nhưng hơn chín phút sau, người này cứ nghĩ mình hoa mắt khi nhìn thấy Ritchie nhúc nhích. Bác sĩ nhận định lần nữa bệnh nhân đã chết nhưng vẫn tiêm adrenalin vào tim anh. Các dấu hiệu sinh tồn dần dần xuất hiện.

Sau khi hồi tỉnh, anh cho biết đã chứng kiến nhiều biểu hiện kỳ lạ như có cảm giác bình yên, nghe có tiếng ồn, thoát xác, nhìn thấy sinh vật sáng lòa, nhìn thấy toàn cảnh cuộc đời. 

Một bác sĩ đã ghi thêm ý kiến bổ sung: "Tiếng đánh thức ảo rời bỏ cái chết và hồi phục sức khỏe mạnh mẽ của anh Ritchie cần được giải thích bằng các từ ngữ khác ngoài lẽ tự nhiên".

Sau đó, dù Ritchie đã trở thành bác sĩ y khoa và nhà tâm thần học nhưng suốt 10 năm ông không hề kể cho ai nghe trải nghiệm cận tử đã trải qua lúc bạo bệnh, trừ vợ và mẹ kế ông. Vợ ông nghe nhưng cũng chẳng tin. Rồi một ngày ông tuyên bố, trong lúc chết lâm sàng vào năm 1943, bản thân ông đã chứng kiến trải nghiệm cận kề cái chết.

Ông kể lại trên tờ báo uy tín The Washington Post: "Tôi ngồi một bên giường trong căn phòng cách ly nhỏ. Trong lúc cố tìm quân phục, tôi quay lại nhìn trên giường và thấy có một người nằm ở đó. Nhưng tôi không có thời gian suy nghĩ về điều đó. Tôi biết mình đã lỡ chuyến tàu, tôi biết mình phải quay lại Richmond. Khi tôi đi ra ngoài định quay lại Richmond thì nhìn thấy điều dưỡng viên mang chiếc khay đến. Tôi còn quay sang hỏi người này đi đâu...".

Ông tiếp tục nhớ về ký ức: "Bây giờ tôi biết chuyện đó có vẻ nực cười. Tôi ra ngoài và ào một cái, tôi đang di chuyển với vận tốc gần với vận tốc âm thanh phía trên cây cối từ 30 - 150m. Đột nhiên tôi băng qua con sông lớn và thấy một thị trấn nhỏ. Có anh chàng đi một mình xuống phố. Có quán cà phê ở góc đường mở cửa thâu đêm. 

Tôi dừng lại trên vỉa hè để hỏi anh ta tôi đang ở đâu, nhưng anh ta không nghe và không nhìn thấy tôi. Tôi suy nghĩ rồi vỗ vào má anh ấy để anh ấy chú ý. Và tôi đi xuyên qua anh ấy... Tôi nhanh chóng quay trở về như lúc ra đi...".

Ông kể ông đã nhìn thấy nhiều hình ảnh rất lạ lùng. Nhiều binh lính nằm trên giường đắp chiếc mền quân đội màu nâu và tất cả đều cắt cùng kiểu tóc quân nhân. Thân thể ông nằm trên giường phủ tấm trải có đeo chiếc nhẫn kỷ niệm khóa học. Bàn tay ông trắng bệch giống hệt bàn tay ông nội đã mất ba năm trước. 

Một bóng đèn nhỏ 15W đột ngột sáng bừng như hàng triệu ngọn đèn hàn. Ông nói: "Sau đó, các bức tường bệnh viện biến mất. Mọi thứ từng xảy ra với tôi từ lúc chào đời hiện ra toàn cảnh với đầy đủ mọi chi tiết...".

Một năm sau, Ritchie đi qua thị trấn ấy và nhận ra khung cảnh quen thuộc đã từng nhìn thấy trong lúc cận kề cái chết. Ông nói với người lái xe nếu đi thêm một dãy nhà trên con phố sẽ nhìn thấy có quán cà phê mở cửa thâu đêm. Thực tế đúng như vậy, thị trấn đó chính là Vicksburg.

Người đầu tiên khai phá hiện tượng cận kề cái chết

Thời bấy giờ câu chuyện ngưng thở hơn chín phút của bác sĩ Ritchie đã đặt ra nhiều nghi vấn không thể giải thích, song nhiều người vẫn tin vì uy tín của bác sĩ này và vì nghiên cứu sau đó của TS Raymond Moody cho thấy rất nhiều người chết lâm sàng sau khi hồi tỉnh đã kể lại câu chuyện tương tự.

TS triết học - bác sĩ y khoa Raymond Moody lớn lên ở Georgia. Ông bộc bạch trên trang Mediapart (Pháp): "Năm 1962, tôi phát hiện trải nghiệm cận kề cái chết sau khi đọc tác phẩm Cộng hòa của triết gia Hy Lạp Plato, trong đó có đoạn nói về hiện tượng này. Đến năm 1965, tôi gặp bác sĩ tâm thần Ritchie, người đầu tiên mà tôi biết có trải qua trải nghiệm như vậy".

Sau khi tốt nghiệp, Moody dạy triết học tại Đại học Bắc Carolina. Một ngày nọ, một sinh viên đã kể cho ông nghe về trải nghiệm kỳ lạ mà bà nội mình trải qua khi cận kề cái chết. Trong buổi học tiếp theo, ông kể lại và ngạc nhiên khi nhiều sinh viên đã kể những chuyện như thế. 

Năm 28 tuổi, ông học tại Đại học Augusta (bang Georgia) để trở thành bác sĩ tâm thần. Ông vẫn bị hiện tượng thời khắc cận kề cái chết kỳ lạ ám ảnh nên thuyết trình đề tài này trước hội sinh viên y khoa. Ông chờ đợi phản ứng bác bỏ của tầng lớp cử tọa vốn đam mê khoa học hiện đại, song họ lại kể thêm nhiều câu chuyện tương tự.

Tin đồn bắt đầu lan ra về một giáo sư triết - sinh viên tâm thần học quan tâm đến hiện tượng cận kề cái chết vốn ít được nghiên cứu. Một nhà xuất bản nhỏ ở Atlanta đặt hàng ông viết sách về trải nghiệm cận kề cái chết. 

Ông tiến hành khảo sát trong bệnh viện và thu thập lời kể của các bệnh nhân sống sót. Năm 1975, cuốn sách Life After Life của ông được xuất bản với lời đề tựa của bác sĩ y khoa Elisabeth Kübler-Ross, một bác sĩ tâm thần nổi tiếng ở Mỹ. Cuốn sách thành công bất ngờ đến mức ông phát hoảng.

TS Moody được xem là người đầu tiên khai phá hiện tượng cận kề cái chết. Bản thân ông cũng là người từng qua trải nghiệm này sau khi suýt chết vì chứng bệnh tuyến giáp nghiêm trọng (cơ thể sản sinh kháng thể phá hủy các tuyến giáp). 

Ông định nghĩa trải nghiệm cận kề cái chết là một hình thức ý thức cao độ xảy ra đối với người ở ngưỡng cái chết. Ông nhận ra không có hai trải nghiệm hoàn toàn giống nhau nhưng hai trải nghiệm có thể có nhiều điểm tương đồng với nhau.

Hầu hết bệnh nhân kể lại dường như họ rời khỏi thân thể để quan sát cơ thể họ từ trên cao. Họ đi qua đường hầm tối tăm và bước ra luồng sáng rực rỡ, ấm áp và yêu thương. Họ gặp những người thân yêu đã khuất. Họ quan sát toàn cảnh hoặc theo thứ tự thời gian về cuộc sống của họ giống như nhân chứng nhìn từ bên ngoài.

Tuy nhiên ngoài yếu tố kỳ bí, các nhà khoa học cùng giới y học cũng đã và đang tập trung nghiên cứu để tìm lời giải khoa học cho những hiện tượng cận tử kỳ lạ này.

Người ngoài cuộc

Đôi lúc người ngoài cuộc cũng có thể chia sẻ trải nghiệm cận kề cái chết của người thân. Đây là điều TS Moody chưa thể giải thích. Một bác sĩ phẫu thuật ở Ý kể với ông trong ca phẫu thuật cho một nam thanh niên khá trẻ và có sức khỏe tốt, bệnh nhân bị ngưng tim và hồi sức không thành công.

Đột nhiên cửa phòng mổ mở ra, vợ bệnh nhân xuất hiện nói: "Tôi đang ở phòng chờ thì chồng tôi đến bảo tôi vào nói với bác sĩ rằng anh ấy chưa chết". Bác sĩ bèn tiếp tục cố hồi sức, cuối cùng tim bệnh nhân đập trở lại. Câu đầu tiên bệnh nhân thốt lên là: "Tôi đã ở trên cơ thể của tôi và cố nói với bác sĩ rằng tôi chưa chết nhưng bác sĩ không nghe nên tôi phải ra nói với vợ tôi".

*

Dr Raymond Moody

Giải mã bí ẩn cận tử - (1) Hành trình vào cõi chết và hồi sinh

 Giải mã bí ẩn cận tử
(1) Hành trình vào cõi chết và hồi sinh

Dạ Thảo 
Tuổi Trẻ Online, 07/07/2023 

Các nghiên cứu ghi nhận từ 10 - 20% số người sống sót sau khi tim ngừng đập kể lại đã qua trải nghiệm huyền bí cận kề cái chết. Các chuyện kể đều có nhiều chi tiết kỳ lạ trùng hợp nhau.

Ngoài lý giải có yếu tố siêu nhiên, trong vài thập niên gần đây, các nhà khoa học đã chú tâm nghiên cứu hiện tượng cận kề cái chết bí ẩn này.

Lâu nay mọi người đều cho rằng có ranh giới giữa sự sống - cái chết và một khi vượt qua ranh giới ấy thì không thể quay lại. 

TS Sam Parnia, ở Trường Y đại học New York (Mỹ), giải thích: "Hơn 60 năm nay, nhờ kỹ thuật hồi sức tim phổi, vấn đề này đã được xem xét lại. Nhiều người bước vào cõi chết theo quan điểm sinh học đã hồi sinh và kể lại trải nghiệm. Đến nay đã có nhiều triệu người trên thế giới kể lại trải nghiệm tương tự". Trường hợp của nữ diễn giả nổi tiếng Julia Nicholson ở Mỹ là một ví dụ điển hình.

Thấy gương mặt người yêu thương lướt qua khi cận kề cái chết

Lúc Julia Nicholson còn nhỏ, cha là quân nhân nên gia đình phải dời nhà nhiều nơi. Do sống trong nhiều môi trường khác nhau nên bà đã có kỹ năng tạo quan hệ với mọi người rất nhanh chóng. 

Tuy nhiên con đường khám phá bản thân của bà chỉ thực sự bắt đầu sau biến cố xảy ra năm 18 tuổi.

Năm 1980, đang là sinh viên năm thứ nhất ngành tâm lý học tại Đại học Missouri, bà luôn cảm thấy "cuộc đời vẫn đẹp sao". Một ngày nọ bà đến chơi với người chị gái ở bang Texas. 

Chị bà dẫn bà gặp anh chàng người yêu Allan tại bữa ăn tối ở nhà John, bạn thân của Allan. Sau bữa ăn tối lúc 22h30, bốn người quyết định đến dự lễ hội bên hồ cách đó 30 phút lái xe.

John cầm lái, bà ngồi trên ghế trước và cài dây an toàn dù lúc đó luật chưa bắt buộc. Một lúc sau bà cố tháo dây ra nhưng dây bị kẹt. Chị bà cố giúp, dây vẫn không bung ra. Còn cách hồ chừng 15 phút lái xe, xe đang chạy với tốc độ cho phép trên đường cao tốc hai làn xe thì bị một xe hơi khác tông vào. Người phụ nữ lái xe gây tai nạn đã có uống rượu.

Bà bất tỉnh trong xe và mất máu rất nhanh. Bà kể lại câu chuyện trên tạp chí Newsweek: "Tôi nhớ mình đã nghĩ đây hẳn là cảm giác khi chết. Tôi không cảm thấy đau nhưng tôi nghe có nhiều tiếng nói xung quanh. Tôi có thể nghe tiếng chị tôi hét lên: "Em chết rồi, em tôi chết rồi". Vì vậy tôi tin chắc rằng mình đã chết. 

Tôi nhớ chị tôi, anh Allan và anh John kêu lên "nếu em có thể nghe tiếng anh chị thì hãy cử động hay chạm vào cái gì đó", thế nhưng tôi không thể cử động được".

Bà kể tiếp: "Tôi nhớ mình đã nhìn thấy gương mặt của những người yêu thương lướt qua trước mắt tôi. Mỗi gương mặt xuất hiện trong ký ức của tôi đều có một điểm chung họ là những người mà tôi yêu thương và đã từng quan tâm sâu sắc. Tôi nghĩ tôi yêu tất cả những người này và tôi chưa bao giờ nói điều đó với họ".

2h sáng, cha mẹ bà nhận được điện thoại báo tin bà bị tai nạn và đang nguy kịch. Họ vội vàng đến bệnh viện ở Texas. Trong khi đó, bà vẫn không cảm thấy đau trên đường được đưa đi cấp cứu. 

Sau này bà phải trồng lại toàn bộ hàm răng vì nguyên hàm trên đã bị vỡ và môi dưới gần như đứt lìa. 

Bà nhận xét điều kỳ diệu đã cứu sống bà vào đêm gặp tai nạn chính là sợi dây an toàn bị kẹt. Nếu dây không bị kẹt, ắt hẳn bà có thể đã văng khỏi xe và chết ngay tại chỗ.

May mắn, chị bà, anh Allan và anh John đều không bị thương quá nặng. Cổ tay người chị bị gãy còn anh John chỉ bị bầm tím trên đầu.

Từ thiếu tự tin đến nhân vật nổi tiếng

Vết thương về thể xác ảnh hưởng nghiêm trọng đến gương mặt bà nhưng vết thương về tinh thần và tình cảm còn tàn khốc hơn. Thái độ tự tin của bà vỡ vụn. 

Nhiều tháng sau tai nạn, bà cảm thấy chán nản và thích tự cô lập bản thân. Rồi một ngày bà bắt đầu thay đổi cách nhìn. 

Nếu trước kia bà dằn vặt "Tại sao lại là tôi?", thì bây giờ bà suy nghĩ "Tại sao không phải là tôi? Tại sao tôi lại muốn tai nạn xảy ra cho người khác? Tôi có thể rút ra điều gì từ tai nạn để có thể giúp đỡ người khác hay không?". 

Bà xác định mục đích cuộc sống sắp tới của bà là thay đổi lối suy nghĩ cho rằng nỗi đau mất mát chính là bản án chung thân.

Cuối năm 1981, bà lập gia đình. Cuộc hôn nhân không suôn sẻ. Năm năm sau bà yêu cầu ly hôn với người chồng thích bạo lực khi đã có hai con, một đứa 4 tháng và một đứa 3 tuổi. 

Bà sống một mình, tập trung sống và kiếm tiền lo cho các con. Năm 1987, bà làm nhân viên kế toán. Sau hai năm làm việc nhưng không được nâng lương, bà hỏi, và giám đốc công ty trả lời thành thật: "Tôi biết bạn làm công việc này tốt hơn những người khác nhưng do bạn không có bằng đại học".

Thế là bà quyết định vừa theo học quản trị kinh doanh tại Đại học Missouri vừa làm công việc bán thời gian để kiếm tiền nuôi con. Năm 1992, bà tốt nghiệp. Ba năm sau, bà vào làm việc cho một công ty tư vấn. Một năm sau đó, bà bắt đầu học chương trình thạc sĩ. 

Sau khi tốt nghiệp vào năm 1998, đến tháng 9-1999 bà trở thành giám đốc điều hành cho một công ty trị giá 450 triệu USD. Năm 2014, bà giữ chức giám đốc Quỹ hưu trí và y tế ngành công nghiệp điện ảnh (MPI).

Hiện bà là diễn giả - người truyền cảm hứng, giáo sư kiêm nhiệm tại Đại học William Jessup ở California đồng thời làm chủ công ty tư vấn kinh doanh riêng. Cuối tháng 1-2023, cuốn sách Tiến lên phía trước mạnh mẽ hơn: Khuôn khổ năng động để xử lý thay đổi, mất mát và đau buồn của bà đã được xuất bản ở Mỹ. 

Bà nói: "Trải nghiệm cận kề cái chết khiến tôi có cảm giác cần phải khẩn trương hoàn thành mọi việc vì không biết phút còn sống kế tiếp liệu có phải là giây phút cuối cùng của đời người".

Cô Grace Frost

23h30 ngày 26-1-2023, cô gái Grace Frost (24 tuổi) từ bang New York lái xe trở về nhà tại Connecticut (Mỹ) sau buổi làm việc muộn. Trời mưa gió, chiếc Toyota 4Runner mất lái. Một cây tần bì đâm xuyên qua kính. Đầu gối chân phải của cô bị gãy. Bảng điều khiển và kính chắn gió lõm vào cách chân cô chỉ vài cm.

Cửa xe bị mắc kẹt. Cô không thể rút chân khỏi phanh vì xe sẽ chạy tới, bảng điều khiển và kính chắn gió sẽ ép sát hơn. Cô gọi 911 nhưng không ai trả lời. Trong lúc nửa tỉnh nửa mê cận kề cái chết, cô nhìn thấy những người cô yêu thương và kỷ niệm thời thơ ấu lướt qua tâm trí như bộ phim chiếu chậm.

Một lúc sau, cô lại tỉnh, thử gọi 911 lần nữa và thành công. Cô vẫn giữ cái chân bị gãy nhấn vào phanh suốt 20 phút đến khi xe cấp cứu đến.

Các bác sĩ đã xem tai nạn của cô là phép màu y học. Xe hơi gần như tan nát nhưng cô chỉ bị gãy chân và nhiều vết bầm. Cô phải ngồi xe lăn, 10 tháng sau chân mới bình phục.

Nhớ lại trải nghiệm cận kề cái chết, cô bộc bạch: "Tai nạn đã cho tôi thời gian và không gian để suy ngẫm về cuộc sống và mục tiêu tôi phải thực hiện. Bạn thực sự không bao giờ biết khi nào cuộc sống kết thúc, vì vậy đừng bao giờ coi bất kỳ điều gì là hiển nhiên".

*

Julia Nicholson



Các sách tiếng Anh của AJAHN BRAHM

 Các sách tiếng Anh của AJAHN BRAHM

Có thể tải các sách dưới đây về máy, dạng PDF:

1) Ajahn Brahm. Mindfulness, Bliss, and Beyond: A Meditator's Handbook (2006) [en55-eng.pdf]
https://tinyurl.com/4788ep5t

2) Ajahn Brahm. The Art of Disappearing (2011) [en56_eng.pdf]
https://tinyurl.com/4jz8cext  

3) Ajahn Brahm. Simply this Moment: A Collection of Talks on Buddhist Practice [en57.pdf]
https://tinyurl.com/57b2t6nb

4) Ajahn Brahm - All You Need Is Kindfulness (2014) [en100_eng.pdf]
https://tinyurl.com/yw4rw7uy

5) Ajahn Brahm. Kindfulness (2016) [en157.pdf]
https://tinyurl.com/bdzdys3z  

6) Ajahn Brahm. Karuna-Virus: 19 Original Stories about Ajahn Brahm (2020) [en186.pdf]
https://tinyurl.com/mpfa477s  

7) Ajahn Brahm. Soft as Cotton, Strong as Steel - Ajahn Brahm's 50th Bhikkhu Anniversary (2024). [en319.pdf] 
https://tinyurl.com/2p96tt2r  

8 ) Ajahn Brahm. Journey to the Heart of the Lotus, Unlearning “Buddhist” Meditation (2024). [en320.pdf]
https://tinyurl.com/3ne8u7hy  

9) Ajahn Brahm. The Word of the Buddha, An Outline of the Teachings of the Buddha in the Words of the Pāli Canon (2024). [en345.pdf]
https://tinyurl.com/2s35s52k  

10) Ajahn Brahm. Opening the door of your heart, Việt-Anh  [vn17.pdf] 
https://tinyurl.com/2s9438dt

11) Ajahn Brahm. The Basic Method of Meditation
https://tinyurl.com/54sm6snz  

12) Ajahn Brahm. Dependent Origination, Việt-Anh [vn115.pdf]
https://tinyurl.com/4hhcmfkw

13) Ajahn Brahm. Wisdom and wonders (2014). [en365.pdf]
https://tinyurl.com/436p72hm

* Trí tuệ và những điều kỳ diệu
https://tinyurl.com/26cjxep9 [vn31.pdf]

14) Ajahn Brahm. Opening up to Kindfulness (2021). [en366.pdf]
https://tinyurl.com/mt5c5efa

*-----*




Saturday, 14 June 2025

Sách Phật giáo căn bản, tiếng Anh

 SÁCH PHẬT GIÁO CĂN BẢN, TIẾNG ANH

Xin giới thiệu các sách sau đây, dạng PDF, để tải về máy:

1) Foundations of Buddhism. Rupert Gethin (1998). [en32.pdf]
https://tinyurl.com/mr3rpnz3

2) In the Buddha's Words - An Anthology of Discourses from the Pali Canon. Bhikkhu Bodhi (2005). [en44.pdf]
http://tinyurl.com/5n7exabw

3) The Historical Buddha. Schumann, H.W. (trans. M. Walshe) (1989). [en134.pdf]
https://tinyurl.com/4tju3anu

4) The Direct Path to Realization, Bhikkhu Analayo (2004) [en41.pdf] 
http://tinyurl.com/44u7jjpk

5) Theravada Buddhism: A Social History from Ancient Benares to Modern Colombo. Richard Gombrich (1988, 2006).  [en06.pdf]
https://tinyurl.com/3wfsvts2

6) Buddhist Teaching in India. Bronkhorst, Johannes (2009). [en362.pdf] 
https://tinyurl.com/4hvdj5a7

7) What the Buddha Taught. Rahula, Walpola (1958, 1974). [en116.pdf]
https://tinyurl.com/mrxaja8m

8) What the Buddha Thought. Gombrich, Richard (2009). [en361.pdf] 
https://tinyurl.com/54t2t3f4

*-----*



Thursday, 12 June 2025

Hai vị ân sư của tôi

Hòa thượng THÍCH TÂM GIÁC và Phra KHANTIPALO 

Tôi luôn luôn ghi nhớ và tri ân hai vị ân sư đã đưa tôi đến với Đạo Phật. Ngài Hòa thượng Thích Tâm Giác là vị thầy đầu tiên khi tôi theo học võ Nhu đạo năm 14 tuổi tại Võ đường Quang Trung, Đa Kao (Quận 1, Sài Gòn). Hòa thượng kể cho chúng tôi nghe các câu chuyện ngắn về cuộc đời Đức Phật, dạy niệm Phật và hành thiền niệm hơi thở trước mỗi buổi tập. Sau đó, tôi chính thức xin quy y Tam Bảo với Hòa thượng.

Mười lăm năm sau, khi tôi đến định cư tại Perth, Tây Úc, qua sự giới thiệu của một người bạn, tôi gặp Phra Khantipalo, một vị sư gốc Anh đã từng tu học ở Thái Lan. Sau nhiều buổi đi nghe Pháp và dự các khóa thiền do Sư hướng dẫn, tôi biết thêm về giáo lý và pháp thiền nguyên thủy, và từ đó, tu học trong truyền thống Theravāda (Phật giáo Nam truyền).

Do phước duyên, tôi có được thêm sự chỉ dạy của nhiều vị ân sư khác, nhưng đây là hai vị ân sư đã khai mở cho tôi thấy được con đường phải đi cho cuộc đời của mình. Tôi thành kính tri ân quý Ngài.

Sadhu sadhu sadhu! 🙏 

*




Sunday, 8 June 2025

Chánh ngữ khi sử dụng mạng xã hội

 CHÁNH NGỮ KHI SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI
Frederick M. Ranallo-Higgins
Tâm Tuệ dịch 
Giác Ngộ Online, 08/06/2024

*

Chỉ cần những cú click chuột, tiếng lạch cạch của bàn phím và tiếng chuông thông báo của mạng xã hội, nghệ thuật trò chuyện và giao tiếp đã bị thu gọn thành những bình luận nhanh chóng, liều lĩnh, dẫn dắt dư luận và phong phú như một bữa chè chén toàn đồ ăn nhanh và cũng không kém phần sôi nổi như một cuộc trộm xe hơi đầy kịch tính.

Bàn phím và điện thoại thông minh trên tay mỗi chúng ta có thể tạo thành một bãi chiến trường, nơi sự kiềm chế bị đẩy lên đỉnh điểm, và hầu hết trong các trường hợp, lực đẩy này lại luôn là kẻ chiến thắng. Tuy nhiên, trong thời đại kỹ thuật số và các thông tin lan tràn trên mạng, thì con đường Bát chánh đạo của Phật giáo, đặc biệt là chánh ngữ, là một liều thuốc giải cho những nỗi ưu tư và phiền não như thế.

Chánh ngữ, một trong những phẩm chất đạo đức của Phật giáo, không phải là sự kiểm duyệt sau khi đã thốt ra lời nói, mà là ý định, nhận thức và những gì gợn sóng trong tâm trí của chúng ta trước khi sắp sửa cất lời. Hãy tưởng tượng nếu trước khi đưa ra một câu bình luận nửa vời đối với một tiêu đề nào đó trên màn hình vừa thoáng lướt qua, chúng ta hãy thử dừng lại, hít thở thật sâu và cân nhắc sức nặng của lời nói cũng như những bình luận mà chúng ta sắp sửa phun ra một cách vô tâm từ chiếc điện thoại thông minh của mình.

Chánh ngữ cũng không phải là một cái rọ mõm ngày xưa mà là một ý niệm mang tính cách mạng, phải thoát khỏi sự cám dỗ để không trở thành một phần của tiếng ồn náo ngoài kia, kiềm chế bản thân để có thể nói không với việc thảy đồng xu duy nhất của mình vào một đài phun nước với đầy ắp những đồng xu khác.

Khi cuộn qua bất kỳ phần bình luận nào, bạn sẽ chứng kiến một bãi chiến trường hỗn độn do những cái lưỡi không được kiểm soát gây ra (có thể là những ngón tay trong trường hợp này). Mỗi bình luận thể hiện sự háo hức “mắc nói” của những người phía sau màn hình điện thoại hơn là sự tương tác có ý nghĩa đối với bài viết, và thường bày tỏ cho thiên hạ biết về bản thân họ hơn là những gì họ hiểu và nhận ra.

Những dòng bình luận ngắn gọn nhưng vô tận hầu hết chỉ là những cuộc nói chuyện phiếm vô ích. Hành động bình luận đó tự nó đã bị chìm nghỉm trong một căn phòng ồn ào, nơi mà việc lắng nghe và thấu hiểu bị chính sự vội vã chà đạp đến mức thương vong. Hãy để mạng xã hội thực sự hoạt động bình thường như một nơi kết nối chúng ta với gia đình và bạn bè đang sống rải rác đâu đó trong một thế giới bận rộn, ồn ào và khắc nghiệt như hiện nay.

Như những gì đã nói ở trên, sự thúc đẩy phải nói lên quan điểm cá nhân của mình về những chuyện viển vông, ngay cả khi nó chỉ mới hình thành được nửa vời, cũng đã trái với truyền thống thiền tập của Phật giáo, bởi mọi hành động và lời nói đều xuất phát từ suy nghĩ. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta xem mỗi bình luận là một viên sỏi thả vào nước, những gợn sóng của nó sẽ lan ra và rộng khắp. Điều tương tự cũng có thể xảy ra với một bài đăng trên mạng xã hội, nó thực sự có thể tạo ra một hố sâu tâm lý bên trong mỗi người.

Giới luật về khẩu nghiệp được xây dựng dựa trên nền tảng của chánh ngữ không chỉ đơn thuần là một phương tiện để kiềm thúc tâm thức loạn động mà còn là một cách để giải thoát bản thân ra khỏi những hành nghiệp xấu ác một cách căn bản nhất. Thông qua sự kết nối với phẩm chất đạo đức này, chúng ta học cách chọn lọc những ngôn từ có tính khai mở, khuyến khích, và chân thành nhất.

Lời nói của chúng ta thậm chí có thể khơi dậy cảm xúc trong tâm người khác, nhưng nói chung, tất cả đều phải xuất phát từ nhận thức và ý định rõ ràng. Đây không phải là kiểm soát, mà là sự giải phóng - một phương pháp dẫn đến sự tương tác tỉnh thức có thể biến căn phòng bình luận lố bịch với những phản ứng có điều kiện theo kiểu Páp-lốp trở thành một không gian dành cho một cuộc đối thoại nội tâm nhằm đưa ra những giải pháp cho chính bản thân mình.

Đối với những bộ óc sẵn sàng dũng cảm bơi ngược lại những thác ghềnh dữ dội của sự vội vã và xem các loại bình luận là vô ích, thì đây là một đề xuất cấp tiến: hãy đọc các bài báo phản ánh đầy đủ các sự kiện. Sau đó, nếu được, bạn hãy để lại nhận xét mang tính đóng góp trên tinh thần tôn trọng việc trao đổi ý tưởng. Đây là chánh ngữ trong thời đại kỹ thuật số: kiềm chế là nổi loạn và chú tâm tỉnh giác là thái độ mang tính cách mạng.

Phần bình luận là mô hình thu nhỏ của thế giới. Nó có thể là vùng đất hoang vu nơi sản sinh ra những lời nói vô giá trị, nhưng cũng có thể là nơi ẩn náu của những trao đổi sâu sắc. Bằng cách áp dụng chánh ngữ, chúng ta có thể lựa chọn một trong hai điều sau. Chúng ta có thể chọn tôn trọng sự im lặng cũng như việc lên tiếng, coi trọng sự góp ý xây dựng hơn là phản ứng và cố chấp vào sự hiểu biết của bản thân, xem đó là trung tâm của sự giao tiếp. Hoặc chúng ta thả trôi tư tưởng của mình vào vùng đất hoang vu của ngạ quỷ lang thang trong trạng thái vô minh tự mình chuốc lấy. Ở đây, sự lựa chọn là chìa khóa quan trọng!

Vì vậy, lần tiếp theo khi sắp sửa bình luận một điều gì đó, hãy tạm dừng lại, suy nghĩ thật sâu rồi mới lên tiếng. Hãy sử dụng lời nói của chúng ta dưới sự soi sáng của chánh niệm và trí tuệ. Và hãy thực tập lời nói đúng đắn. Mỗi khoảnh khắc, mỗi hành động, mỗi suy nghĩ đều là những câu kinh tuyệt vời mở ra trước mắt ta và dạy cho chúng ta rất nhiều điều nếu biết quan sát và suy xét. Vậy nên hãy cẩn thận!

* Nguyên tác: Frederick M. Ranallo-Higgins. “Read Me! Right speech meets the comments section”. Tricycle, November 10, 2023.

*-----*



Monday, 26 May 2025

Thần chú "Tóc lông móng răng da"

 Thần chú “TÓC LÔNG MÓNG RĂNG DA”

Nhiều năm trước, khi đến tham dự một buổi lễ xuất gia Sa-di cho các vị giới tử, tôi nghe ngài Ajahn Brahm đọc câu "Kesā Lomā Nakhā Dantā Taco" (Tóc Lông Móng Răng Da), đọc xuôi rồi đọc ngược cho các vị tân sa-di đọc theo, rồi ngài nói các vị ấy phải học thuộc nằm lòng câu này. Mỗi khi tiếp xúc với người khác phái là phải niệm câu ấy để giúp kiểm soát lòng ái dục. Đó là những gì thật sự cấu tạo nên dung mạo bên ngoài của một người mà mình thấy được. Nếu nghĩ sâu xa hơn nữa, năm thứ đó chỉ là những tế bào chết, lộ ra bên ngoài cơ thể rồi từ từ bị đào thải. Không có gì là hấp dẫn, lôi cuốn.

Tôi thấy ý tưởng đó rất hay, thử đem ra áp dụng cho mình. Lúc ấy, tôi còn đi làm việc ở khu trung tâm thành phố. Mỗi ngày lái xe đến trạm xe điện gần nhà. Rồi đón xe điện vào thành phố. Trong xe điện, tôi bắt đầu quán sát những người chung quanh mình, thầm niệm trong tâm câu chú “Tóc Lông Móng Răng Da”. Tôi thấy câu tiếng Việt nhớ nhanh, dễ hiểu, dễ thấm hơn là câu Pāli nguyên thủy. Trong xe có đủ mọi hạng người, từ già đến trẻ, nam lẫn nữ, Âu lẫn Á, ăn mặc trang sức đủ kiểu, từ nghiêm trang đến hở hang khêu gợi. Mình chỉ lặng lẽ quán sát và ghi nhận năm phần tử đó.

Sau một thời gian thử nghiệm, tôi thấy thật sự có ích lợi. Nhìn mọi người một cách bình đẳng, không còn có tâm phân biệt, không còn bị xao động bởi vẻ bên ngoài của người khác. Tất cả đều như nhau, cấu tạo bởi năm phần tử của các tế bào chết. Còn những chuyện mơ mộng rắc rối khác đều là do tác động của tưởng uẩn.

Bình Anson, Tây Úc
Tháng 5, 2019 

*




Friday, 16 May 2025

Lời khuyên cho những ai trên 65 tuổi

LỚN TUỔI VÀ ‘GIÀ YẾU’
Bác sĩ Nguyễn Trần Hoàng

HỎI:
Tôi mới vừa nhận được “medicare” [*]. Vậy là đã bắt đầu lên “lão.” Tôi thấy có những người lớn tuổi mà vẫn rất “trẻ trung,” nhanh nhẹn, sáng suốt, nhưng cũng nhiều người bắt đầu lụm cụm, ca cẩm, và nhìn thấy già đi, yếu đi rất nhanh. Xin cho biết có cách nào để lớn tuổi mà vẫn không “già,” sống lâu, thọ, yêu đời và thưởng thức cuộc sống?

[*] “Medicare” là chương trình bảo hiểm y tế do chính phủ Mỹ tài trợ dành cho những người từ 65 tuổi trở lên.

ĐÁP:
Đạt đến tuổi 65 và hơn thế là một cột mốc tuyệt vời trong cuộc đời. Người ta thường gọi đây là “những năm tháng vàng son” và quả thật là có lý do – ta có cơ hội tận hưởng cuộc sống với nhiều sự khôn ngoan và tự do hơn bao giờ hết.

Nhưng sống lâu dài, hạnh phúc và bình an không phải là chuyện tự nhiên mà có. Ta cần một chút hành động thực tế và thái độ tích cực. Tin vui là không bao giờ là quá muộn để thay đổi những điều có thể cải thiện sức khỏe và niềm vui trong cuộc sống. Sau đây, chúng ta sẽ lướt qua những lĩnh vực chính như sức khỏe thể chất, tinh thần, đời sống xã hội, lời khuyên về tài chính, và sự hài lòng chung trong cuộc sống.

I. GIỮ SỨC KHỎE THỂ CHẤT

Việc chăm sóc cơ thể là vô cùng quan trọng sau tuổi 65. Khi ta cảm thấy khỏe mạnh, ta dễ dàng giữ được niềm vui và làm những việc mình yêu thích. Đây là một số cách đơn giản để giữ cơ thể luôn khỏe mạnh:

1.1) Tiếp tục vận động: Việc duy trì sự vận động có thể coi một viên thuốc thần kỳ cho sức khỏe. Tập thể dục có thể giảm nguy cơ mắc các bệnh mạn tính và cải thiện tâm trạng, sức mạnh, và sự cân bằng của cơ thể. Ta không cần phải chạy marathon hay nâng tạ nặng – chỉ cần đi bộ mỗi ngày hoặc làm một số bài tập nhẹ nhàng cũng có ích. Các chuyên gia khuyên ta nên tập thể dục vừa phải khoảng hai tiếng rưỡi mỗi tuần (tương đương với 30 phút mỗi ngày, 5 ngày trong tuần). Ví dụ, ta có thể đi bộ nhanh, làm vườn, hoặc tham gia lớp thể dục cho người cao tuổi. Nếu 30 phút một lần là khó, ta có thể chia thành các buổi đi bộ mười phút vài lần trong ngày. Quan trọng là vẫn duy trì sự vận động sao cho phù hợp với khả năng của mình – kiên trì quan trọng hơn cường độ.

1.2) Ăn uống lành mạnh:  Có câu nói (rất đúng, là) “mình là những gì mình ăn”:  Ăn uống lành mạnh giúp cơ thể ta khỏe mạnh, kiểm soát cân nặng, và thậm chí còn giúp cải thiện sức khỏe trí não. Hãy tập trung vào các thực phẩm bổ dưỡng: nhiều trái cây và rau củ, ngũ cốc nguyên hạt, protein ít mỡ (như cá hay gà), đậu và các loại hạt. Một chuyên gia dinh dưỡng tại Harvard cho biết ông chỉ giữ trong tủ lạnh của mình trái cây và rau tươi, cá và gà, ngũ cốc nguyên hạt, hạt và hạt giống, và chỉ thỉnh thoảng mới ăn thịt đỏ hay đồ ngọt. Hãy tránh ăn quá nhiều thực phẩm chiên hoặc chế biến sẵn – ví dụ, ta có thể chọn các món nướng hay hấp thay vì chiên, và uống nước thay vì nước ngọt có đường.

1.3) Giữ cơ thể luôn đủ nước: Đừng quên uống nước và các chất lỏng lành mạnh trong suốt cả ngày. Khi lớn tuổi, ta cảm thấy ít khát hơn, nhưng cơ thể ta vẫn cần nhiều nước. Uống đủ nước giúp ta luôn tràn đầy năng lượng và ngăn ngừa mất nước (có thể khiến ta mệt mỏi hoặc bối rối). Nếu không thích nước lọc, ta có thể thử trà thảo mộc hoặc cho một lát chanh hay dưa leo vào nước cho thêm chút hương vị.

1.4) Ngủ đủ giấc: Giấc ngủ ngon như việc sạc lại pin cho cơ thể. Nó giúp cải thiện trí nhớ, tâm trạng, và cho cơ thể thời gian phục hồi. Người trưởng thành nên ngủ từ 7 đến 9 tiếng mỗi đêm để có sức khỏe tốt nhất. Nếu gặp khó khăn khi ngủ, ta có thể thử một số cách như tạo thói quen thư giãn trước khi đi ngủ, giữ phòng ngủ yên tĩnh và tối, tránh ăn nhiều hay sử dụng các thiết bị điện tử trước khi đi ngủ.

1.5) Đi khám bác sĩ (phòng bệnh là chính): Hãy duy trì thói quen khám sức khỏe định kỳ. Nếu phát hiện sớm, ta sẽ dễ dàng điều trị hoặc quản lý bất kỳ vấn đề sức khỏe nào. Đừng bỏ qua các cuộc hẹn bác sĩ định kỳ, và làm đầy đủ các xét nghiệm cần thiết (như đo huyết áp, xét nghiệm cholesterol, sàng lọc ung thư như nội soi đại tràng hoặc chụp nhũ ảnh-mammogram, và kiểm tra mắt, tai). Bác sĩ chỉ giúp ta duy trì sức khỏe. Ta mới chính là người chịu trách nhiệm về sức khỏe của mình.

1.6) Uống thuốc đúng cách: Nếu cần uống thuốc, hãy uống đúng theo chỉ dẫn của bác sĩ. Việc sử dụng hộp thuốc chia liều hoặc đặt nhắc nhở có thể giúp ta không quên uống thuốc. Cũng cần chú ý với các loại thuốc không cần kê đơn và thực phẩm bổ sung – hãy luôn tham khảo bác sĩ hoặc dược sĩ để đảm bảo chúng an toàn với mình.

1.7) Không hút thuốc: Đây là điều quan trọng – nếu đang hút thuốc, hãy bỏ ngay khi có thể. Hút thuốc gây hại cho hầu hết các cơ quan trong cơ thể, và việc bỏ thuốc ở bất kỳ độ tuổi nào cũng sẽ giúp ta cải thiện sức khỏe.

1.8) An toàn trước tiên – Ngăn ngừa ngã và chấn thương: Khi cơ thể ta già đi, sự thăng bằng và thị lực có thể kém đi, khiến té ngã trở thành một mối quan tâm lớn. Một cú ngã có thể khiến ta phải tốn nhiều thời gian để hồi phục, vì vậy cần phòng ngừa nó. Hãy làm cho ngôi nhà của ta an toàn hơn: dọn dẹp các vật dụng vướng víu, cải thiện ánh sáng trong các hành lang và cầu thang, và lắp tay nắm ở phòng tắm nếu cần.

Tóm lại, chăm sóc sức khỏe thể chất là một quá trình bao gồm việc duy trì vận động, ăn uống và uống nước hợp lý, ngủ đủ giấc, và sử dụng các dịch vụ y tế một cách thông minh. Cơ thể sẽ cảm ơn ta, và ta sẽ có thêm năng lượng để tận hưởng cuộc sống.

II. GIỮ TINH THẦN SÁNG SUỐT VÀ TÂM TRẠNG TƯƠI SÁNG (SỨC KHỎE TÂM THẦN)

Tương tự như việc chăm sóc cơ thể, việc chăm sóc sức khỏe tinh thần và cảm xúc rất quan trọng để có một cuộc sống hạnh phúc và bình an. Tuổi già đi kèm với những thay đổi, nhưng điều đó không có nghĩa là ta sẽ phải chìm trong buồn bã hay mơ hồ. Thực tế, nhiều người lại tìm thấy sự tự do cảm xúc và niềm vui lớn hơn trong những năm tháng cuối đời. Dưới đây là cách để giữ cho trí óc minh mẫn và tâm trạng vui vẻ.

2.1) Vận động trí não: Não cũng cần được rèn luyện – nhưng theo một cách khác. Việc giữ cho trí óc luôn hoạt động giúp ngăn ngừa mất trí nhớ và giúp ta tỉnh táo hơn.

2.2) Quản lý căng thẳng và giữ thái độ tích cực: Căng thẳng là điều không thể tránh khỏi ở mọi độ tuổi – các vấn đề sức khỏe, lo lắng về những người thân yêu, hay thậm chí sự nhàm chán cũng có thể làm ta buồn. Những cách ta đối mặt với căng thẳng và duy trì thái độ tích cực là rất quan trọng.  Hãy tập trung vào những gì có thể lo được (chuyện của mình, và chuyện hiện tại, không phải là quá khứ, vị lai).  Không nên, không cần, và tránh lo những chuyện mình không lo được. Càng lo (chuyện ngoài tầm tay của mình - chuyện của “bề trên,” thượng đế)  thì càng làm phiền mình (và những người “được” mình lo)

2.3) Đánh bại cảm giác “buồn”: Trầm cảm không phải là một phần bình thường của quá trình lão hóa. Nếu ta cảm thấy buồn bã, tuyệt vọng, hoặc không còn quan tâm đến những điều mình từng yêu thích trong hơn vài tuần, hãy tìm sự giúp đỡ.

2.4) Ngủ và sức khỏe tinh thần: Giấc ngủ không chỉ tốt cho sức khỏe thể chất mà còn giúp tinh thần ta khỏe mạnh. Khi ta ngủ đủ giấc, ta sẽ nghĩ thông suốt hơn và cảm thấy cân bằng hơn về mặt cảm xúc.

2.5) Đừng Lo Lắng Về Những Điều Nhỏ Nhặt (nhắc lại, vì rất quan trọng): Khi ta già đi, nhiều người khám phá ra một bí quyết tuyệt vời để hạnh phúc: đừng lo lắng quá nhiều! Có thể khi còn trẻ (vì chưa đủ khôn ngoan) ta lo lắng về sự nghiệp, giữ gìn sự cạnh tranh với người xung quanh, hay những chuyện vặt vãnh khác. Giờ đây, ta có thể buông bỏ những điều đó. Một nghiên cứu của Harvard cho thấy người lớn tuổi có xu hướng tập trung vào những điều thực sự quan trọng và “không bận tâm quá nhiều về những điều nhỏ nhặt” như khi còn trẻ. Hãy ghi nhớ điều này. Khi có chuyện gì phiền phức hay nhỏ nhặt xảy ra, hãy tự hỏi mình: “Điều này có quan trọng một năm nữa không?” Có thể nó sẽ không quan trọng nữa, vậy thì tại sao phải lo lắng ngay bây giờ? Hãy dành năng lượng cho những điều quan trọng – như sức khỏe, những người thân yêu, và niềm vui cá nhân của mình. Việc phát triển thái độ dễ chịu này sẽ giúp giảm bớt căng thẳng và làm cho mỗi ngày trở nên bình yên hơn. Nó giống như việc buông bỏ gánh nặng khi ta quyết định không mang theo những lo âu không cần thiết.

2.6) Giữ tinh thần cảnh giác và tự tạo niềm vui: Không có gì là hoàn hảo trong cuộc sống – ai cũng có những cơn đau nhức và những ngày không vui. Nhưng việc tập trung vào những điều tốt đẹp sẽ giúp ta cảm thấy hạnh phúc hơn. Hãy dành chút thời gian mỗi ngày để suy ngẫm hoặc thậm chí ghi lại vài điều mà mình biết ơn. Nó có thể đơn giản như “một tách cà phê ngon vào sáng nay,” “cuộc gọi điện thoại với con trai,” hay “ánh nắng mặt trời qua cửa sổ.” Bằng cách nhận ra những khoảnh khắc tích cực này, ta huấn luyện tâm trí để nhìn nhận cuộc sống với cái nhìn lạc quan hơn.

2.7) Lạc quan là bí quyết: Suy nghĩ tích cực có sức mạnh to lớn. Các nghiên cứu cho thấy những người lạc quan thường sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn (có thể vì họ đối mặt với căng thẳng tốt hơn và chăm sóc bản thân tốt hơn). Đôi khi, ta có thể trở nên bi quan nếu đã trải qua nhiều mất mát hoặc vấn đề sức khỏe, nhưng hãy thử nuôi dưỡng hy vọng và sự tích cực. Khi gặp phải thử thách, hãy nhắc nhở bản thân: “Điều này rồi sẽ qua,” hoặc “Ta đã vượt qua khó khăn trước đây, ta sẽ làm được lần nữa.” Hãy bao quanh mình với những ảnh hưởng tích cực – có thể là âm nhạc vui vẻ, sách truyền cảm hứng, hoặc chỉ đơn giản là bạn bè vui tính.

2.8) Chấp nhận và thích nghi: Một phần của việc lão hóa bình an là chấp nhận những gì ta không thể thay đổi và thích nghi với thực tế mới. Có thể giờ ta không thể chạy nhanh như trước, nhưng ta vẫn có thể tận hưởng những buổi đi bộ chậm rãi hay bơi lội. Nếu việc lái xe vào ban đêm trở nên khó khăn, ta có thể thích nghi bằng cách lái xe ban ngày hoặc nhờ người khác chở đi. Hãy tập trung vào những gì ta có thể làm (thay vì những gì ta không thể làm), để duy trì cảm giác kiểm soát và sự tích cực.

2.9) Trân trọng mối quan hệ: Cuối cùng, một trong những nguồn vui lớn nhất chính là những người mà ta yêu thương. Dành thời gian chất lượng với người bạn đời nếu có – làm những buổi hẹn hò nhỏ hay đơn giản là xem một chương trình yêu thích cùng nhau. Hãy trân trọng những mối quan hệ này, vì chúng là di sản và niềm vui hàng ngày của ta.

TÓM TẮT

Cuộc sống lâu dài, hạnh phúc, và bình an sau tuổi 65 hoàn toàn là điều có thể đạt được. Công thức rất đơn giản: chăm sóc cơ thể, chăm sóc tâm trí, duy trì kết nối xã hội, thông minh trong việc quản lý tài chính, và làm đầy cuộc sống với mục đích và niềm vui. Qua tất cả các yếu tố này, ta nhận ra rằng chính mình là người kiểm soát sức khỏe và hạnh phúc của mình. Mỗi quyết định nhỏ mà ta làm hàng ngày, từ việc đi bộ thay vì ngồi một chỗ, gọi điện cho bạn thay vì xem TV một mình, ăn một quả táo ngon thay vì miếng bánh ngọt thứ hai, sẽ tạo ra một lối sống lành mạnh và giúp ta sống lâu hơn, vui vẻ hơn.

Hãy luôn đối xử tốt với chính mình. Không ai là hoàn hảo, và ta không cần phải làm theo từng lời khuyên một cách hoàn hảo mỗi ngày. Có thể ta sẽ có những ngày lười biếng hay thỉnh thoảng tự thưởng cho mình một món ăn ngon – sự cân bằng là điều quan trọng. Mục tiêu không phải là trở thành một người hoàn hảo về sức khỏe, mà là tạo cho mình cơ hội tốt nhất để cảm thấy khỏe mạnh và giảm thiểu những rủi ro, để ta có thể làm những điều mình yêu thích lâu dài nhất có thể. Và nếu có việc khó khăn xảy ra (bệnh tật, mất mát,…), hãy nhớ rằng ta có thể vượt qua với sự hỗ trợ từ gia đình và các chuyên gia. Ta đã chứng minh sức mạnh của mình chỉ bằng việc vượt qua đến được đây. Vậy thì, hãy sống với những năm tháng vàng son đầy nhiệt huyết! Hãy giữ tinh thần vui vẻ, đừng tin vào những định kiến tiêu cực về tuổi tác (ta có thể 70 tuổi mà tâm hồn vẫn 17), và tiếp tục học hỏi và phát triển.

Cuộc sống sau tuổi 65 có thể thật sự là vàng son – đầy sức khỏe, hạnh phúc, và bình an – khi ta chủ động sống tốt. Như một người khôn ngoan đã nói: “Không ai tránh khỏi lão hóa, nhưng chúng ta có thể chọn cách lão hóa.” Bằng việc chú ý đến sức khỏe thể chất, tâm thần, kết nối xã hội, tài chính, và niềm vui cá nhân, ta đang chọn cách lão hóa một cách duyên dáng và sống động.

Chúc quý độc giả thêm nhiều năm tháng tràn ngập tiếng cười, tình yêu và sự viên mãn. Tận hưởng từng khoảnh khắc – ta xứng đáng được như vậy!

* Nguồn: Người Việt News, 15/05/2025 
https://www.nguoi-viet.com/doi-song/lon-tuoi-va-gia-yeu/

 *-----*




Tuesday, 29 April 2025

50 năm kết thúc chiến tranh: Hiểu về tính đa dạng của lịch sử và của nhau - Alex-Thái Đình Võ

 50 năm kết thúc chiến tranh:
Hiểu về tính đa dạng của lịch sử và của nhau

Alex-Thái Đình Võ
BBC News Tiếng Việt, 28/04/2025

Giới thiệu: Alex-Thái Đình Võ là nhà sử học chuyên về lịch sử Việt Nam hiện đại và người Việt hải ngoại. Hiện ông là phó giáo sư nghiên cứu tại Trung tâm và Lưu trữ Việt Nam, Đại học Texas Tech, nơi ông phụ trách các dự án về lịch sử Chiến tranh Việt Nam và cộng đồng người Việt sau 1975. Ông là tác giả và đồng biên tập những công trình nghiên cứu về chiến tranh, di cư, ký ức và quá trình hình thành cộng đồng người Việt tại Mỹ.

*

Năm thứ 50 lại lặp lại như năm thứ 49, 48, và như bao năm trước — có khác chăng là trên một quy mô rộng lớn hơn, bất kể thuộc về phe nào trong cuộc chiến huynh đệ năm xưa. Và sự lặp lại ấy vẫn sẽ tiếp diễn trong những năm tới, khi chúng ta ngày càng chìm sâu hơn vào vũng lầy lịch sử do chính mình tạo ra — một thứ lịch sử được tạo dựng bằng những khuôn mẫu trắng- đen cứng nhắc, bị nhào nặn bởi những ý thức hệ và nỗi bất an đầy nghi kỵ, thiếu vắng tính trung thực và sự đa chiều cần thiết để có thể hiểu một cách trọn vẹn các sắc thái và tính phức tạp vô tận của quá khứ.

Năm mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, bất kể có bao nhiêu lễ hội chiến thắng hay bao nhiêu nghi lễ tưởng niệm, nếu chúng ta không thể hòa giải được với chính lịch sử của mình, thì chúng ta cũng khó lòng hòa giải được với nhau.

Vậy thì, sau nửa thế kỷ, điều quan trọng nhất chúng ta cần tự hỏi không chỉ là chiến tranh đã kết thúc ra sao, mà còn là: chúng ta đã, đang và sẽ hiểu và tiếp nhận lịch sử Việt Nam, lịch sử Chiến tranh Việt Nam, và chính thân phận con người Việt Nam như thế nào?

Nhìn từ trong: một lịch sử bị lược giản

Từ lâu, lịch sử đã được định hình như một đặc quyền xa xỉ — một câu chuyện được soạn dựng bởi những kẻ chiến thắng và những người nắm quyền lực. Tại Việt Nam, kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi đất nước được thống nhất về mặt địa lý và chính trị, lịch sử cũng bị định hình lại dưới một trật tự duy nhất — một trật tự chịu sự kiểm soát của đảng và nhà nước cộng sản. Kể từ đó, lịch sử chính thống đã nghiêng hẳn về việc phản ánh và bảo vệ quan điểm, lợi ích và tính chính danh của chính thể ấy, hơn là thể hiện tính đa diện, đa chiều vốn có của lịch sử dân tộc. Giới viết sử — từ các nhà nghiên cứu, biên khảo hàng đầu cho đến những người làm sử ở cấp cơ sở — từ lâu đã bị kìm hãm trong khuôn khổ định sẵn, buộc họ phải tự giới hạn mình, không thể lên tiếng một cách trung thực và đầy đủ về những điều cần được nói.

Kết quả là, toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam đã bị giản lược một cách cực đoan — đóng khung trong một hệ thống kể chuyện mang tính huyền thoại về những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm. Trong hệ hình ấy, cuộc chiến tranh Việt Nam đã bị tái định nghĩa hoàn toàn thành một cuộc kháng chiến chống ngoại xâm — một cuộc "chống Mỹ cứu nước" — dù rằng phần lớn những người trực tiếp tham gia hay bị ảnh hưởng, từ giới lãnh đạo đến binh lính và thường dân, đều là người Việt và mang cùng một dòng máu.

Chính lối kể đó khiến lịch sử bị sử dụng như một thứ công cụ chính trị để cai trị, thay vì là một không gian đối thoại trung thực với quá khứ và con người. Nó làm lu mờ những sắc thái, những mâu thuẫn nội tại, và cả những khát vọng bất đồng trong lòng một dân tộc từng và vẫn tiếp tục bị chia cắt.

Vì thế, những sự kiện và hiện thực lịch sử — từ triều đại Gia Long, cuộc Cải cách ruộng đất, đến phong trào Nhân văn Giai phẩm — đều bị bóp méo hoặc xuyên tạc nhằm phục vụ một hệ tư tưởng đơn tuyến. Những bậc tiền nhân có công với đất nước như Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nhất Linh bị làm lu mờ, gạt khỏi chính sử, nhường chỗ cho những nhân vật được tô vẽ hoặc huyền thoại hóa như Võ Thị Sáu hay Lê Văn Tám — những biểu tượng cách mạng được kỳ công nhào nặn nhiều hơn là được ghi chép trung thực.

Chính thể Việt Nam Cộng hòa cùng với hàng triệu con người từng là công dân dưới thể chế đó bị gán cho cái tên "ngụy quân, ngụy quyền" — như một tội danh chính trị phản dân tộc, phản tổ quốc. Lá cờ vàng ba sọc đỏ — từng là biểu tượng của một quốc gia, một nền cộng hòa, một giai đoạn lịch sử — bị tuyên truyền như một hình ảnh cần phải ruồng bỏ, xóa sạch, bất chấp chiều sâu và sự phức tạp của nó trong ký ức tập thể.

Các sản phẩm văn hóa — từ âm nhạc đến văn chương miền Nam — bị định danh là "đồi trụy," "phản cách mạng," và bị cấm đoán, thiêu hủy. Những câu chuyện về tù cải tạo, về các cuộc vượt biên, vượt biển của hàng triệu người, và cả lịch sử của cộng đồng người Việt hải ngoại — tất cả bị làm lu mờ, tái định nghĩa, hoặc bị đẩy ra bên lề dòng chính sử Việt Nam.

Đó không chỉ là sự lãng quên có chủ đích — mà là một nỗ lực có hệ thống nhằm tái cấu trúc ký ức, áp đặt một bản tường thuật duy nhất và xóa nhòa mọi vết tích của một lịch sử phức hợp và đa chiều. Và chính sự giản lược này khiến chúng ta, nhiều thập niên sau khi chiến tranh kết thúc, vẫn tiếp tục lặp lại những khuôn mẫu cũ — ca tụng, kỳ thị, hoặc im lặng — thay vì đối diện với sự phức tạp và nhân tính trong lịch sử của chính mình.

Nhìn từ ngoài: lịch sử bị giản lược, ký ức bị thao túng 

Nếu lịch sử ở Việt Nam là lịch sử của người chiến thắng, thì ở phương Tây — đặc biệt là Hoa Kỳ — lịch sử lại là sản phẩm của những người nắm giữ quyền lực, được viết bằng Anh ngữ để phục vụ cho những nhu cầu và khủng hoảng nội tại của nước Mỹ hơn là để hiểu cho đúng về Việt Nam. Giới học giả Hoa Kỳ bắt đầu quan tâm đến Việt Nam từ thập niên 1950 và nhiều hơn nữa khi Mỹ can thiệp trực tiếp vào chiến tranh vào giữa thập niên 1960. Trong bối cảnh một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, cộng hưởng với Chiến tranh Lạnh và sự hiện diện ngày càng sâu rộng của người Mỹ tại Việt Nam, những công trình nghiên cứu ban đầu chủ yếu nhằm lý giải Việt Nam cho người Mỹ — một công chúng vốn ít biết đến đất nước này và thường chẳng hình dung nổi Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ.

Khi chiến tranh leo thang và phong trào phản chiến bùng nổ, thế hệ học giả Mỹ đầu tiên nghiên cứu về Việt Nam, tiêu biểu như George Kahin, bắt đầu thể hiện rõ thiên hướng chính trị và cảm xúc cá nhân, phần nhiều chịu ảnh hưởng từ thực tại xã hội ở Hoa Kỳ hơn là thực tại tại Việt Nam. Họ tập trung nghiên cứu phong trào cộng sản Việt Nam như là lực lượng duy nhất mang sức mạnh, tính chính danh và khả năng thắng cuộc, từ đó vô tình (hoặc cố ý) loại bỏ các chủ thể khác khỏi dòng chính sử.

Dù với mong muốn tiếp cận cuộc chiến Việt Nam từ góc nhìn "người Việt," cách tiếp cận này lại mang tính chọn lọc rất cao, dẫn đến sự giản lược và lệch lạc trong việc nhìn nhận bản chất đa chiều, phức tạp và đầy mâu thuẫn của cuộc chiến. David Marr là ví dụ tiêu biểu: thay vì bàn trực diện về vai trò của các nhà dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản, ông lại hòa trộn — hay làm lu mờ — chủ nghĩa dân tộc trong một tiến trình mang tính tất định luận lịch sử, nơi mà các trí thức–cán bộ Marxist–Leninist trở thành trung tâm của câu chuyện cách mạng.

Với định hướng như vậy, phần lớn các học giả thời kỳ đó — vốn không biết tiếng Việt — chủ yếu dựa vào tư liệu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và đặc biệt là các ấn phẩm tuyên truyền của chính quyền Hà Nội, điển hình là các xuất bản của Nhà xuất bản Ngoại văn (The Foreign Languages Publishing House). Đây là cơ quan xuất bản do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập và điều hành, với mục đích đưa tiếng nói của chính phủ cộng sản ra quốc tế, phản bác diễn ngôn của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, và xây dựng hình ảnh miền Bắc như một chính thể chính danh và có đạo lý. Những tác phẩm như Ho Chi Minh: Selected Writings (1920–1969) hay Trường Chinh: Selected Writings là những ví dụ tiêu biểu được biên soạn cẩn thận để phục vụ giới trí thức cánh tả và phong trào phản chiến quốc tế.

Sau chiến tranh, giới học giả Hoa Kỳ tiếp tục đặt trọng tâm nghiên cứu vào câu hỏi mang tính nội tâm: "Tại sao Hoa Kỳ thất bại ở Việt Nam?" Câu trả lời thường rơi vào hai hướng: hoặc là vì các quyết định sai lầm của chính quyền Mỹ, hoặc vì cộng sản Việt Nam quá kiên cường và giỏi tổ chức. Để trả lời, họ lại tiếp tục quay về với các tài liệu tiếng Anh, tiếng Pháp, hoặc tiếp cận trực tiếp kho lưu trữ nhà nước ở Hà Nội như Thư viện Quốc gia và Trung tâm Lưu trữ III — nơi chủ yếu chứa các văn kiện chính thống của đảng và nhà nước cộng sản.

Dù khai thác được nhiều dữ liệu, phần lớn các công trình này vẫn dựa trên một giả định có tính "minh định" rằng chiến thắng của cộng sản là tất yếu, là sự tiếp nối của truyền thống chống ngoại xâm hàng ngàn năm. Họ quên rằng, ngoài những người Việt thắng cuộc, còn có hàng triệu người Việt thua cuộc — và không vì thua cuộc mà họ thiếu chính danh, ý chí hay lòng yêu nước.

Chính sự thiên lệch đó đã khiến lịch sử chiến tranh Việt Nam, dù ở Hà Nội hay Washington, trở thành một câu chuyện trắng–đen, chính–tà. Những nhân vật được khắc họa đậm nét vẫn là Kennedy, Johnson, Nixon, Kissinger ở phía Mỹ; Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ở phía cộng sản. Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, nếu có nhắc đến, thì cũng chỉ như những nhân vật phụ bị biếm họa, mang dáng dấp bù nhìn hoặc thất bại.

Trong nỗ lực lý giải sự thất bại của Hoa Kỳ, giới học giả Mỹ vô tình (hoặc hữu ý) đã áp đặt lên đồng minh của họ — Việt Nam Cộng hòa — những nhãn mô tả như "puppet" (bù nhìn), "corrupt" (tham nhũng), "illegitimate" (không chính danh), từ đó xây dựng một lập luận rằng: lẽ ra Mỹ không nên can dự vào Việt Nam, hoặc nếu có, thì đã chọn nhầm phía.

Với nhãn quan đó, trọng tâm nghiên cứu được đặt vào các quyết sách chính trị và quân sự. Vì vậy, thảm sát Mỹ Lai được phân tích cặn kẽ trong sách sử và truyền thông dòng chính, nhưng thảm sát ở Huế thì bị bỏ quên. Những phong trào phản chiến và chống đàn áp ở miền Nam được phơi bày, nhưng đàn áp ở miền Bắc thì bị lờ đi. Từ đó, tất cả những khía cạnh không phù hợp với một tường thuật nhị nguyên đều bị xem là thứ yếu và bị gạt ra bên lề.

Quan điểm lịch sử ấy dần thấm sàn các ngành nghiên cứu khác, từ nhân học đến khoa học chính trị, và cả nghiên cứu Người Mỹ gốc Á. Lịch sử Việt Nam trở thành công cụ để hiểu về Hoa Kỳ — để phản tư, để phê phán chính sách, để chữa lành vết thương của người Mỹ, và để hòa giải với Việt Nam — thay vì là một nỗ lực để hiểu về chính người Việt Nam. Việt Nam trở thành một đối tượng nghiên cứu nhằm hiểu và phê phán nước Mỹ và những thất bại của nó.

Chỉ trong khoảng 15–20 năm gần đây, một thế hệ học giả mới — nhiều người trong số đó là người Việt ở hải ngoại cũng như trong nước, biết tiếng Việt, hiểu văn hóa Việt — mới bắt đầu tìm mò, viết lại, ráp lại những mảnh lịch sử bị từ chối. Kết quả là những nghiên cứu sâu sắc hơn về Điện Biên Phủ, về Ngô Đình Diệm, về chủ nghĩa cộng sản, về chủ nghĩa cộng hòa, về Việt Nam Cộng hòa, về người Việt hải ngoại, cũng như những phức tạp chính trị–xã hội của miền Bắc như phong trào Nhân văn Giai phẩm, Cải cách ruộng đất, các cuộc thanh trừng nội bộ, Tết Mậu Thân, Hòa đàm Paris và Chiến dịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu phá vỡ thế độc thoại của lịch sử.

Lịch sử không chỉ là chiến tranh và ký ức chiến tranh

Lịch sử Việt Nam – lịch sử của con người Việt Nam – và cụ thể là lịch sử cuộc Chiến tranh Việt Nam, không thể và không nên bị gói gọn trong kết cục thắng hay thua. Để có cái nhìn đầy đủ và trung thực hơn, chúng ta cần mở rộng khái niệm lịch sử thông qua những nỗ lực nghiên cứu sâu rộng, nhằm phản ánh chính xác hơn tính đa dạng, đa chiều và phức tạp của xã hội và con người. Trách nhiệm ấy không chỉ thuộc về những người viết sử, mà còn thuộc về từng công dân có ý thức, những người biết đặt câu hỏi: Vì sao lịch sử được kể như vậy? Vì sao có những yếu tố, nhân vật được nhắc đến trong khi những yếu tố và con người khác bị loại bỏ khỏi dòng chính?

Khi nhận thức được điều đó, ta sẽ hiểu rằng lịch sử Việt Nam không thể chỉ là lịch sử của một hay nhiều cuộc chiến, không chỉ là sự đối đầu trắng-đen giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong đó, sự hiện diện của người Mỹ, người Hàn, người Úc… phải được đặt song song với sự hiện diện của chuyên gia, cố vấn, và quân nhân Trung Quốc hay Liên Xô. Rằng giới lãnh đạo – dù thuộc bên nào – không chỉ là những biểu tượng của quyền lực mà còn là những con người với đầy đủ yêu thương, giằng xé, và cả tầm nhìn riêng dành cho đất nước. Rằng những người lính – dù là lính Mỹ, bộ đội miền Bắc hay quân lực Việt Nam Cộng hòa – đều mang trên mình những nỗi niềm, nỗi sợ, nỗi nhớ, và khát khao được sống, được trở về.

Ta cũng phải nhìn nhận rằng trong chiến tranh, không chỉ có đạn bom và chiến trường, mà còn có cả một đời sống xã hội hiện thực – nơi một học sinh đang tuổi mộng mơ hôm nay, ngày mai có thể trở thành một trong hàng ngàn thi thể lạnh lẽo trên chiến trường. Rằng trong lòng những xã hội ấy, từ Bắc đến Nam, tồn tại những tiếng nói riêng biệt thể hiện qua thơ văn, phim ảnh, âm nhạc và hoạt động xã hội dân sự. Qua đó, chúng ta thấy được những tương đồng, dị biệt – thấy được rằng tự do ngôn luận vốn đã là một điều kiện mong manh ngay từ thời Nhân văn Giai phẩm, và rằng nếu không có một giai đoạn Việt Nam Cộng hòa, dù chỉ tồn tại 20 năm, thì có lẽ đã không có một Trịnh Công Sơn với những bản tình ca hay ca khúc da vàng, hay một Văn Cao được nhớ đến dù là tác giả quốc ca ngày nay.

Những lịch sử đó không thể bị nhốt trong một thời điểm hay kết thúc tại mốc 30/4 như một dấu chấm hết. Chúng ta cần nhận diện sự tiếp diễn của chúng – từ những hệ lụy của chiến tranh, chính sách khắc nghiệt với đồng loại, đến những nỗ lực hòa giải với kẻ từng là thù địch; từ thân phận trong trại cải tạo đến trại tị nạn, hay những mảnh đời chìm sâu dưới đáy đại dương.

Lịch sử chiến tranh phải là lịch sử của những con người còn lại và đã ra đi – những người bị ruồng bỏ ngay trên đất mẹ, nhưng vẫn đang tự tái tạo mình trên xứ người. Nó phải ghi nhận sự tồn tại của hàng triệu người Việt ở hải ngoại – không chỉ ở Mỹ, Canada, Pháp hay Úc, mà còn cả ở Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, Nga và Đông Âu – những nơi họ phải vật lộn để tồn tại, đối diện với xung đột thế hệ và nỗ lực khẳng định sự hiện diện và ký ức của mình.

Năm mươi năm sau chiến tranh là thời gian đủ dài để chúng ta nhìn lại và khôi phục sự công bằng cho lịch sử. Không phải để thay thế một hệ tư tưởng này bằng hệ tư tưởng khác, mà để phục hồi sự phong phú và trung thực cần thiết cho việc hiểu đúng một quá khứ từng bị từ chối – từ những sự kiện, nhân vật, biểu tượng, đến ký ức cá nhân và tập thể.

Muốn hòa giải với nhau, trước tiên chúng ta phải hòa giải với chính lịch sử – bằng cách can đảm đối diện với nó, nhận diện sự hiện diện của nhau trong lịch sử, trong hiện tại, và cả tương lai. Bởi nếu không thể thừa nhận sự tồn tại của nhau, thì chúng ta lấy gì để bắt đầu một cuộc hòa giải đúng nghĩa? Và nếu chúng ta không thể mở lòng để làm được điều đó, có lẽ chúng ta sẽ mãi giậm chân trong sự lão hóa của năm tháng, chứ không bao giờ đủ trưởng thành để hiên ngang đứng trên nền tảng của lịch sử mà bước tới tương lai.

- Alex-Thái Đình Võ
Texas, Hoa Kỳ 

* Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c62x6v9z9eqo

*