Friday, 1 August 2025

Đoạn trường ai có qua cầu mới hay ...

 ĐOẠN TRƯỜNG AI CÓ QUA CẦU MỚI HAY ... 

Sau khi tốt nghiệp Kỹ sư Hóa học ở Sài Gòn năm 1973, tôi được cấp học bổng sang Thái Lan học chương trình Thạc sĩ (Master) tại Viện Công nghệ Châu Á (Asian Institute of Technology - AIT). Trong thời gian đó tôi có quen một người bạn đến từ nước Afghanistan. Tôi và anh ấy cùng học một ngành, cùng học bài, làm bài tập với nhau, cùng làm các thí nghiệm phân chất hóa học với nhau, cùng đi chơi với nhau, nên rất thân thiết. Dù gia đình anh ấy theo đạo Hồi, cũng như gia đình tôi theo đạo Phật, lúc ấy, 2 đứa chúng tôi không quan tâm đến tôn giáo.

Sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ, anh ấy trở về làm việc ở Afghanistan, còn tôi bị kẹt lại tại Thái Lan sau biến cố tháng 4-1975. Chúng tôi vẫn giữ liên lạc qua thư từ bưu điện. Một lần nọ, tôi viết thư tâm tình, than thở tôi buồn, nhớ quê hương, nhớ gia đình. Anh ấy viết thư khuyên tôi nên vui sống trong hoàn cảnh hiện tại, và viết: “Nơi nào mình sống an vui, nơi ấy là quê hương của mình”.

Mấy năm sau, có đảo chính ở Afghanistan, gia đình anh ấy chạy tị nạn sang Iran, rồi sang Đức, cuối cùng định cư tại Mỹ. Lúc đó tôi đã sang định cư tại Úc. Sau khi lập liên lạc, từ Mỹ, anh ấy viết thư, than thở anh buồn, nhớ quê hương. Tôi viết thư trả lời: “Anh còn nhớ lời khuyên anh gửi cho tôi lúc trước không? Nơi nào mình sống an vui, nơi ấy là quê hương của mình.”  

Từ đó, không thấy anh viết thư than buồn nữa.

- Bình Anson

*




Thursday, 31 July 2025

Sống & Chết

 Sống & Chết

Sáng nay đọc tâm tình của một bạn trong Facebook, có đề cập đến câu "Triệu người quen có mấy người thân, khi lìa đời có mấy người đưa?" trong bài hát "Không Tên Số 4" của Vũ Thành An, tôi có đóng góp vài dòng cảm nghĩ. Xin chia sẻ ở đây.

Mình vào đời một mình với hai bàn tay trắng thì mình lìa đời cũng trắng tay, không đem theo được gì ngoại trừ cái nghiệp do mình tạo ra.

Khi mình còn sống, nếu may mắn có được MỘT người thân thôi cũng đủ rồi. Càng nhiều người thân càng thêm phiền não. Nếu không tìm được người thân nào, thì mình nói chuyện với đầu gối. Cũng tốt thôi. Cụm từ "nói chuyện với đầu gối" là của người miền Nam xưa, không biết bây giờ còn dùng không?

Còn khi mình nằm xuống rồi thì mình đi tái sinh với nghiệp duyên của mình. Thân xác còn lại chỉ là cát bụi tứ đại, sẽ trở về với cát bụi. Người ta đem quăng vào hố rác để làm phân cũng được, hay xây tháp với cả ngàn người khóc thương đưa tiễn cũng không sao. Đó là chuyện của người còn ở lại, không phải chuyện của người đã ra đi.

- Bình Anson

*



An Interview with Ven. Bhikkhu Bodhi (2001)

 An Interview with Ven. Bhikkhu Bodhi

Venerable Kantasilo conducted this interview at the Palelai Meditation Center, Singapore, on Sunday, June 20, 2001.

-ooOoo-

Thank you Bhante for talking to us. Could you tell us about your early years, where you were born, your lay name, your parents' names?

- I was born in NYC in 1944, my civilian name was Jeffrey Block, and my parents were a middle class Jewish family living in Brooklyn.

Could you tell us where you went to school, your primary education?

- I went to a public elementary school quite close to the family house, also to junior high school, high school in the neighborhood, which is Borough Park, in Brooklyn. And then I went to Brooklyn College…

And you got your bachelors degree?

- I got a BA degree in Philosophy.

What year would that be?

- I completed my BA degree in 1966.

And then after that?

- And then I went to Claremont Graduate School. This is in Claremont, California.

Southern California?

- Yeah. Again I specialized in Philosophy and completed my doctorate degree in 1972.

You were telling me earlier that you had met a Vietnamese Buddhist monk which was probably your first introduction to Buddhism?

- Actually I had become interested in Buddhism in my junior year in college, mainly just by strolling in bookshops and looking at book titles and then somehow I became interested in a few books on Buddhism that I could find there. I think this interest in Buddhism arose from the kind of surge or quest for some deeper understanding of human existance that was offered by the materialistic philosophy of modern American civilization, and I wasn't satisfied with my ancestral Jewish religion, and also I didn't find much long term value in Christianity. But I was drawn at an early period, say during my junior year of collage to the religions of the east.

I began reading some of the Upanishads, Bhagavadgita, then I found in the bookshops some books on Buddhism. These were by D.T. Suzuki and Alan Watts so they were mainly on Zen Buddhism and Mahayana Buddhism. Then when I went to Claremont Graduate School my interest in Buddhism continued and I felt increasingly a deeper need to lead a spiritual life. At the same time I always had an underlying doubt or skepticism about any type of spiritual philosophy.

But finally when I was in graduate school I met a Buddhist monk from Vietnam who was attending the same school and living in the same residence hall in which I was living. I became friends with him, and I approached him as a teacher and from him I received my first instructions in Buddhism and meditation.

Do you remember his name?

- His name is Thích Giác Đức. I have not heard from him in many, many years, so I'm not sure whether he is still alive. In fact, when I was still living in Washington D.C. at the Washington Buddhist Vihara he was in the Vietnamese temple, which was a few blocks right up the street, and he was the monk in charge of that temple.

Is that the temple that's on the same street as the Washington Buddhist Vihara?

- The one on the same street as the Washington Buddhist Vihara, not the Jetavana temple.

No, no, but there is a Vietnamese temple just right down the street from the [Washington Buddhist] Vihara and has a very big Kuan Yin [image located] in the precincts there. Is that the same temple?

- It must be the same temple. It was called…something like… the Vietnamese Buddhist Church of America, or something like that.

Yes, that's probably it.

- Yeah, he was in charge of that at the same time that I was in the Washington Buddhist Vihara, just by pure coincidence that we wound up on the same street after several years of separation. But he was getting into an increasingly antagonistic relationship with the Vietnamese community. I think mainly because of the different political affiliations… because Vietnamese monks had very strong political affiliations.

And this was at the time the United States was involved in the…

- No, this was years after the Vietnam War - this was 1981, perhaps early 82. He came to the United States in 1975 just at the very time that Saigon collapsed and fell to the Viet Cong. And that he was educated in the United States and he had somewhat pro-western sympathies compared to those monks who took a more radical stance against the United States. His life was in danger because once the Viet Cong took power they would have singled out or weeded out those monks who were known to be sympathetic to the west, or to the United States, and [would have] eliminated him physically and so he had to escape Vietnam immediately.

Were you practicing any type of Vietnamese meditations [at this time]?

- He started me off with Anapanasati. What is interesting is Vietnamese Buddhism is Mahayana but I think because of the proximity to Cambodia, or perhaps because they've also received a stream of transmission from Indian Mahayana, not only Chinese Mahayana coming down from south China to Vietnam, Vietnamese Mahayana Buddhism tends to have a stronger strain of classical Indian Buddhism within it. So the meditations he taught me were basically mindfulness of breathing, the meditation on loving kindness, and a meditation based on the Four Foundations of Mindfulness which is… its sort of a line, each foundation of mindfulness links up with a particular one of the four perversions or distortions. To contemplate the body as being essentially impure - asubha, to contemplate all feelings as being suffering, to contemplate every state of mind as being anicca - impermanent, and to contemplate all dhammas as being without self.

And you were ordained as a samanera?

- Yeah, after I became friends with him and I began the practice of meditation, through the practice my skepticism and doubts about Buddhism or the spiritual life dissipated. I became convinced that this is the proper path for me to follow. And so then I asked my friend, teacher, if he could give me ordination as a monk. Also, I have to confess that there was an underlying pragmatic motive as well. I wouldn't say that was the main reason why I wanted ordination, but this was a period when America decided it had to beef up its armed forces and it was expanding its roll-call of people subject to the draft. And so I also thought it might be an extra security measure to have a formal ordination as a monk in order to be able to submit some kind of document to receive exoneration from the obligation to serve in the armed forces.

Conscientious objector?

- It wouldn't have been conscientious objector, it would have been a ministerial deferment.

And you were ordained for about two months before you went to South Vietnam?

- No, I was ordained by him only as a samanera in May 1967, five years before I left for Asia.

Where?

- In the United States.

And then…?

- And I remained as a samanera for five years in the United States.

I see. And then you traveled straight to Vietnam?

- I was planning to go to Asia all along, from the time that I received ordination. It was not exactly certain where I would go for ordination or training, though my teacher, my Vietnamese teacher, had some contact with Sri Lankan Buddhists…with Ven. Narada - famous monk Venerable Narada. And he was always constantly advising me to go to Sri Lanka to ordain and to receive training.

But as a Vietnamese monk…or?

- At that time it was unclear but I think he thought I should take reordination as a Theravada monk but then eventually I should come back to Vietnam and then ordain again in the Mahayana Order as a Bhikshu.

So how long were you in South Vietnam?

- Okay, so this is after I completed my graduate studies and then I had to teach for two years… this was while I was working on my dissertation, I was teaching in order to earn money to pay back debts that I had incurred from loans to support my education.

So you were already a samanera, and you were working, and you were still working on your dissertation…

- Yeah, yeah, I was completing my dissertation. Then when I completed it… I completed it in February 1972 and I continued to work through the end of that academic year, then I was ready to leave for Asia. And by this time I had also come into contact several times with Sri Lankan Buddhist monks who were passing through Los Angels. After my first Vietnamese teacher left the United States he had a friend, another Vietnamese monk who was living in Los Angeles. He had originally gone to teach Buddhism at U.C.L.A. and then he established a Buddhist meditation center in Los Angeles.

Do you recall his name?

- His name is Dr. Thích Thiên Ân. He died from cancer in 1980. In 1971 I went to stay and live at that meditation center (IBMC) with Dr. Thích Thiên Ân. And while I was staying there I got to know a Buddhist monk from Sri Lanka who was passing through Los Angeles and we invited him to come to stay at our meditation center and to give a series of talks over a period of a week. This was Venerable Piyadassi of Vajirarama in Columbo.

I became friendly with Venerable Piyadassi and I drove him around Los Angeles. I introduced him at talks and I brought him to my classes at the university to teach, to give lectures. And then when we parted at the Los Angeles airport he suggested to me that some time I should come to Sri Lanka and he could arrange for me to stay at a Buddhist monastery.

And then some time later I met another monk named Venerable Ananda Mangala who is actually a Sri Lankan monk but he was stationed in Singapore. Then I became friendly with him, he stayed with us also for about a week. Then there was Dikwella Piyananda who was at the time chief monk at the Washington Buddhist Vihara, he also came to stay with us for a few days and I became friendly with him. And so it seems I have some deep underlying karmic connection with Sri Lanka, which was getting reinforced by these visiting monks.

And so then when I decided to go to Sri Lanka, I wrote to Venerable Piyadassi and told him about my intention and asked him if he could recommend a place I could go to ordain and study. Then he recommended to me a monk, Venerable Balangoda Ananda Maitreya,

Who later became the Sangha Nayaka…?

- Actually, at that time he was the Mahanayaka of the United Amarapura Nikaya. He had become already the Mahanayaka Thera of the Amarapura Nikaya, this would have been in early 1972. I think he received that appointment…it must have been 1969 or 1970. Because I remember he was the holder for a five-year period and then he relinquished… that period came to an end in 1976. So he might have had the appointment in 1971.

I was under the impression that after you gained samanera ordination in the Vietnamese tradition you left California to visit your monk friend in Vietnam.

- Actually I hadn't reached that point yet in my narrative. I had written to Venerable Piyadassi and he gave me the name of Venerable Balangoda Ananda Maitreya. I wrote to Venerable Ananda Maitreya asking if I could come and stay with him to ordain and to study and he wrote back saying I was welcome. So then in August 1972, I left the United States and my plane came first to Thailand and so I spent one week in Thailand at Wat Pleng Vipassana. From there I went to Vietnam in order to visit my friend, the first Buddhist monk that I had contact with. This was Venerable Thích Giác Đức.

Then I stayed in Vietnam for two months, mostly in Saigon, a few weeks I went up to Hue in central Vietnam.

Were there any meditation centers in Hue or were you just sight-seeing?

- It was more sight-seeing. There were monasteries in Hue but everything was in a rather hectic and chaotic state at that time because of the Vietnam War. The monks were very uncertain about the future of Buddhism and the future of the country itself.

So from Vietnam you…?

- Then from Vietnam I went to Sri Lanka.

But at this point, I want to make it clear you were a Mahayana samanera.

- I was a Mahayana samanera still and I arrived in Sri Lanka wearing my Vietnamese style robe. My teacher wanted me to wear the yellow robe when I came to Sri Lanka since with the brown robe I might not have been recognized as a Buddhist monk. So I wore this flowing yellow robe. Then, after a week or so in Colombo I went out to Balangoda to stay at the monastery of my ordination teacher - Venerable Balangoda Ananda Maitreya. Then a few weeks later I took a new ordination into the Theravada Order as a samanera.

How long did you remain a samanera in the Theravada tradition?

- The samanera ordination took place in November 1972, then I took the Upasampada ordination in May, 1973. So it was six months.

Can you give us you preceptor's name?

- My preceptor was Venerable Bibile Sumangala Nayaka Thero. He was a prominent monk in the upcountry Amarapura Nikaya. But he was not known outside of the upcountry Amarapura Nikaya. He did not have an international reputation.

Did you have a relationship with him?

- No, no. No relationship at all. His function as the upajjhaya at the upasampada ceremony was purely ceremonial or a formal function. My real close relationship was with Venerable Ananda Mettreya.

Can you tell us about that relationship?

- Well, I came to him because he had a great reputation as a scholar and also as an outstanding monk. When I first came to him and found out that he was 77 years old I was a little apprehensive because I was coming here as a young monk and I thought that I would have to spend five years of study with him and I was worried that at the age of 77 he might die at any time. But he wound up going on to live till the age of almost 102 and he was very strong and vigorous.

And while I was staying with him I found out one of the secrets of his excellent health was going for long walks several times a week, about twice a week. His temple was located about two miles in one direction from the town of Balangoda itself, in a village, in one direction and he also had a pirivena, a monastic school, two miles in the other direction, on the other side of Balangoda. But by that time he had retired from his function as the principle of the monastic school and he left it in the charge of his pupils.

But he kept his library there. He was a very avid reader, always doing research on different subjects. And so twice a week he would walk from his temple to the pirivena, the monastic school, with a bunch of books under his arm. And quite often he would ask me to go along with him and so we would walk about four miles in one direction - four miles going and then we would rest and have a cup of tea, then walk back another four miles. And he was quite fit and vigorous I was quite surprised.

So he was a very influential person in your life?

- I would say so, definitely so. And it was with him I began my study of Pali and Buddhism. Though I have said pretty much I learned Pali on my own, he didn't give me formal lessons in the grammer. But I'd work with some textbooks and he would check my exercises. Then once I'd learned enough Pali to start going through the texts…we went through certain texts together.

Such as…?

- We started with the first part of the Samyutta Nikaya, the collection with verses, then we went through some suttas in the Majjhima Nikaya, then he took me through the Abhidhammatthasamgaha.

And you would translate what was already Pali into English or vise-versa?

- I would just translate it to myself. At that time I was not yet doing written translations.

So you were reading the Romanized Pali?

- Actually, he wanted me to learn the Burmese script, which I did, because he had the entire Burmese Sixth Council Edition in his library. He was one of the monks who participated…in fact, he was like the leader of the Sri Lankan delegation during the Sixth Buddhist Council. And so he urged me to learn the Burmese script, which I did and then we worked through texts… those texts in the Burmese script.

I think I remember reading somewhere that you had a very close relationship with Venerable Nyanaponika?

- Venerable Nyanaponika each year would go to Europe for a month or two, he started making these trips in the late 1960s up till 1980. I had met Venerable Nyanaponika first when I made a visit to Island Hermitage. This was shortly after my ordination. Just by coincidence he happened to come down there. He was staying in Kandy, at Forest Hermitage, but each year at the time when the Island Hermitage held its Kathina ceremony, he would go down to Island Hermitage. And so just at the time I made my visit to Island Hermitage he was visiting there and so I had some talks with him.

Then occasionally when I had questions about points on Dhamma, I would write to him to get his views. Then in 1974 when he was going to Europe, he asked if I would come and look after the Forest Hermitage in his absence. And I agreed to do that, and in this way I became friendly with him. And then in 1975 I left Sri Lank and I went to India, to Bangalore, and stayed in Bangalore for ten months at the Maha Bodhi Society there, which was under Acariya Buddharakkhita.

It happened that while I was staying with Venerable Ananda Mettreyya in Balangoda, an Indian monk came to stay at the same monastery. His name was Saddharakkhita and I became friendly with him and he told me that his home monastery was the Mahabodhi Society in Bangalore. And so when he had completed his studies in Sri Lanka, and decided to go back to Bangalore, he suggested that I go along with him. And also I wanted to go to India because I wanted to make a pilgrimage to the Buddhist Holy sites.

And so I came along with him to Bangalore and I stayed altogether for ten months at the Mahabodhi Society there which I found quite inspiring because his teacher, Venerable Acariya Buddharakkhita spoke English very fluently, had very good understanding and knowledge of Dhamma, and each week he would give very very good Dhamma talks. At that time there were three western monks staying with him... er... I'm sorry, actually there were five or six monks there. One of them received ordination only toward the end of my stay there under the name Sangharatana. But later he came to Thailand and became reordained as Silaratana, staying with Ajaan Maha Bua. I think you know him. They call him Phra Dick now - Richard Byrd.

Yes, I know him very well.

- So he was there, and then there were two young Indian monks, and a Sweedish monk who was even senior to myself named Lakkhana. And Venerable Buddharakkhita… Actually, at that time Venerable Lakkhana was very into Abhidhamma, and I was into the study of suttas. And so he had Venerable Lakkhana teach the Abhidhamma to all the monks and he had me teach the suttas to all the monks, even though I didn't have much knowledge at the time, but it really forced me to prepare talks on the suttas and to study the suttas carefully and learn how to explain them. And then occasionally Acariya Buddharakkhita would ask us to give the Sunday public Dhamma talk in place of himself, and that forced us to learn how to give public discourses.

While I was staying in Bangalore, it became clear that our visas would not be renewed another year so I had to find another place to go. And meanwhile the Venerable Nyanaponika wrote to me and told me that if I decided to come back to Sri Lanka I would be welcome to stay with him, and so I decided to do so. So then I came back at the very end of 1975, I came back to Sri Lanka and went to stay with venerable Nyanaponika. Actually in the place right next to… there are two places about 100 meters apart within the same precincts. One is the Forest Hermitage where venerable Nyanaponika stays, the other is called Senanayakarama, where Venerable Piyadasi would stay when he came to Kandy.

And so I was staying in Senanayakarama since Venerable Nyanaponika had only one guest room, and he was expecting to come within a few months none other than, Venerable Phra Khantipalo. And so then I stayed… Anyway, I stayed all together close to two years with Venerable Nyanaponika in that place. And Venerable Khantipalo stayed with us for about a year.

When I took ordination, my parents were extremely upset with this. And they would write to me frequently, sometimes angry letters, sometimes letters of grief and sorrow, sometimes letters critical of Buddhism and of myself, sometimes letters pleading with me to go back. And so I actually decided that I wouldn't be able to continue as a monk and that I would disrobe and go back to the United States. And I told this decision to Venerable Nyanaponika and he regretted it very much. But he thought that I had to make my own decisions so he didn't try to compel me, though he felt that I would have been justified in continuing as a monk rather than conceding to my parent's wishes. But I felt that maybe this was necessary to do. I actually fixed the date that I would disrobe. I was already making arrangements with my parents to get the ticket for the trip back to the United States.

It was about two or three weeks away from the time I was scheduled to disrobe and one day I was sitting up in my room… at this point I was living in the Forest Hermitage with Venerable Nyanaponika - this was after Venerable Khantipalo left Sri Lanka. Then I was just thinking that the whole purpose of my life was to live as a Buddhist monk and if I were to disrobe just to satisfy my parent's wishes it would be like nullifying all that was of value and of meaning, of significance in my own life, just to fulfill their expectations. So I told this to Venerable Nyanaponika and he said 'in that case go back but go back as a monk', and I thought 'why not'.

So then I went back, this was in August 1977, then I went back to the United States as a monk. And when my parents, who were expecting me to come down in lay clothes, saw me coming in my saffron robes with an alms bowl on my back and the monk's umbrella in my hand… this is what my father told me later, they had seen me before I saw them. My mother said to my father, 'that's not our son, let's go' and she actually started to walk away from the airport but my father held her back and they took me...

So they took you home?

- Yeah, yeah. But of course they were very unhappy with this.

And this was in NY or this was in…?

- At this time they were living in Long Island, outside NYC.

But you went to stay for some time at the Sri Lankan Buddhist Vihara, so was this at the very beginning of that stay?

- No. You see the first place I stayed when I went back to the United States was called the Lamaist Buddhist Monastery of America.

In?

- It's in New Jersey. In a place called Washington, New Jersey. It was established by a Kalmuk lama named Geshe Wangyal who was one of the first… You see there was a Kalmuk community which had come to the United States, I think during the period when Stalin was persecuting the Kalmuk Mongolians, or it could even have been immediately after the Bolshevik revolution - I'm not sure when. But they had come to the United States and settled in southern New Jersey.

..and set up a center?

- The Buddhist centers would have come some time later. And Geshe Wangyal he was a Kalmuk Mongolian. He had studied in Tibet and China then they had set up a monastery for him and he attracted to himself some of the first Americans who studied Tibetan Buddhism. Later they became quite prominent scholars of Tibetan Buddhism, like Robert Thurman, Jeffrey Hopkins - they were originally students of Geshe Wangyal.

So how long did you visit your parents?

- Well, I stayed with my parents a couple of weeks then I went to stay at this Lamaist Buddhist monastery. And I wanted also to study some aspects of Indian Mahayana Buddhism through the Tibetan. So actually I studied Sanskrit and Tibetan there - to some extent. But then I visited Washington D.C., this would have been Vesak 1978, and I visited the Washington Buddhist Vihara and met monks there.

Some of the lay followers, the American lay followers of the Washington Buddhist Vihara, then requested me to come and take up residence at the Washington Buddhist Vihara. And so then I left New Jersey and I came to settle in Washington D.C. This would be in May 1979. Then I stayed at the Washington Buddhist Vihara for three years till 1982.

Then I felt that I wanted to go back to Asia in order to do more intensive training and meditation. My original plan was to go to Burma and to practice meditation with Mahasi Sayadaw. And I started to make plans to go to Burma. Several years earlier, Burma started to loosen up its visa policy and they were giving long term residence visas to foreigners who would come and stay at Buddhist monasteries and meditation centers just for the purpose of practicing meditation, or studying Buddhism. And so I was hoping to ride in on that wave. But just when I started to make the application, then Burma went through one of these paranoid phases and threw all the foreigners out of the country and was refusing to give any long term visas.

Yes, I remember that. They ordered all foreigners to leave the country within 48 hours.

- Yeah, yeah.

Yes, I remember that very clearly.

- I think that there were some Americans who said that they had planned to come to Burma for the purpose of meditation and then after they would do a period of meditation then without permits, without the approval of the authorities they would just on their own started to travel about. And then the Burmese government became afraid that these were spies going about disguised as monks. And they started to… the safest policy was to just get them all out of the country. Okay, so then I had to reroute my trip and so I decided to come back to Sri Lanka. It was in May 1982, that I arrived back in Sri Lanka.

When were you made head of the B.P.S.?

- Well, I became the editor of the B.P.S. in 1984. When I first came back to Sri Lanka, I spent my first Vassa together with Venerable Nyanaponika. But after the Vassa I went to a different monastery. This was a meditation monastery called Nissarana Vanaya, Mitirigula Nissarana Vannaya … and I stayed.

Is that Mitirigula?

- That's Mitiri… yeah. A place called Mitirigula. But now there are two monasteries in Mitirigula.

So Mitirigula is the name of an area?

- Mitirigula is a village, and the monastery itself is called Nissarana Vanaya - Nissarana Vana, the Grove, or Forest, of Deliverance. But then on the hill just beyond Nissarana Vanaya, another monastery was started. Originally, that was to be a study monastery but the study program never worked out there… never worked out successfully. Then the Burmese monk, the pupil of Pa Auk Sayadaw named U Agganya was invited to go there and give meditation training to Sri Lankan monks. And he was very popular, quite successful. Because now this other monastery that was originally set up as the study center turned into an intensive meditation center teaching the Pa Auk system of meditation.

The other monastery still functions more or less as a meditation monastery but after the death of Venerable Nyanarama the quality of meditation training there has declined. It is virtually turning into an old-age home for monks, rather than a place for younger monks who are really keen on intensive practice.

During Venerable Nyanaponika's last years you were…he was living with you... or?

- Well, I'd say that I was living with him. While I was at Nissarana Vanaya I stayed with him on and off for about two years… close to two years. Then in 1984 Venerable Nyanaponika was already was in his 80s, getting quite weak, and I felt that I should go to stay with him to look after him.

And then about a month after I came to stay with him he told me that he would like to pass on the editorship of the BPS to me. I wasn't quite prepared to take it but I agreed to do so. And so he retired as editor but he remained president for another four years till 1988 then he decided to retire from the presidency and he asked me to succeed him as president, which I did. But he continued to live on till 1994, he was 93 at the time of his death.

So you've brought us up to 1984… can you bring us up to the present? Any other interesting anecdotes or events in your life?

- Okay, well in 1984 then I took over as editor for the Buddhist Publications Society. In 1988 I became president then I lived on constantly there with Venerable Nyanaponika, very rarely leaving the Forest Hermitage, in looking after him quite diligently. He remained in quite good health up till the last few weeks of his life, because he was getting weaker and his eyesight had deteriorated. His eyesight really started to go in 1988 and by about late 1989 he was not able to read anymore. So each evening we would have our evening tea and I would read to him for about one hour from various books and I would also record what I read so that later he could listen again. And I tried to obtain tapes from various teachers for him to listen to. My own life I think is rather flat.

I don't think so! I think its event packed.

- No, if I were to write a biography from that period on it might be difficult to fill two or three pages.

So you've completed several very important translations from the Pali Canon…being the Majjhimanikaya and the two volume set of the Samyuttanikaya.

- Yeah, yeah.

So that's quite…and some other editions that I haven't mentioned, some smaller booklets, and you do the very important…uh..is it the B.P.S. newsletter?

- Yeah.

Is that four times a year?

- Well, now it comes out three times a year.

That I wouldn't call flat…

- How the edition of the Majjhimanikaya came about… Well actually the proposal for the Samyuttanikaya came out even earlier than the Majjhimanikaya. And it was none other than Phra Khantipalo, who initiated that. He felt that there was an urgent need for a new translation of the Samyuttanikaya, and I had already started this practice of translating Canonical suttas from the Canon and attaching to them translations of large portions of the commentary and sub-commentary.

The first work in this genre that I did was the Brahmajala Sutta together with its commentary and sub-commentary. I did this on the urging of Venerable Nyanaponika, he was very keen to have this done. And many years earlier he had translated large portions of the commentary and sub-commentary to the Brahmajala Sutta, which he had kept in a notebook. So I really learned very much, to read and understand the commentaries and sub-commentaries from these notebooks of Venerable Nyanaponika.

The style of the commentaries and sub-commentaries, particularly the Tikas can be quite difficult… because the sub-commentator writes in the style of the classical Sanskrit commentator. You know, like Shankhara, well he preceded Shankharacariya, but its in a similar style, very terse, using very complex sentences with a lot of abstract nouns linked together by various indirect cases. So it's quite a project to translate the sub-commentary sentence by sentence… I really learned to understand the sub-commentarial style from these notebooks of Venerable Nyanaponika. And then I put together this Brahmajala Sutta with the commentary and sub-commentary.

And that was printed by itself once.

- It is, it still is printed by itself. It's called the Discourse on the All Embracing Net of Views. Then after that I did the first Discourse of the Majjhimanikaya, this is the Mulapariyaya Sutta and its commentary and sub-commentary, then the Mahanidana Sutta, that's the Great Discourse on Causation, and the Samannaphala Sutta, the second discourse in the Dighanikaya -- The Discourse on the Fruits of Recluseship.

So Venerable Khantipalo liked my translations and he proposed to me that I do a new translation of the Samyuttanikaya for the Pali Text Society. But I was somewhat doubtful that the Pali Text Society was interested in taking on new translations. Bhikkhu Khantipalo wrote to Richard Gombrich who was then the secretary of the P.T.S. asking him to write to me to assure me that they would be interested in new translations. And Gombrich did so. This was in 1985. But just about that same time Wisdom Publications had written to Venerable Nyanaponika… you see, Venerable Khantipalo had put together 90 suttas from the Majjhimanikaya that were translated by Bhikkhu Nyanamoli and these were published in Bangkok in three volumes by Mahamakut Press called A Treasury of the Buddha's Words.

Nick Ribush of Wisdom Publications found out about those three books, these three volumes, and he had the idea to have an entire translation of the Majjhimanikaya published. He asked Venerable Nyanaponika if he would be able to edit the remaining 32 discourses of the Majjhimanikaya that Venerable Nyanamoli had translated. But Venerable Nyanaponika, at this point, was in his mid-eighties already and he thought it was just too much for himself to take on. And he asked me if I would be willing to do it and I said okay.

And so I started doing this in 1985 and as I went through then I felt that some of Venerable Nyanamoli's terminology had to be altered. He was using a rather experimental terminology, which would not have been so readily comprehensible to an ordinary reader in English. I made these alterations with the approval of Venerable Nyanaponika who totally endorsed them. So I worked on that from 1985 till about early 1989 because I wasn't able to do this full time. I also had to do the editing for the Buddhist Publications Society. It was April 1989 that I sent the completed manuscript off to Wisdom Publications and it remained in limbo with them for about three years since they couldn't find anybody to oversee the project. This was the age before computers had come into general usage, at least in Sri Lanka. And so what I submitted to Wisdom was a typed script, typed on a manual typewriter. And so, they had various people enter the text into computer format using different computers and different editorial styles. And then they needed someone to oversee the whole project but they couldn't find anybody for several years and it remained in limbo till one person named John Bullitt came along and he took the responsibility for overseeing the text preparation, copy editing of the whole work. So finally it came out in 1995.

After I finished the Majjhima, several months later I started translating the Samyuttanikaya… this would have been about June 1989. I started doing the Samyuttanikaya not with the first volume, which is the collection of verses, since the verses can be very difficult and I thought that if I started doing the verses first I would quickly get discouraged and give up on the project. And so I started with volume two, the first of the prose volumes and so I did volume two and three pretty quickly but then I got involved in other projects, books at the B.P.S. had to be edited, also various things came, even for several years I couldn't return to the Samyuttanikaya for so many years. Then I would return to it for periods then back to other things. Not that I was wasting my time or throwing my time away on trifling enjoyments, but various other projects called for my attention and deflected it away from the Samyutta. So I couldn't return to that, sometimes for several years, then I would work on it.

I must have finished the first draft in 1993. Then I had to prepare the notes and the verse collection was very, very difficult I went through it several times making drastic alterations, as I compiled the notes then I saw places where I interpreted certain verses wrongly and I had to retranslate the verses. And the preparation of the notes was very time consuming, a year was spent on the notes alone. And so it was completed… I was… diddling on again accepting invitations to various projects, to various engagements, and so on.

So finally, Wisdom Publications gave me a deadline, which was in a way a lifesaver, in that it forced me to put my attention wholeheartedly on the Samyutta and complete it. I think the deadline was something like September 21st, 1999, and I completed all of the work… you know, everthing that had to be done… and put everything on disks and sent the disks off to them by courrier on September 17 so that the disks arrived at their office on September 21.

That's what we call a close call.

- Yeah, but nothing would have happened if I missed the deadline. They wanted to enter it into their catalogue for a particular release date. So if I missed the deadline then it wouldn't have gotten into the catalogue and so their release would have been postponed for another season. Their releases are done three times a year, so that it would have had to have been postponed from I think a spring or summer release to a fall or winter release. It wouldn't have meant that I would have been killed [laugh]… for missing the deadline.

So you've brought us up to the present…

- But one thing I didn't mention is the problem with the headache. This seems to be some type of karmic destiny that I've had which is… I've repeated this story so often to different doctors it gets boring to repeat it in detail over and over. But starting in 1976 early 77 I started to get this headache condition which gradually grew worse, and I consulted various doctors.

First, the problem developed around the eyes so I thought something might be wrong with the eyes so I saw optometrists and they led me on to EMT specialists who thought that there could have been inflammation in the sinuses and they passed me on to neurologists thinking that something could have been wrong with the nerves. But none of these doctors could find anything organically wrong. Then I tried different types of medical treatment, not only western medicine but Ayurvedic medicine, traditional Sri Lankan herbal medicine, Chinese acupuncture, homeopathic medicine, Tibetan medicine. Now here in Singapore, along with western medicine I'm also trying Chinese herbal medicine and massage therapy. So this headache has been quite a major obstruction to my work and other activities through the years.

So hopefully through the power of your punna these will soon come to an end.

- It seems that it will take a lot of punna [laugh].

One of the reasons that I wanted you to tell us your story is that in the past there have been many western monks, this is not a new thing, and with the passing of Venerable Nyanaponika…I think that we lose a lot without asking pertinent questions at the right time. So I'm very glad that you've agreed to tell us your story. And he [Suchao Ploychum] wanted me to ask you about your views of Buddhism in Sri Lanka…what are your impressions, do you think it will remain a vital place for westerners to seek ordination and training there?

- Okay, well rather sadly I have to say that my impression of Buddhism in Sri Lanka is that to a large extent it has deteriorated. In the older generation you could find monks who were quite good scholars and sincere practitioners. Now, because of various changes, political changes in the country, economic changes the large impact of westernization I would say that the quality of the monastic life has declined a lot.

There are still pockets of monks who are very good, very earnest, very dedicated. Particularly within this community or organization called the Sri Kalyani Yogashrama Sanstava which is a distant cousin of the Dhammayut nikaya in Thailand.

Could you repeat that name clearly?

- Okay, Sri Kalyani Yogashrama Sanstava. Sanstava is something like association of the Yogashramas… meditation monasteries. Sri kalyani… I think its name comes from the Kalyani river in Burma in which the ordinations were performed by the monastic community which is the parent of the Ramanyanikaya… it must be in the Ramanyadesa of Burma. This was a kind of association of monasteries established by one Venerable Jinavamsa who is still alive today at the age of… could be 95, 96, and Venerable Sri Nyanarama who was the meditation master at Mitirigula Nissarana Vanaya monastery.

The original motivation for the starting of this organization was to revive the true monastic life in Sri Lankan monastic Buddhism based on close adherence to the Vinaya, study of the texts… very precise and careful study of the text, and the practice of meditation. And this particular monastic community has been in rather close contact in recent years with Pa Awk Sayadaw in Burma and some of the monks from this organization have gone to Burma to practice with Pa Auk Sayadaw, and others are studying in Sri Lanka under Pa Auk Sayadaw's disciple U Agganya. So I'd say that this is a quite healthy stream within the Sri Lanka sangha.

Otherwise,… outside of this organization there are other good monks here and there. But by and large I have to say that monasteries have become rather depressing places. Many of the younger monks get ordained solely for the purpose of pursuing their education, if they are capable they go to the universities, get their degrees, then disrobe. Others remain as monks but they work at salaried jobs as teachers, which I would say is not so condemnable in itself but other monks who are rather clever and enterprising become involved in various activities which go quite against the whole grain of the monastic life, involvement in business, finance, politics.

So for westerners who wish to ordain and receive proper training I find it rather difficult to recommend Sri Lanka. Though there are a few places I could suggest, like Nissarana Vanaya, if a monk is capable of taking care of himself with a little outside guidance, then its still a suitable place. The other place connected with the strict meditative training… I say that its too narrow in its focus for a new monk who needs a broader base of training, some guidance in the monastic rules, a general introduction to the teaching, the Dhamma, in a place like that one doesn't find the training, one finds only the exclusive teaching of meditation according to a particular technique. A place like that is suitable for a monk who has already completed his basic training and wants some intensive practice in meditation.

So the opportunities for a foreigner coming to Sri Lanka… there are opportunities to ordain… often monks will have no hesitation to give the formal ordination to a candidate but once they get ordained they largely have to make out on their own to get proper instruction in the Dhamma.

Are there any closing statements you would like to offer?

- I think I've covered everything.

Thank you, Bhante.

* Source: Urbandharma.org, https://tinyurl.com/3r6yyp65 

*

Bhikkhu Bodhi, Vietnam, 2025


Tuesday, 22 July 2025

Già sao cho ... sướng? Bs Đỗ Hồng Ngọc

Già sao cho … sướng?
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

Một cụ già trên trăm tuổi được nhà báo phỏng vấn bí quyết, cụ cười: Có gì đâu, sáng nào tôi cũng tự hỏi hôm nay mình nên ở Thiên đàng hay Địa ngục đây, rồi ngần ngừ một lúc, tôi chọn Thiên đàng!

Chất lượng cuộc sống (quality of life) được định nghĩa là “ những cảm nhận của cá nhân về cuộc sống của họ trong bối cảnh văn hóa và các hệ thống giá trị mà họ đang sống, liên quan đến các mục đích, nguyện vọng, tiêu chuẩn và các mối quan tâm của họ”. (WHO, Tổ chức Sức khỏe Thế giới).

Có một bảng chỉ số giúp đo đạc chất lượng cuộc sống ỡ người cao tuổi gồm các yếu tố như về thể chất, tâm lý, tính độc lập, quan hệ xã hội và môi trường sống để mỗi người tự đánh giá và tự điều chỉnh, thích nghi.

Trong 2 tuần qua, bạn đánh giá chất lượng cuộc sống của bạn ở mức độ nào? Rất xấu? Xấu? Không tốt không xấu? Tốt? Rất tốt? Trong hai tuần qua, bạn có hài lòng về sức khỏe của bạn không? Ở mức độ nào? Bạn có cảm thấy vui sống, thấy cuộc sống là có ý nghĩa? Bạn có chấp nhận ngoại hình của bạn hiện nay không? Bạn có đủ tiền để đáp ứng nhu cầu hằng ngày không? Bạn có được vui chơi giải trí không? Bạn có đi lại dễ dàng thoải mái không? Bạn có hài lòng về giấc ngủ của mình không? Bạn có hài lòng về mối quan hệ cá nhân của bạn với người chung quanh? Bạn có hài lòng về những điều kiện sống hiện nay? Bạn có thường cảm thấy chán nản, tuyệt vọng, lo âu, trầm cảm…?

Đó là một số câu hỏi trong hàng trăm câu hỏi của bảng đánh giá chất lượng cuộc sống. Thỉnh thoảng ta cũng nên tự hỏi mình những câu như thế, đừng để kêu lên: “…nhìn lại mình đời đã xanh rêu” (Trịnh Công Sơn)…

Có người hỏi tôi, ở lứa tuổi “xưa nay hiếm”, người ta hay nhắc đến “quỹ thời gian”, bác sĩ có vậy không? Tôi trả lời không. Tôi không có ý niệm có một quỹ thời gian nào đó, bởi tôi không thể biết trước tôi có được bao nhiêu thời gian, đã xài hết bao nhiêu, còn lại bao nhiêu để… lên kế hoạch!

Lần nọ, tôi có dịp làm MC cho một buổi giao lưu của các vị cao tuổi, có bác sĩ-họa sĩ Dương Cẩm Chương, 103 tuổi, nhạc sĩ Trần Văn Khê, 93 tuổi; nhà giáo Đàm Lê Đức, 83 tuổi, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, 76 tuổi. Hôm đó, tôi bỗng trở thành người “quá trẻ”. Kinh nghiệm rút ra là nên thường xuyên gặp gỡ những người già để mình được trẻ! Nhưng theo tôi, được làm bạn với những người trẻ… dễ thương mới thực là hạnh phúc của tuổi già! Trịnh Công Sơn đã viết trong cuốn Gió heo may đã về của tôi: “Không có già không có trẻ. Nói với một người trẻ tôi già rồi em ạ là vô lễ…”.

“Sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being) về thể chất, tâm thần và xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật” (WHO). Đây là định nghĩa chung về sức khỏe. Riêng với người già thì định nghĩa có khác một chút: Sức khỏe của người già chủ yếu là phát triển và duy trì được sự sảng khoái và hoạt động chức năng về tâm thần, xã hội và thể chất của họ. Sự khác biệt ở đây là đã đưa yếu tố “tâm thần” lên hàng đầu. Bởi ở tuổi già, thể chất đã rệu rả, mọi thứ dần quá “date”, nên chất lượng cuộc sống nằm chính ở “tâm thần”!

Nghiên cứu cho thấy tuổi già thường có được hạnh phúc khi: Biết từ bi với mình, chấp nhận mình, hiểu luật vô thường của cuộc sống; có ký ức tốt về tuổi thơ và tuổi thanh xuân; được tự tại sắp xếp cuộc sống theo ý riêng, không bị áp đặt; duy trì tốt các mối quan hệ gia đình, bè bạn… Sức khỏe thể chất tương đối tốt thôi, không mong lúc nào cũng “như xưa” được. Tài chánh được tự chủ. Gần gũi với thiên nhiên. Giữ ngọn lửa nhiệt tình, niềm an lạc, thanh thản trong tâm hồn.

Tự tại có lẽ là con đường hạnh phúc nhất của tuổi già. Cho nên “Quán Tự Tại Bồ-tát” khi chiếu kiến “ngũ uẩn giai không” thì đã vượt thoát mọi khổ đau ách nạn.

Già thì khổ, ai cũng biết. Sanh bệnh lão tử! Nhưng già vẫn có thể sướng. Muốn sống lâu thì phải già chớ sao! Già có cái đẹp của già. Trái chín cây bao giờ cũng ngon hơn trái giú ép.

Cái sướng đầu tiên của già là biết mình… già, thấy mình già, như trái chín cây thấy mình đang chín trên cây. Nhiều người chối từ già, chối từ cái sự thật đó và tìm cách giấu cái già đi, như trái chín cây ửng đỏ, mềm mại, thơm tho mà ráng căng cứng, xanh lè thì coi hổng được.

Mỗi ngày nhìn vào gương, người già có thể phát hiện những vẻ đẹp bất ngờ như những nếp nhăn mới xòe trên khóe mắt, bên vành môi, những món tóc lén lút bạc chỗ này chỗ nọ, cứng đơ, xơ xác… mà không khỏi tức cười! Quan sát nhìn ngắm mình như vậy, ta mới hiểu hai chữ “xồng xộc” của Hồ Xuân Hương:

“Chơi xuân kẻo hết xuân đi.
Cái già xồng xộc nó thì theo sau!”

Có lẽ nữ sĩ lúc đó mới vào lứa tuổi 40! Thời ta bây giờ, 40 tuổi lại là tuổi đẹp nhất. Phải đợi đến 80 mới gọi là hơi già. Trong tương lai, khi người ta sống đến 160 tuổi thì 80 lại là tuổi đẹp nhất!

Tuy vậy, thực tế, già thì khó mà sướng. Con người ta có cái khuynh hướng dễ thấy khổ hơn. Khổ dễ nhận ra còn sướng thì khó biết! Một người luôn thấy mình… sướng thì không khéo người ta  ngờ hắn có vấn đề… tâm thần! Nói chung, người già có ba nỗi khổ thường gặp nhất, nếu giải quyết được sẽ giúp họ sống “trăm năm hạnh phúc”:

* Một là thiếu bạn!

Nhìn qua nhìn lại, bạn cũ rơi rụng dần… Thiếu bạn, dễ hụt hẫng, cô đơn và dĩ nhiên… cô độc. Từ đó dễ thấy mình bị bỏ rơi, thấy không ai hiểu mình! Quay quắt, căng thẳng, tủi thân. Lúc nào cũng đang như

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài nghe ngày tháng dần qua…!”.

Người già chỉ sảng khoái khi được rôm rả với ai đó, nhất là những ai “cùng một lứa bên trời lận đận”… Gặp được bạn tâm giao thì quả là một liều thuốc bổ mà không bác sĩ nào có thể biên toa cho họ mua được!

Để giải quyết chuyện này, ở một số nước tiên tiến, người ta mở các phòng tư vấn, giới thiệu cho những người già cùng sở thích, cùng tánh khí, có dịp làm quen với nhau. Người già tự giới thiệu mình và nêu “tiêu chuẩn” người bạn mình muốn làm quen. Nhà tư vấn sẽ “matching” để tìm ra kết quả và làm… môi giới…Dĩ nhiên môi giới cho họ kết bạn. Còn sau này họ thấy tâm đầu ý hợp tiến tới hôn nhân (nếu còn độc thân) thì họ ráng chịu! Đó là chuyện riêng của họ. Ngày trước, Nguyễn Công Trứ mà còn phải than:

Tao ở nhà tao tao nhớ mi
Nhớ mi nên phải bước chân đi
Không đi mi bảo rằng không đến
Đến thì mi hỏi đến làm chi
Làm chi tao có làm chi được
Làm được tao làm đã lắm khi…
(Bỡn tình nhân)

Rồi họ dạy người già học vi tính để có thể “chat”, “meo” (email) với nhau chia sẻ tâm tình, giải tỏa stress…Thỉnh thoảng tổ chức cho các cụ họp mặt đâu đó để được trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, dòm ngó, khen ngợi hoặc… chê bai lẫn nhau. Khen ngợi chê bai gì đều có lợi cho sức khỏe! Có dịp tương tác, có dịp cãi nhau là sướng rồi. Các tế bào não sẽ được kích thích, được hoạt hóa, sẽ tiết ra nhiều kích thích tố. Tuyến thượng thận sẽ hăng lên, làm việc năng nổ, tạo ra cortisol và epinephrine làm cho máu huyết lưu thông, hơi thở trở nên sảng khóai, rồi tuyến sinh dục tạo ra DHEA (dehydroepiandosterone), một kích thích tố làm cho người ta trẻ lại, trẻ không ngờ!…Dĩ nhiên phải chọn một nơi có không khí trong lành. Hoa cỏ thiên nhiên. Thức ăn theo yêu cầu. Gợi nhớ những kỷ niệm xưa… Rồi dạy các cụ vẽ tranh, làm thơ, nắn tượng… Tổ chức triển lãm cho các cụ. Rồi trình diễn văn nghệ cây nhà lá vườn. Các cụ dư sức viết kịch bản và đạo diễn. Coi văn nghệ không sướng bằng làm … văn nghệ!

* Cái thiếu thứ hai là thiếu… ăn!

Thực vậy. Ăn không phải là tọng là nuốt là xực là ngấu nghiến … cho nhiều thức ăn! Ăn không phải là nhồi nhét cho đầy bao tử! Trong cuộc sống hằng ngày có nhiều thứ nuốt không trôi lắm! Chẳng hạn ăn trong nỗi sợ hãi, lo âu, bực tức; ăn trong nỗi chờ đợi, giận hờn thì nuốt sao trôi? Nuốt là một phản xạ đặc biệt của thực quản dưới sự điều khiển của hệ thần kinh. Một người trồng chuối ngược vẫn có thể nuốt được dễ dàng! Nhưng khi buồn lo thì phản xạ nuốt bị cắt đứt!

Nhưng các cụ thiếu ăn, thiếu năng lượng phần lớn là do sợ bệnh, kiêng khem quá đáng. Bác sĩ lại hay hù, làm cho họ sợ thêm! Nói chung, chuyện ăn uống nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử:

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên…”
(Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền…)
(Trần Nhân Tông)

“Listen to your body”. Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn cái gì thì nó đang cần cái đó, thiếu cái đó! Nhưng nhớ ăn là chuyện của văn hóa ! Chuyện của ngàn năm, đâu phải một ngày một buổi. Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn… kỳ cục, không sao. Đừng ép! Miễn đủ bốn nhóm: bột, đạm, dầu, rau… Mắm nêm, mắm ruốc, mắm sặc, mắm bồ hóc, tương chao… đều tốt cả. Miễn đừng quá mặn, quá ngọt…là được. Cách ăn cũng vậy. Hãy để các cụ tự do tự tại đến mức có thể được. Đừng ép ăn, đừng đút ăn, đừng làm “hư” các cụ!

Cũng cần có sự hào hứng, sảng khoái, vui vẻ trong bữa ăn. Con cháu hiếu thảo phải biết … giành ăn với các cụ. Men tiêu hóa được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ bao tử.

* Cái thiếu thứ ba là thiếu vận động!

Già thì hai chân trở nên nặng nề, như mọc dài ra, biểu không chịu nghe lời ta nữa! Các khớp cứng lại, sưng lên, xương thì mỏng ra, giòn tan, dễ vỡ, dễ gãy…! Ấy cũng bởi cả một thời trai trẻ đã “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt…” (Trịnh Công Sơn)!

Bác sĩ thường khuyên vận động mà không hướng dẫn kỹ dễ làm các cụ ráng quá sức chịu đựng, lâm bệnh thêm. Phải làm sao cho nhẹ nhàng mà hiệu quả, phù hợp với tuổi tác, với sức khỏe. Phải từ từ và đều đều. Ngày xưa người ta săn bắn, hái lượm, đánh cá, làm ruộng, làm rẫy… lao động suốt ngày. Bây giờ chỉ ngồi quanh quẩn trước TV! Có một nguyên tắc “Use it or lose it!” . Cái gì không xài thì teo! Thời đại bây giờ người ta xài cái đầu nhiều quá, nên “đầu to mà đít teo”. Thật đáng tiếc!

Không cần đi đâu xa. Có thể tập trong nhà. Nếu nhà có cầu thang thì đi cầu thang ngày năm bảy bận rất tốt. Đi vòng vòng trong phòng cũng được. Đừng có ráng lập “thành tích” làm gì! Tập cho mình thôi.. Từ từ và đều đều… Đến lúc nào thấy ghiền, bỏ tập một buổi … chịu hổng nổi là được!

Nguyên tắc chung là kết hợp hơi thở với vận động. Chậm rãi, nhịp nhàng. Lạy Phật cũng phải đúng… kỹ thuật để khỏi đau lưng, vẹo cột sống. Đúng kỹ thuật là giữ tư thế và kết hợp với hơi thở. Đó cũng chính là thiền, là yoga, dưỡng sinh… ! Vận động thể lực đúng cách thì già sẽ chậm lại. Giảm trầm cảm, buồn lo. Phấn chấn, tự tin. Dễ ăn, dễ ngủ…

Tóm lại, giải quyết được “ba cái lăng nhăng” đó thì có thể già mà… sướng vậy!

- Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (2016)

* Nguồn: https://www.dohongngoc.com/web/goc-nhin-nhan-dinh/gia-sao-cho-suong-2/

*-----*



Sunday, 6 July 2025

Tam quy, ngũ giới của cư sĩ Phật tử

 TAM QUY, NGŨ GIỚI CỦA NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT TỬ
Bình Anson

Theo tôi biết, trong Chánh tạng (Kinh, Luật, Luận) không thấy ghi một nghi thức nào cho một cư sĩ trở thành đệ tử của Đức Phật – một Phật tử. Có những bài kinh ghi lại câu chuyện một cư sĩ tại gia (vua, quan, thương gia, nội trợ, nông dân, …) khi đủ duyên để gặp Đức Phật, được Ngài khuyến dạy; sau khi nghe, vị ấy phát tâm trong sạch xin nương nhờ nơi Đức Phật, Giáo pháp và Tăng đoàn, thường gọi là quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), và từ đó trở thành một cư sĩ Phật tử. Ba câu phát nguyện đó thường được cộng đồng Theravāda tụng đọc như sau:

Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi – Con xin quy y Phật
Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi – Con xin quy y Pháp
Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi – Con xin quy Tăng

Tăng (Saṅgha) ở đây theo định nghĩa trong câu kệ tán dương ân đức Tam Bảo (SN 11.3) và trong bài kinh Châu báu (Ratana sutta, Snp 2.1) là cộng đồng chư thánh tăng, gồm những vị đã nhập dòng thánh giải thoát.

Có những bài kinh Đức Phật khuyên các đệ tử cư sĩ nên gìn giữ năm học giới (DN 5, DN 33.5, AN 3.79, AN 9.20, …). Từ đó, có câu phát nguyện gìn giữ năm học giới như sau:

1) Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không sát sinh)
2) Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không trộm cắp)
3) Kāmesumicchācāra veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không tà dâm)
4) Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không nói dối)
5) Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi (Con nguyện giữ điều học là không uống rượu và dùng các chất say)

Đây là 5 học giới để người cư sĩ nguyện học tập, gìn giữ trong đời sống có đạo đức.

Trong các cộng đồng Theravāda - Nam tông (Thái Lan, Lào, Campuchia, Sri Lanka, Myanmar), các em học sinh được nhà trường dạy tụng đọc ba câu quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới bằng tiếng Pāli ngay từ bậc tiểu học. Thêm vào đó, mỗi lần đi chùa dự lễ, hay nghe thuyết pháp, hoặc thỉnh mời chư Tăng đến nhà để cầu an, cầu siêu, chư Tăng đều đọc các câu quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới đó để mọi người cùng đọc theo, như là một hình thức nhắc nhở. Do đó, hầu như các Phật tử Theravāda đều đọc thuộc các câu Pāli này, dù rằng cách phát âm của mỗi quốc độ có vài khác biệt.

Theo tôi biết, Phật tử cư sĩ tại các quốc gia Theravāda không có những buổi lễ xin quy y chính thức, mà cũng không có pháp danh đặc biệt nào. Pháp danh thường chỉ dành riêng cho các tu sĩ xuất gia trong các buổi lễ truyền giới của tu sĩ.

Ngay cả tại Việt Nam ngày xưa, trong truyền thống Bắc tông, cũng thế. Ba má, ông bà tôi đều là Phật tử, thường đi chùa vào ngày rằm và các dịp lễ lớn. Bà cố tôi đã từng hiến đất để cất chùa trong làng. Nhưng các vị đó không tham dự một lễ quy y Tam Bảo nào, cũng không có một pháp danh nào.

Thông lệ người cư sĩ tham dự một buổi lễ chính thức xin quy y tại chùa, rồi được ban cho một pháp danh có lẽ được áp dụng tại Việt Nam vào khoảng giữa thế kỷ 20, khi có phong trào canh tân Phật giáo. Về sau, khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập vào năm 1964, lễ Quy y Tam bảo này được Giáo hội khuyến khích áp dụng rộng rãi hơn trong khắp các tỉnh thành của Việt Nam Cộng Hòa xưa.

Như tôi đã từng chia sẻ, tôi có tham dự buổi lể xin quy y Tam Bảo chính thức tại Viện Nhu đạo Quang Trung, Đa Kao, Sài Gòn, do ngài Hòa thượng Thích Tâm Giác chủ trì, và được ban cho một pháp danh và một tờ điệp quy y. Tôi không còn giữ tờ điệp này, nhưng hình thức tương tự như tờ điệp trong hình kèm theo. Bên trái tấm hình là ngài Hòa thượng Thích Tâm Giác. Đó là vào năm 1965, khi tôi học lớp đệ Ngũ (lớp 8 bây giờ) tại trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký.

Tôi hầu như không bao giờ dùng pháp danh đó vì mình không chính thức tham gia một sinh hoạt Phật sự nào khác. Về sau này, khi tôi bắt đầu tìm hiểu truyền thống Theravāda trong thập niên 1980, tôi có gặp một vị sư Nam tông gốc Việt ở Bangkok. Vị sư ấy đọc các câu Tam quy và ngũ giới tiếng Pāli để tôi đọc theo, rồi tụng kinh cầu an chúc phúc cho tôi. Sau đó, sư cho tôi pháp danh là Sucitto (nghĩa là Thiện Tâm). Tôi dùng tên này trong vài bài viết về Phật giáo, rồi thôi, không còn dùng đến nữa.

Trong thời gian qua, tôi có góp ý với vài bạn đạo về việc tham dự lễ xin quy y Tam Bảo để trở thành một Phật tử cư sĩ. Nếu có cơ hội và thuận duyên, thì đăng ký tham dự một lễ chính thức như thế cũng tốt. Đó là một kỷ niệm đẹp, nhắc nhở mình là một Phật tử, phát tâm nguyện quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới. Nếu không thuận duyên, hoặc ở những nơi xa xôi không tiếp cận được các chùa, thì chỉ cần mình có lòng thành thật, với tâm trong sạch phát nguyện trong lòng là mình tìm về quy y ở Phật, Pháp, Tăng và nguyện giữ 5 học giới là đủ. Nếu trong nhà có bàn thờ Phật thì đến trước bàn thờ, lễ lạy rồi thành tâm nói lên 3 câu quy y và nguyện thọ trì 5 giới bằng tiếng Việt cũng được. Như thế, mình trở thành một Phật tử cư sĩ. Đơn giản thế thôi. Quan trọng là ở nơi tâm nguyện chân thành của mình.

– Bình Anson
Nollamara, Tây Úc
05/07/2025

*-----*




Sunday, 15 June 2025

Giải mã bí ẩn cận tử - (7) Khi nhà khoa học trải nghiệm cận tử

 Giải mã bí ẩn cận tử
(7) Khi nhà khoa học trải nghiệm cận tử

Thùy Chi
Tuổi Trẻ Online, 13/07/2023

Có vô vàn chuyện lạ đến mức ly kỳ về trải nghiệm cận tử. Đó là chuyện người bị bệnh nan y sẵn sàng với sự kết thúc cuộc đời, là những người phải bất đắc kỳ tử như gặp tai nạn ...

Tuy nhiên, khi các nhà khoa học, đặc biệt là bác sĩ, kể lại trải nghiệm cận tử của chính mình đều được đặc biệt chú ý bởi họ là những người có kiến thức chuyên môn sâu rộng, uy tín, không dễ "cảm tính, cả tin"...

Những trải nghiệm "địa ngục, thiên đàng"

Cách đây 15 năm, tiến sĩ - bác sĩ Rajiv Parti, trưởng khoa gây mê hồi sức của Bệnh viện Tim Bakersfield ở California (Mỹ), bị sa sút sức khỏe nghiêm trọng. Các xét nghiệm y khoa kết luận ông mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. 

Ông đã trải qua phẫu thuật loại bỏ khối u, nhưng căn bệnh hiểm nghèo này vẫn chưa chịu dừng hành hạ ông. Năm 2010, ông bị sốc nhiễm khuẩn và lại tiếp tục trải qua phẫu thuật. Chính lần này, ông đã có cuộc trải nghiệm cận tử sâu sắc mà không thể quên.

Kể lại trong cuốn sách Dying To Wake Up (Chết để thức tỉnh), tiến sĩ Rajiv Parti tự sự có thể nhớ lại chi tiết hành trình trải nghiệm cận tử của chính bản thân. Đầu tiên, ông thấy mình ở trên cao và chứng kiến ca mổ trên thân xác chính mình. Ông còn nhớ lời các bác sĩ phẫu thuật trao đổi và "tán dóc" với nhau. Sau đó, ông lại thấy mình tiếp tục đến một thế giới khác, nhớ lại một số kiếp sống của mình và gặp lại người cha đã mất từ lâu.

Viết sách, vị bác sĩ gốc Ấn Độ này kể trong lúc thân xác nằm trên bàn phẫu thuật thì nơi ông đến là "biên giới địa ngục". Ông đã nhìn thấy các khung cảnh u ám, đáng sợ, nhưng người cha đã ôm ông và đưa ông đến một đường hầm ánh sáng, rồi tiếp tục là hai thiên sứ xuất hiện dẫn ông đến một nơi trong sáng, an lành. Hai thiên sứ này nói cần chữa bệnh cho thân tâm của ông và khuyên ông nên thay đổi, sống nhân ái hơn với mọi người, với bệnh nhân của mình mà trước đó ông khi là bác sĩ điều trị hay cáu giận họ...

Một trải nghiệm cận tử khác cũng được rất nhiều người quan tâm là của tiến sĩ Eben Alexande, một chuyên gia phẫu thuật não uy tín ở Mỹ. Kể lại câu chuyện cận kề cái chết của mình, ông đã viết cuốn sách Proof of Heaven (Minh chứng thiên đàng) bán rất chạy ở cả Mỹ và nhiều nước khác gồm Việt Nam. 

Nên nhớ rằng Eben Alexander có hồ sơ khoa học rất uy tín. Ông học Đại học Bắc Caroline, chuyên ngành hóa năm 1976, sau tiếp tục học lên tiến sĩ ở Đại học y khoa Duke năm 1980. Vị tiến sĩ - bác sĩ này học tiếp nội trú của Đại học y khoa Duke, Bệnh viện đa khoa Massachusetts và Đại học y khoa Harvard danh tiếng. Sau đó, Eben Alexande là nghiên cứu sinh giải phẫu não tại Anh, rồi trở thành phó giáo sư ngoại khoa của Đại học y khoa Harvard.

Năm 2008, ông Eben Alexande bị viêm màng não nghiêm trọng do E.coli gây hôn mê trong suốt một tuần. Các bác sĩ điều trị cho ông đã tư vấn gia đình nên chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Nhưng đây cũng là khoảng thời gian cho nhà khoa học này những trải nghiệm cận tử vô cùng đặc biệt mà ông đã viết rằng cuộc sống và thế giới quan của mình đã thay đổi hoàn toàn sau đó. Tuy nhiên, trải nghiệm của ông lại có điều khác biệt với trải nghiệm cận tử của nhiều người khác hay kể rằng gặp người thân đã mất, ý thức rõ được cái tôi của mình, xem lại được quá khứ.

Còn riêng với Eben Alexande không nhớ cái tôi của mình là ai, không được hội ngộ với người thân yêu đã khuất như những người khác. Thế giới kỳ lạ ông trải nghiệm là một thứ cảm giác "phi thời gian, phi biên giới" và vô tận đến nỗi ông thấy mình chỉ là "một điểm ý thức đơn độc giữa một đại dương bên ngoài giới hạn thời gian". 

Ông kể lại trong sách rằng cảm thấy bản thân mình "đi xuyên qua ánh sáng tuyệt đẹp, tới một thung lũng ngập tràn sự tươi tốt"... Ông thấy mình cũng như mỗi người khác đều có sự liên kết với mọi người, với vũ trụ bao la trong sự rộng mở của thấu hiểu và tình yêu thương. Một trải nghiệm đã làm thay đổi hoàn toàn nhà khoa học này sau khi ông tỉnh lại.

Say mê "âm nhạc thiên đàng" sau khi chết hụt

Tuy không nổi tiếng như Eben Alexande nhưng bác sĩ chuyên ngành phẫu thuật chỉnh hình Anthony Cicoria, của Bệnh viện Chenango Memorial, New York, Mỹ, cũng được các nhà nghiên cứu cận tử chú ý.

Ông sinh năm 1952, đến năm 1994 thì bị sét đánh trong chuyến đi dã ngoại cùng gia đình. Lúc đó, ông đang đứng gọi điện thoại cho mẹ ở bồn điện thoại công cộng trong khu Albany (New York) thì bị sét đánh trúng khiến tim ông ngừng đập. Người thân nghĩ ông đã không qua khỏi.

Kể lại trải nghiệm cận tử của riêng mình, bác sĩ Anthony Cicoria nói rằng khoảnh khắc bị điện giật ngã gục xuống, ông đã thấy mình tách ra khỏi thân xác vật chất để có thể thấy rõ cơ thể đang nằm đấy. Rồi ông có thể đi xuyên các vật cản như bức tường, cây cối để tới nơi phát ra ánh sáng xanh êm dịu trong sự háo hức về với Chúa... Sau đó, ông được cấp cứu tỉnh lại với cơ thể có nhiều vết bỏng.

Điều đặc biệt là sau lần đối diện với cái chết, ông tự dưng thay đổi tính cách với niềm đam mê sâu sắc âm nhạc piano cổ điển mà ông gọi là âm nhạc của thiên đường. Những giai điệu liên tục tuôn chảy vào tâm hồn để ông mua cây đàn piano đầu tiên và tập luyện, sáng tác âm nhạc để rồi được mời biểu diễn trong các dàn nhạc lớn, kể cả độc tấu piano những bản nhạc cổ điển nổi tiếng. 

Từ một người không hiểu biết về âm nhạc, bác sĩ Anthony Cicoria đã thật sự trở thành một nghệ sĩ piano đầy đam mê và tài năng khác thường sau lần bị sét đánh...

Câu trả lời vẫn còn ở phía trước

Còn rất nhiều chuyện cụ thể về trải nghiệm cận tử từ những người dân lao động bình thường đến các nghệ sĩ, bác sĩ, nhà khoa học uy tín trên khắp thế giới. Và cũng đã có nhiều nghiên cứu khoa học về vấn đề này với những kết quả thu được ở mức độ nhất định. 

Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, câu hỏi lớn của loài người là liệu có cuộc sống khác, thế giới khác sau cái chết hay không thì vẫn tiếp tục là... câu hỏi mà khoa học chưa thể giải đáp xác đáng và vẫn đang trên hành trình đi tìm câu trả lời.

Lý do là dù có không ít cá nhân kể chuyện trải nghiệm cận tử của mình rằng đã gặp lại cha mẹ đã mất, đã thấy ánh sáng thiên đàng, xuống địa ngục..., nhưng thực tế cũng có rất nhiều người được cấp cứu tỉnh lại khẳng định hoàn toàn không biết, không nhớ gì hết khi cận kề cái chết. 

Lý do thứ hai là đến nay các kỹ thuật khoa học vẫn chưa có cách nào chứng minh chính xác được những chuyện kể trải nghiệm cận tử đầy ly kỳ và nhân văn là đúng hay không ngoài niềm tin về họ là chủ yếu. Các kỹ thuật và giải pháp y tế tới nay cũng không thể thực hiện thí nghiệm đưa người ta đến ngưỡng cận tử để tìm hiểu chính xác xem họ đã thấy gì...

Thực tế, nhân loại vẫn đang "chia phe" trong câu hỏi lớn ngàn đời của loài người sẽ về đâu sau khi chết. Cơ bản là có phe hoàn toàn tin rằng con người không hoàn toàn chết đi mà sẽ tiếp tục sống ở một hình thái khác, một thế giới khác nào đó; phe hoàn toàn không tin; và phe giữa, tức những người mà chủ yếu là các nhà khoa học, vẫn đang trên hành trình đi tìm câu trả lời.

Từ phương Đông đến phương Tây đều đã, đang và sẽ tiếp tục có nhiều nghiên cứu vấn đề này. Hy vọng loài người sẽ câu trả lời khoa học khả tín ở một thời điểm nào đó: chúng ta sẽ về đâu sau khi chết.

*
Eben Alexande

Giải mã bí ẩn cận tử - (6) Trải nghiệm cận kề cái chết đánh đố khoa học

 Giải mã bí ẩn cận tử
(6) Trải nghiệm cận kề cái chết đánh đố khoa học

Dạ Thảo 
Tuổi Trẻ Online, 12/07/2023

Năm 1991, trường hợp trải nghiệm cận kề cái chết của nữ ca sĩ - nhạc sĩ Pamela Reynolds đã lan truyền khắp thế giới vì giới khoa học cho rằng trải nghiệm này không thể xảy ra.

Bệnh nhân kể đã nhìn thấy bác sĩ cưa hộp sọ

Bà Reynolds sinh năm 1956 tại Mỹ. Năm 35 tuổi, bà được chẩn đoán mắc chứng phình động mạch não. Bệnh của bà có hai trở ngại lớn.

Một là động mạch hình thành cái túi có kích thước lớn và hai là nằm ở động mạch gần thân não nhất. Do đó, động mạch có nguy cơ vỡ bất cứ lúc nào gây xuất huyết não dẫn đến tử vong.

Cơ hội sống sót của bà rất mong manh. Bà quyết định liên hệ với bác sĩ Robert Spetzler, ở Viện Thần kinh Barrow tại Arizona, bác sĩ phẫu thuật thần kinh nổi tiếng thế giới. Mặc dù tiên lượng xấu, ông vẫn đề nghị phẫu thuật não cho bà bằng một phương pháp mới được gọi là "phương pháp hạ thân nhiệt".

Trong ca phẫu thuật, các bác sĩ ngừng hoạt động tim (kết nối bệnh nhân với hệ thống tim - phổi nhân tạo), rút hết máu ra khỏi cơ thể để loại bỏ áp lực lên mạch máu, sau đó mới loại bỏ chỗ phình động mạch.

Thân nhiệt được giảm còn 15,5°C để bảo vệ não khỏi thiếu oxy. Bệnh nhân được đặt trong tình trạng chết lâm sàng trong khoảng 60 phút.

Ca mổ não thành công. Khi não bị rút hết máu và thân nhiệt giảm còn 15,5°C, lẽ ra bà không thể lưu giữ được ký ức nào.

Song điều đáng kinh ngạc là dù đã có ba lần kiểm tra lâm sàng xác nhận não đã chết, sau khi hồi tỉnh bà vẫn có thể nhận thức rõ ràng đã trải qua trải nghiệm cận kề cái chết hoàn chỉnh với các giai đoạn thoát xác, vào đường hầm, gặp bà nội và người chú đã khuất, nhìn thấy ánh sáng và cuối cùng hồi tỉnh.

Bà cho biết: "Nghe có vẻ điên rồ, đột nhiên tôi thoát đi từ phía đỉnh đầu. Tôi nhìn thấy cơ thể nằm bên dưới và tôi biết đó là cơ thể của tôi. Tôi nhìn quanh mình. Tôi không còn thấy đau nữa. Tôi nhìn thấy các bác sĩ".

Bà kể chính xác và chi tiết ca mổ dù dụng cụ dùng để khoan không bao giờ được bày ra ngoài để bảo quản vô trùng tuyệt đối. Bà có thể nghe tiếng cưa được sử dụng để mở hộp sọ và hai lần các bác sĩ khử rung tim.

Khi các bác sĩ muốn nối cơ thể bà với hệ thống tim - phổi nhân tạo, bà nghe họ nói các động mạch tại chân phải của bà quá nhỏ nên quyết định rạch một vết khác ở chân trái. Điều khiến bà thích thú là các bác sĩ có thể nghe nhạc trong phòng mổ.

Ban đầu bà Reynolds nói đùa với chồng và gia đình những gì bà thấy xảy ra trong giấc mơ. Nhưng sau khi bà kể lại, các bác sĩ và y tá xác nhận những điều bà kể đều đúng thực tế.

Bà qua đời vào tháng 3-2010 ở tuổi 54. Vì sao não ngừng hoạt động nhưng bà Reynolds vẫn trải qua trải nghiệm cận kề cái chết? Các nhà khoa học đã cố gắng giải thích vấn đề này.

Giả thiết phổ biến nhất là não thiếu oxy. Khi tim ngừng đập, não bị mất hoàn toàn hoặc một phần oxy nên não phóng thích một số chất dẫn truyền thần kinh như endorphin gây ra ảo giác.

Do tình trạng thiếu oxy thường đi kèm với nồng độ carbon dioxide (khí CO2) tăng lên trong máu, trải nghiệm cận kề cái chết có thể xuất hiện do CO2 gây ra.

Người sử dụng thuốc gây ảo giác phổ biến như LSD (ma túy), dymethyltryptamine (DMT - chất hướng thần), psilocybin (nấm ma thuật), ayahuasca (trà gây ảo giác) cũng có thể có các cảm giác như thay đổi nhận thức về thời gian, nhìn thấy quá khứ vị lai, vui vẻ và bình yên, thoát xác, gặp gỡ các sinh vật thần bí, linh hồn người quá cố hoặc nhân vật tôn giáo.

Ngoài ra, trải nghiệm cận kề cái chết có thể phát sinh khi sử dụng các hóa chất dùng trong quá trình gây mê hay não bị tổn thương làm gián đoạn giai đoạn giấc ngủ mơ. Hiện tượng thoát xác còn có thể xuất hiện sau khi kích thích điện cho não.

Bí ẩn chưa có lời giải đáp trọn vẹn

TS Bruce Greyson, ở Đại học Virginia (Mỹ), đã nghiên cứu hiện tượng trải nghiệm cận kề cái chết hơn 40 năm và đã viết hơn 100 bài đăng trên các tạp chí y học về lĩnh vực này, song ông phải thú nhận:

"Bản thân tôi là nhà khoa học và là người hoài nghi, tôi đánh giá nghiêm túc vấn đề trải nghiệm cận kề cái chết và cố gắng nghiên cứu. Song các dữ liệu nghiên cứu cho thấy đây vẫn là vấn đề bí ẩn".

Một số vấn đề chưa được giải thích như sau:

- Do ảo giác: Ảo giác thay đổi khác nhau tùy mỗi người trong khi chuyện kể về trải nghiệm cận kề cái chết đều nói đến các biểu hiện giống nhau.

- Do thuốc gây ảo giác: Chỉ DMT mới tạo ra trải nghiệm gần giống trải nghiệm cận kề cái chết. Đối với giả thiết dược phẩm gây ra ảo giác, bệnh nhân càng dùng nhiều thuốc càng ít có khả năng trải qua trải nghiệm cận kề cái chết.

- Thiếu oxy hoặc CO2: Não của người đã qua trải nghiệm cận kề cái chết có nhiều oxy hơn nhóm đối chứng. Ngoài ra, trải nghiệm này xuất hiện ở nhiều bối cảnh khác nhau như khi cái chết chắc chắn xảy tới (tai nạn giao thông...) hay khi không có nguy cơ tử vong như trầm cảm nặng, sốc tinh thần hoặc không rõ nguyên nhân.

- Kích thích điện cho não: Kích thích này chưa bao giờ tái hiện thành công hiện tượng thoát xác.

Thật ra trải nghiệm cận kề cái chết ẩn chứa nhiều bí mật vì quá trình nghiên cứu vấp phải hai trở ngại chính, một là bằng chứng và hai là làm thực nghiệm.

Bằng chứng chỉ dựa vào chuyện kể của người sống sót, vì vậy không thể xác minh đúng hay sai.

Còn về thử nghiệm thì không thể thực hiện vì lý do đạo đức.

Không thể cho ngừng tim tự nguyện, đo toàn diện về thể chất và não bộ rồi đánh thức người tham gia thử nghiệm để hỏi xem họ nhớ gì không.

Một nghiên cứu quy mô gần đây đã hé lộ ít nhiều về trải nghiệm cận kề cái chết. Nghiên cứu của Trường y khoa Đại học New York được trình bày tại hội nghị khoa học về hồi sức của Hiệp hội Tim mạch Mỹ ngày 6-11-2022 ở Chicago đã chứng minh hai điều:

Ý thức không chết khi cơ thể chết (tim ngừng đập) và các biểu hiện như thoát xác, nhìn thấy cuộc đời lướt qua không phải là ảo giác, mê sảng hoặc giấc mơ.

Nhóm nghiên cứu đã xem xét 567 bệnh nhân được hồi sức tim phổi sau khi tim ngừng đập tại 25 bệnh viện ở Anh và Mỹ từ tháng 5-2017 đến 3-2020. Từ 10 - 20% bệnh nhân hồi phục. Kết quả trong năm người sống sót có một người mô tả rõ ràng trải nghiệm cận kề cái chết.

Khi kiểm tra não của 85 bệnh nhân, nhóm nghiên cứu phát hiện não hoạt động đột biến suốt một tiếng sau khi hồi sức và xuất hiện một số sóng não thường phát sinh khi con người còn có ý thức và sử dụng nhận thức để suy nghĩ hoặc hồi tưởng ký ức.

TS Sam Parnia - nhà nghiên cứu chính - nhận xét: "Trải nghiệm được ghi nhớ và hiện tượng thay đổi sóng não có thể là dấu hiệu đầu tiên của cái gọi là trải nghiệm cận kề cái chết. Đây là lần đầu tiên chúng tôi nắm bắt được trải nghiệm này trong nghiên cứu lớn".

TS Eben Alexander là bác sĩ phẫu thuật thần kinh cấp cao ở Mỹ. Năm 2008, bản thân ông đã trải qua trải nghiệm cận kề cái chết trong lần được gây mê để điều trị bệnh viêm màng não. Ông có cảm giác bồng bềnh trên suối, thác nước và trên cánh đồng, nhìn thấy nhiều người nhảy múa, hàng triệu con bướm và trẻ em nô đùa vui vẻ.

Nghiên cứu về trải nghiệm của ông đăng trên tạp chí Bệnh Tâm Thần Và Thần Kinh (Mỹ) năm 2018 khẳng định trải nghiệm này không liên quan đến hoạt động của não vì não sau gây mê có rất ít hoặc không có hoạt động nào.

*

Pamela Reynolds

Giải mã bí ẩn cận tử - (5) Á, Âu có trải nghiệm cái chết giống nhau?

 Giải mã bí ẩn cận tử 
(5) Á, Âu có trải nghiệm cái chết giống nhau?

Dạ Thảo 
Tuổi Trẻ Online, 11/07/2023

Văn hóa có thể tác động ở mức độ nhất định đến trải nghiệm cận kề cái chết nhưng đến nay không đủ dữ liệu nghiên cứu để chứng minh.

Thời tiết trên bãi biển Tel Aviv (Israel) vào mùa hè vẫn như thường lệ. Trời nắng. Không khí ẩm. Những người lướt sóng luyện tập khi thủy triều xuống. Đột nhiên một cơn sóng cao bất thường ập tới đẩy cô gái Ila Or (18 tuổi) mắc kẹt trong đê chắn sóng. Cô uống một lượng lớn nước biển và bất tỉnh.

Không theo đạo vẫn có thể trải nghiệm cận tử kỳ lạ

26 năm sau, Ila Or kể lại câu chuyện sống sót trên báo Israel Hayom (Israel): "Tôi bắt đầu nhìn thấy toàn bộ cuộc đời diễn ra trước mắt như phim trình chiếu. Chào đời, học mẫu giáo, học trung học. 

Lúc tôi nhìn thấy đám tang của mình, tôi nghe một tiếng động lớn và cảm thấy đang rời khỏi cơ thể từ từ bay lên. Từ trên cao, tôi quan sát cơ thể mình chìm xuống nước nhưng không cảm thấy đau đớn nữa. 

Rồi tôi đến một đường hầm rất yên tĩnh. Ánh sáng trắng dẫn dắt tôi vào con đường sáng lạ thường. Tôi nhìn thấy hai bóng người mặc đồ trắng hỏi tên tôi và hỏi tôi có biết vì sao tôi lại ở đây không".

Ila Or nhớ lại lúc đó rất sợ: "Họ kể cho tôi nghe những chuyện tốt và chuyện xấu tôi đã làm trong đời. Khi nhận ra mình đang bị phán xét, tôi bắt đầu hét lên kinh hoàng rằng tôi chưa sẵn sàng chết và họ phải cho tôi sống lại. 

Tôi thuyết phục họ rằng tôi cần phải có con cái, thiên hướng của tôi là làm mẹ và tôi còn tương lai phía trước. Họ nhìn chằm chằm vào tôi cho đến khi một người đập búa và ra điều kiện nếu cho tôi trở về, tôi phải dâng hiến phần đời còn lại cho thượng đế. 

Tôi đồng ý ngay và hỏi họ tôi trở về như thế nào. Họ nói rồi tôi sẽ thấy phép lạ". Ngay sau đó Ila Or hồi tỉnh. Một thợ lặn đã kéo Ila Or lên mặt nước gần đê chắn sóng.

Chuyện kể về trải nghiệm cận kề cái chết của Ila Or ở Israel rất giống trải nghiệm của nhân chứng Julia Nicholson ở Mỹ. 

Trong tuyển tập nghiên cứu Le Bon Passage (Pháp), nhà nghiên cứu Christophe Pérez ghi nhận: "Điều khiến các nhà khoa học băn khoăn là trải nghiệm cận kề cái chết mang tính chất phổ quát, nghĩa là trải nghiệm luôn bao gồm nhiều yếu tố giống nhau bất kể văn hóa, giới tính, tuổi tác, tôn giáo hay niềm tin. 

Các nghiên cứu dù được thực hiện tại nhiều châu lục, trong các bối cảnh tôn giáo và văn hóa khác nhau đều cho thấy các trải nghiệm cận kề cái chết bao gồm nhiều yếu tố giống nhau".

TS Raymond Moody giải thích trên trang Mediapart (Pháp): "Tôi đã đến Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Nga, châu Phi, Bắc Mỹ và Nam Mỹ, ở đâu mọi người cũng kể cho tôi nghe những điều cơ bản giống nhau. 

Câu chuyện chỉ khác về hình tượng tôn giáo. Họ mượn hình ảnh từ truyền thống tôn giáo để giải thích những gì họ đã trải qua, nhưng thông thường họ lý giải: Tôi phải sử dụng từ ngữ theo truyền thống của tôi bởi đó là những từ ngữ tôi biết".

Ông lưu ý nhiều người không theo tôn giáo nào vẫn có thể trải qua trải nghiệm cận kề cái chết. 

Ông nhấn mạnh: "Dù vậy họ cho rằng có thế giới bên kia và có thượng đế. Điều này đã thay đổi đáng kể cuộc sống sau đó. Họ đã khẳng định điều quan trọng nhất mà chúng ta có thể làm là học cách yêu thương nhau".

Christophe Pérez kết luận tương tự: "Niềm tin tôn giáo không đóng vai trò gì trong trải nghiệm cận kề cái chết. Một người không tin đạo nào vẫn có trải nghiệm như tín hữu Công giáo dù họ giải thích các sự kiện khác nhau tùy theo văn hóa hoặc niềm tin tôn giáo của họ". 

Chi tiết phổ biến nhất trong các chuyện kể là luồng ánh sáng và họ lý giải luồng sáng đó là Chúa Kitô (tín hữu Công giáo), Đức Phật (Phật tử), thiên thần (tín đồ Do Thái giáo) hay sinh vật ánh sáng (người không theo đạo nào).

Hai hướng nghiên cứu khác nhau

Trong bài viết Trải nghiệm cận kề cái chết - tổng hợp tài liệu nghiên cứu đăng trên tạp chí khoa học L'Année psychologique (Pháp), các nhà nghiên cứu Pháp nhận xét hiện nay giới khoa học có hai cách tiếp cận khác nhau:

* Trải nghiệm cận kề cái chết thay đổi tùy nền văn hóa: Một số nghiên cứu đã chứng minh các chuyện kể về trải nghiệm này có khác biệt đáng kể giữa các nước phương Tây và các nền văn hóa khác. Ví dụ được trích dẫn nhiều nhất xảy ra ở Ấn Độ. 

Một buổi sáng năm 1958, ông Munnichinnappa lúc bấy giờ 12 tuổi rơi từ trên cây xuống bất tỉnh. Người thân được thông báo nạn nhân đã chết. 

Khoảng 3h chiều ông tỉnh lại và kể lại ông bị đưa xuống diêm giới Yamaloka (hoặc Yamapatna), sau đó diêm chúa Yama (thần chết theo Ấn Độ giáo và Phật giáo) đã quyết định trả ông về trần gian.

Các chuyện kể ở phương Tây cho rằng luồng ánh sáng thường được liên kết với một nhân vật quan trọng (như Chúa, Phật) hoặc gắn với cảm giác yêu thương. 

Ngược lại, tại một số quốc gia như Nhật, ánh sáng không được nhân cách hóa và không liên quan gì đến cảm xúc. Nhà nghiên cứu Keith Augustine (Mỹ) ghi nhận các biểu hiện về trải nghiệm cận kề cái chết ở Trung Quốc và Chile rất khác với chuyện kể ở phương Tây. 

Ông giải thích trải nghiệm cận kề cái chết chịu ảnh hưởng bởi kỳ vọng của cá nhân về cái chết và cuộc sống sau khi chết trong khi kỳ vọng ấy thường liên quan chặt chẽ đến văn hóa và đặc biệt là tôn giáo.

* Trải nghiệm cận kề cái chết giống nhau giữa các nền văn hóa: Một số nghiên cứu ở Iran và Israel kết luận các chuyện kể về trải nghiệm này đều giống nhau giữa các nền văn hóa. Một số nhà khoa học lập luận thật ra các biểu hiện khác nhau chỉ mang tính chất bên ngoài và là cách giải thích khác cho cùng một hiện tượng. 

Ba nhà nghiên cứu John Belanti, Mahendra Perera và Karuppiah Jagadheesan (Úc) kết luận dù các chuyện kể về trải nghiệm cận kề cái chết ở các nền văn hóa khác nhau có một số yếu tố khác biệt nhưng tựu trung vẫn có nhiều điểm tương đồng.

Tóm lại, văn hóa có thể tác động ở mức độ nhất định đến trải nghiệm cận kề cái chết nhưng đến nay không đủ dữ liệu nghiên cứu để chứng minh. 

Nói chung phần lớn nghiên cứu chỉ dựa vào các chuyện kể trong khi phương pháp thu thập và phân tích chuyện kể lại rất khác nhau nên khó so sánh. 

Ngoài ra, dù các nghiên cứu xem xét các nền văn hóa khác nhưng hầu hết lại được thực hiện ở các nước phương Tây, vì vậy vẫn cần thêm nhiều nghiên cứu mới.

Các biểu hiện như nhìn thấy đường hầm hoặc nhìn lại cuộc đời diễn ra rất ít xuất hiện trong các chuyện kể ở Ấn Độ. Nghiên cứu của TS Susan Blackmore (Anh) năm 1993 là nghiên cứu duy nhất đề cập đến đường hầm trong trải nghiệm cận kề cái chết của người Ấn Độ.

Ngược lại, một số biểu hiện không có trong chuyện kể ở phương Tây lại trở thành đặc điểm trung tâm trong các nền văn hóa khác.

Ví dụ do nhầm lẫn danh tính nên người sống sót được thần chết Yama trả về trần gian. Nhà nghiên cứu Todd Murphy (Canada) ghi nhận hiện tượng này được kể rất phổ biến ở Ấn Độ và Thái Lan. Murphy cũng ghi nhận "người Thái sợ địa ngục hơn người phương Tây". 

*


Giải mã bí ẩn cận tử - (4) Sống tốt hơn sau lần đến ngưỡng cửa cái chết

 Giải mã bí ẩn cận tử
(4) Sống tốt hơn sau lần đến ngưỡng cửa cái chết

Dạ Thảo 
Tuổi Trẻ Online, 10/07/2023

Giới y học chưa chính thức công nhận hiện tượng trải nghiệm cận kề cái chết, nhưng các công trình nghiên cứu cho thấy trải nghiệm này đã góp phần thay đổi đáng kể cuộc sống của những người sống sót.

Họ xem cái chết nhẹ tựa lông hồng

Ông Randy Schiefer nhớ lại năm 1969, lúc ông 16 tuổi, ông đã giật mình thức giấc lúc 4h sáng vì nghe tiếng hét của mẹ. 

Gia đình đang ở khách sạn trong chuyến đi nghỉ tại New Jersey (Mỹ). Cha ông lên cơn đau tim. Ông hô hấp nhân tạo cho cha qua đường miệng nhưng không kết quả. 

Ông chạy ra hành lang đập cửa kêu cứu nhưng chẳng ai giúp. Đêm đó, cha ông qua đời. Từ đó cứ mỗi lần nghĩ về cha, ông lại cảm giác thấy tội lỗi và sợ hãi đồng thời nghĩ đến cái chết của chính mình.

Tháng 3-2020, ông già ở tuổi thất thập cổ lai hy mắc COVID-19. Sau khi nhập viện, ông được gây mê và thở máy rồi mê man gần một tháng, cuối cùng vượt qua được sau đợt điều trị bằng huyết tương. 

Đến khi con gái Lisa được phép ở lại phòng bệnh chăm sóc ông, lúc bấy giờ ông mới kể cho con nghe trải nghiệm cận kề cái chết của ông.

Ông khẳng định lúc hôn mê ông vẫn còn ý thức. Ông đi qua đường hầm có ánh sáng ấm áp dẫn đến căn phòng lớn có cửa sổ hình vòm và các cửa kính màu tràn ngập ánh sáng yêu thương. 

Một quý ông đến gần bảo ông không thuộc về nơi đó nên ông phải rời đi. Ông bước qua cánh cửa gỗ sồi khổng lồ đến một thành phố dát vàng. Nơi đó giống như Paris nhưng đẹp và tinh khôi hơn. Cỏ trong công viên có màu xanh đậm khác thường.

Bất chợt ông nhận ra không biết mình đang ở đâu, làm thế nào để trở về và cảm thấy lạc lõng. Ông kể: "Tôi nhớ mình đã ngồi xuống, bắt đầu hoảng sợ rồi khóc". 

Ông cảm thấy lạnh và sợ hãi. Đột nhiên ông nhìn thấy một cầu thang lớn màu trắng vươn đến tận bầu trời. Ông leo lên cầu thang, bò bằng tay và đầu gối, sau đó ai đó gọi tên ông, túm lấy áo kéo ông xuống. Rồi mọi vật chuyển sang đen ngòm và ông tỉnh lại.

Câu chuyện trải nghiệm của ông đã được phát trên Đài phát thanh công cộng quốc gia (Mỹ). Cô con gái Lisa cho rằng đó có thể là giấc mơ hay ảo giác do ông dùng thuốc liều cao. Song ông Schiefer phản bác: "Cảm giác rất thật. Ba đã ở đó. Ba cảm thấy rất bình yên và tràn ngập tình yêu thương".

Cô còn nhận thấy hành vi ứng xử của cha cô gần như thay đổi sau khi ông xuất viện về nhà. Ông như tìm thấy năng lượng mới, tỏ ra hào hứng và lạc quan hơn chứ không sống lạc lõng như trước. 

Cô bộc bạch: "Trước khi mắc COVID-19, ba không bao giờ nói đến cái chết. Trong nhà không nói về thượng đế, không nói về thế giới bên kia". Còn bây giờ ông nói về cái chết với tâm trạng rất thoải mái. 

Ông mở lòng kể lại đêm chứng kiến ông nội cô lên cơn đau tim qua đời. Những lần hoảng loạn từng hành hạ ông từ lúc ông nội mất đã chấm dứt. Ông bắt đầu tìm hiểu sâu về tôn giáo và cầu nguyện thường xuyên.

Trả lời tạp chí Newsweek, TS Bruce Greyson ở Đại học Virginia (Mỹ) nhận xét với tư cách là bác sĩ tâm thần, ông kiếm sống bằng cách giúp bệnh nhân thay đổi lối sống nhưng rất khó thực hiện. 

Trong khi đó, trải nghiệm cận kề cái chết chỉ xuất hiện vài giây nhưng đủ sức thay đổi hoàn toàn thái độ, giá trị, niềm tin và hành vi của người sống sót.

Lần đầu tiên khi ông nghe nói người đã qua trải nghiệm này không còn sợ cái chết, ông đã lo họ dễ có ý định tự tử hơn. Song qua nghiên cứu, ông nhận thấy họ lại ít có ý định tự tử hơn nhiều so với những người chưa từng qua trải nghiệm. 

Ông kể: "Họ trả lời khi không còn sợ chết, họ cũng không còn sợ cuộc sống. Do không sợ mất tất cả, họ sẽ không sợ nắm bắt cơ hội và sống hết mình. Chính điều đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa hơn, viên mãn hơn".

Sống nhân ái hơn, không đua đòi vật chất

Trải nghiệm cận kề cái chết xảy ra đối với mọi độ tuổi dù già trẻ bé lớn, tuy nhiên các công trình nghiên cứu cho thấy tuổi càng trẻ, xác suất xảy ra trải nghiệm này càng cao hơn. 

Theo nghiên cứu của bác sĩ y khoa Pim van Lommel (Hà Lan), người đã qua trải nghiệm này có những thay đổi trong cuộc sống như sau:

- Họ không còn nhìn nhận bản thân như cũ mà trở nên khoan dung hơn với bản thân và với người khác.

- Họ trở nên cuồng kiến thức, bắt đầu tìm đọc các tác phẩm về khoa học và tâm linh.

- Họ phát triển lòng trắc ẩn đối với người khác hơn trước với nhu cầu chân thành và từ bỏ tính hung hăng.

- Họ định hướng lại các mục tiêu trong cuộc đời, ít quan tâm hơn đến sự nghiệp chuyên môn và mọi thứ vật chất như của cải, quyền lực, uy tín, danh tiếng, cạnh tranh.

- Họ xem trọng hơn các chi tiết nhỏ trong cuộc sống, người thân, bạn bè và thiên nhiên.

- Họ không còn sợ cái chết và khẳng định cái chết sẽ mở ra một hình thức tồn tại khác.

- Niềm tin vào tôn giáo có xu hướng biến mất và nhường chỗ cho tâm hồn rộng mở hơn, phổ quát hơn, không bị bó buộc vào giáo điều hay truyền thống.

- Một số người mẫn cảm hơn với ánh sáng, âm thanh, xúc giác, mùi vị.

- Cuối cùng trực giác của họ dường như phát triển hơn, họ dễ dàng đoán được cảm xúc và các vấn đề khó khăn của người khác.

TS Janice Holden (Mỹ) - chủ tịch Hiệp hội quốc tế về nghiên cứu cận kề cái chết (IANDS) - giải thích: "Về thể chất, họ thay đổi thói quen ăn uống, tránh ăn thịt và ít ngủ hơn. Tôi phát hiện một điều thú vị là các thiết bị điện sẽ bị trục trặc nếu để gần những người này. 

Ngoài ra, còn có những thay đổi về xã hội như nguy cơ ly hôn cao hơn nếu người sống sót đã kết hôn vào thời điểm xảy ra trải nghiệm. Họ sẽ thay đổi về nghề nghiệp như có sở thích mới đối với các công việc hướng đến cộng đồng như giảng dạy, tư vấn".

TS Bruce Greyson lưu ý: "Sự thay đổi này không biến mất theo thời gian. Tôi đã nói chuyện với nhiều người ở độ tuổi 90 vốn là những người từng qua trải nghiệm cận kề cái chết hồi thời niên thiếu. Họ nói mọi chuyện cứ như mới xảy ra hôm qua và họ không bao giờ có thể quay lại lối sống cũ được nữa".

TS Bruce Greyson kể: "Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân tan vỡ vì người phối ngẫu không thể chịu đựng được sự thay đổi. Tôi đã chứng kiến các quân nhân hoặc cảnh sát chuyên nghiệp không thể chịu đựng được ý tưởng làm tổn thương ai đó sau trải nghiệm cận kề cái chết.

Tôi đã chứng kiến các doanh nhân hay mua bán cắt cổ sau khi trải qua trải nghiệm này đã nhận thức rằng cạnh tranh là điều ngớ ngẩn. Và họ thường chuyển sang làm các nghề giúp đỡ người khác như chăm sóc y tế, giảng dạy, làm công tác xã hội hoặc trở thành tu sĩ ...".

*

Randy Schiefer