Thursday, 25 September 2025

I Teach Only Suffering and the End of Suffering: “Nope, I didn’t (quite) say that”—The Buddha

 I Teach Only Suffering and the End of Suffering
“Nope, I didn’t (quite) say that” —The Buddha

Bhikkhu Bodhi
Tricycle Magazine, The Buddhist Review. Winter 2013

One statement popularly ascribed to the Buddha is quoted so often that it has become virtually an axiom of modern Buddhism. The statement appears in several formulations, the broadest of which runs: “I teach only suffering and the cessation of suffering.” A variant reads: “I teach only two things: suffering and the end of suffering.” And another variant makes the point even more sharply: “I teach one thing and one thing only: suffering and the end of suffering.”

Surprise, surprise! Nowhere in the Pali canon does the Buddha himself actually say this. The statement ascribed to him is not altogether without a basis in the canon, but the way the original is commonly expressed represents a translation error rooted in a grammatical misunderstanding. The sentence we do find reads in Pali: pubbe c’aham bhikkhave etarahi ca dukkhan c’eva pannapemi, dukkhassa ca nirodham. Before I get to the grammatical error, I should point out that, contrary to what we might expect, the sentence in no way serves as a hallmark of the Buddha’s teaching in its entirety. An online search through the thousands of pages of Buddhist scriptures turns up the sentence only twice. And the two places in which it occurs make it plain that the Buddha did not mean to say he teaches only suffering and its cessation and nothing else. Rather, he was saying something quite different, which on each occasion is determined by the context.

To see how the error arose requires a short excursion into the field of Pali syntax. To construct a conjunction in Pali, the word ca, meaning “and,” normally follows each noun or phrase that it links. This, of course, is different from English, where “and” occurs between the terms being joined. Thus while in English we would say “The cat and the dog are playing on the mat,” in Pali one would say, “The cat and the dog and on the mat are playing.”

Often, though not always, the first ca in a conjunction is followed by the emphatic particle eva. By the Pali rules of liaison (sandhi), whereby sounds in close proximity affect each other, ca eva turns into c’eva. In some contexts, eva has an exclusionary sense, meaning “only, solely.” Taking eva in this sense seems to explain how the famous dictum of the Buddha came to be interpreted to mean that he teaches only suffering and its cessation. In conjunctions, however, eva does not have this exclusionary sense. It simply adds a slight emphasis to the initial ca of the conjunction. Thus, going back to our English example, the construction in Pali syntax would be as follows: “The cat and indeed the dog and on the mat are playing.”

With a proper understanding of the c’eva … ca construction, the sentence about the Buddha’s teaching is more correctly translated: “In the past, monks, and also now, I teach suffering and the cessation of suffering.” There is no “only” in the sentence, and thus the purport of the words is not categorically exclusive. In each of the passages in which the statement is made, it occurs in a specific context that brings out the intended meaning. In Majjhima Nikaya 22 it is a rejoinder to the charge, raised by hostile ascetics and brahmins, that the Buddha teaches the annihilation of a truly existent being. In Samyutta Nikaya 22.86 it explains the Buddha’s refusal to take a stand in the debates concerning the fate of an enlightened person after death. In both instances, the sentence shifts attention away from speculative hypotheses toward a practical project, but in neither case does it tie the teaching down to an exclusive area of concern.

 In thousands of suttas the Buddha teaches other things besides “suffering and its cessation.” For instance, in a series of dialogues in the Samyutta Nikaya monks ask him how one can be reborn as a naga, a garuda, or a gandhabba—that is, as a celestial dragon, a celestial eagle, or a fragrance deity—and the Buddha doesn’t wave the questions aside because they aren’t concerned with suffering and its cessation; rather, he gives straightforward answers based on the law of karma. The Anguttara Nikaya is particularly rich in suttas touching on a wide range of practical topics, from types of marriages to planning the household budget. When the Buddha speaks, it is said, he always intends his words to lead to the welfare and happiness of the hearers. But his words are not always tied to the theme of “suffering and its cessation.” To insist on confining them to this topic is to drastically narrow the range of the dharma.

 I have to confess that I am one of the perpetrators of this literary faux pas, for in several of my own past writings I authoritatively cited the wrongly rendered version of the statement as proof that the Buddha’s entire teaching was only about suffering and the end of suffering. But I’ve since learned otherwise. This experience has enabled me to see how linguistic misreadings of Buddhist texts can give rise to wrong doctrinal interpretations and even promulgate modern myths about the meaning of Buddhism. Our contemporary environment of thought, which relishes reducing complex systems of ideas to simple catchphrases and slogans, has also contributed to the distortion.

 I can’t help wondering how many other myths there are about Buddhism that owe their origins to flawed translations and selective quotations. No doubt quite a few favorites would turn up on the casualty list. It’s become a current fashion for people to ascribe any adage they like to the Buddha without entertaining second thoughts about sources. I’ve already met my share of such sayings on blogs and bumper stickers, and as time goes by I expect I’ll meet many more. But if the dharma is to be presented accurately, the example discussed above shows that we should be careful when quoting the Buddha’s words. To ensure that the dharma is understood and transmitted correctly, we cannot escape the need for serious study of the texts, with an understanding of the classical languages in which they have been preserved.

*


Sunday, 7 September 2025

Đại thừa và Tiểu thừa

 ĐẠI THỪA VÀ TIỂU THỪA
Hòa thượng Thích Minh Châu

Trong Lời Tựa bản dịch cuốn sách "Đại Thừa và sự liên hệ với Tiểu Thừa", xuất bản năm 1971 ở Sài Gòn [*], Hòa thượng Thích Minh Châu khuyên chúng ta không nên có thái độ cực đoan một chiều về danh xưng "Đại thừa" và "Tiểu thừa". Ngài viết:

(...) Ðọc kỹ tiến trình tư tưởng Phật giáo, chúng ta sẽ thấy các luận sư không vị nào là không muốn diễn đạt cho thật sự trung thành giáo nghĩa nguyên thủy của đức Từ Phụ. Dầu cho sự diễn đạt đặt dưới nhiều quan điểm và khía cạnh sai khác, lồng vào những bối cảnh có thể nói là mâu thuẫn, nhưng chúng ta vẫn nhận thấy những sóng ngầm đồng nhất, thật sự nguyên thủy trong sự cố gắng trung thành của các nhà luận sư. Cho nên quan điểm của một số học giả Pāli cho rằng những gì ngoài ba tạng Pāli là ngụy tạo, vừa nguy hiểm, vừa nông nổi nếu không phải là lạc hậu. Nguy hiểm vì tự mình phủ nhận những cố gắng trung thành với đạo Phật nguyên thủy của các nhà luận sư, như chúng ta đã thấy quá rõ ràng trong tập sách này. Nguy hiểm hơn nữa là chúng ta phủ nhận luôn những tinh hoa đạo Phật nguyên thủy do chính các nhà luận sư khai thác và diễn đạt. Nông nổi và lạc hậu, vì ngày nay các nhà học giả Phật giáo phần lớn đều chấp nhận một số tư tưởng Ðại thừa là những tư tưởng của đạo Phật nguyên thủy và xác nhận chính trong Tam tạng Pāli, được kiết tập trong một thời gian một vài thế kỷ, lẽ dĩ nhiên phải có những đoạn phi nguyên thủy xen kẽ vào. Nếu có nhà học giả nào chịu khó so sánh bốn tập A-hàm (Trung Hoa) với các tập Pāli Nikāya tương đương, các vị ấy sẽ thấy có nhiều đoạn văn A-hàm Trung Hoa lại nguyên thủy hơn các đoạn văn Pāli.

Thái độ của một số Phật tử Ðại thừa ngược lại xem những gì Tiểu thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng học hỏi cũng là một thái độ nguy hiểm, nông nổi, nếu không phải là ngây thơ, phản trí thức. Nguy hiểm vì tự nhiên phủ nhận ba tạng Pāli, bốn bộ A-hàm và các Luật tạng, những tinh hoa tốt đẹp nhất và nguyên thủy nhất của lời Phật dạy. Và làm vậy chúng ta mắc mưu các nhà Bà-la-môn giáo đã khôn khéo loại bỏ ra ngoài Phật giáo những tinh ba của lời Phật dạy, bằng cách gán cho danh từ "Tiểu thừa". Nông nổi và ngây thơ, vì thật sự danh từ Tiểu thừa và Ðại thừa không được tìm trong ba tạng Pāli và bốn bộ A-hàm và chỉ là những danh từ được tạo ra về sau. Hơn nữa, tìm hiểu quá trình lịch sử tư tưởng Phật giáo, chúng ta chỉ có thể hiểu được tư tưởng Ðại thừa sau khi chúng ta tìm hiểu được tư tưởng nguyên thủy. Loại bỏ tư tưởng nguyên thủy để tìm hiểu tư tưởng Ðại thừa cũng như thả mồi bắt bóng, và bắt bóng ở đây là bắt bóng tà ma ngoại đạo, mới thật sự nguy hiểm hơn. Các nhà gọi là Ðại thừa cần phải xác nhận một sự thật lịch sử, là các nước Tiểu thừa chống giữ sự xâm nhập của ngoại đạo tà giáo kiên trì và hữu hiệu hơn các nước Ðại thừa. Lý do chính là tư tưởng Ðại thừa và tà giáo ngoại đạo nhiều khi cách xa chỉ có gang tấc, và nhiều nhà tự cho là Ðại thừa lại sẵn sàng bước qua biên giới ấy. (...)

[*] N. Dutt. "Đại Thừa và sự liên hệ với Tiểu Thừa" (Aspects of Mahāyāna Buddhism and its relation to Hīnayāna). Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt (1971).

Tải bản PDF:
https://tinyurl.com/35hhbah9 [vn304.pdf, 3.1 MB]

*-----* 






Friday, 5 September 2025

Kinh Nhật hành Pali-Việt

KINH NHẬT HÀNH PALI-VIỆT 
Ni sư Liễu Pháp
Ni viện Viên Không, Bà Rịa Vũng Tàu

Tập kinh Nhật hành Pāli-Việt này gồm những bài kinh được tụng đọc hằng ngày trong các chùa Nam tông. Phần tiếng Việt của các bài kinh lễ bái Tam bảo là bản dịch của ngài Trưởng lão Sơ tổ Hộ Tông. Phần văn vần của các bài kinh dài là bản dịch của ngài Hòa thượng Viên Minh.

Tập kinh được soạn ra để giúp người đọc tiện theo dõi các bài kinh tụng bằng tiếng Pāli của Ni sư Liễu Pháp, Ni viện Viên Không, Bà Rịa Vũng Tàu. Ni sư đọc chậm, rõ ràng để giúp những vị nào đang tập học tụng Pāli có thể theo dõi, tụng theo dễ dàng. Độc giả có thể tham khảo các tập kinh tụng phổ biến tại các chùa Nam tông để biết thêm ý nghĩa và các chi tiết khác.

Bình Anson 
Perth, Tây Úc

Tải bản PDF về máy để đọc, phiên bản tháng 9-2025 (Pali-Việt):
https://tinyurl.com/3dy9rawn  [vn71_3.pdf, 725 KB]

* Tải tập tin âm thanh kinh tụng (MP3): 
https://tinyurl.com/y26gjnt6 (dung lượng: 118.7 MB)

* Tải tập tin video kinh tụng (MP4):
https://tinyurl.com/y5ossn5k (dung lượng: 106.1 MB)

* Xem/nghe qua YouTube:
https://www.youtube.com/watch?v=68aZpvsEACs

XIN LƯU Ý: 
Tôi soạn ra tập kinh tụng này là để giúp người đọc tiện theo dõi các bài kinh tụng tiếng Pāli của Ni sư Liễu Pháp, không phải để thay thế các tập sách kinh tụng hiện đang phổ biến tại các chùa Nam tông. Độc giả cần phải tham khảo các tập kinh tụng đó để biết thêm ý nghĩa và các chi tiết khác. 

*



Niệm chết để sống tốt

 NIỆM CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT

Mấy hôm trước tôi nghe các bài giảng Tăng chi bộ, chương Bảy pháp của ngài Tỳ-khưu Bodhi, thu âm và quảng bá trên YouTube [*]. Khi giảng bài kinh về Tưởng (Saññā sutta, AN 7.48 & 7.49) -- bảy pháp quán tưởng, trong đó có quán tưởng về chết, ngài cho biết niệm chết (maraṇasati) là một trong những pháp quán tưởng được ghi trong nhiều bài kinh và có hướng dẫn chi tiết trong cuốn Thanh tịnh đạo của Luận sư Buddhaghosa. Dựa theo kinh nghiệm bản thân, ngài nói có ba điều căn bản mà mỗi hành giả cần phải quán tưởng thường xuyên:

1) Tôi sẽ chết, không thể nào tránh khỏi.
2) Tôi sẽ chết bất cứ lúc nào, không thể biết trước được. 
3) Tôi sẽ bỏ lại tất cả khi chết, ngoại trừ Nghiệp của tôi.

Thông thường, khi nghe tin ai chết thì mình cảm thấy ngẩn ngơ, bất ngờ, buồn, rồi gửi thư chia buồn hay viết vài dòng cảm niệm về người vừa qua đời, nhưng rất ít khi nghĩ rằng rồi mình cũng chết như thế. Mình tránh, không muốn nghĩ đến, không muốn nói đến cái chết của mình, sợ bị xui xẻo hay sợ bị người khác cho rằng mình là người bi quan, tiêu cực. Dù rằng không cần thiết phải nói ra với ai, nhưng hành giả lúc nào cũng phải can đảm chấp nhận sự thật là rồi mình cũng sẽ chết như những người khác, để làm quen và có can đảm và nghị lực, không sợ sệt khi đối mặt với cái chết.

Kế đến, mặc dù chấp nhận rồi cũng chết, nhưng người ta thường lý luận tìm cách trì hoãn. Vâng, tôi sẽ chết nhưng không chết ngay bây giờ, mà sống thêm vài chục năm nữa rồi mới chết. Hành giả nên quán tưởng rằng mình có thể chết bất cứ lúc nào. Đức Phật có dạy rằng mạng sống chỉ kéo dài bằng một hơi thở. Thở vào mà không thở ra, hay thở ra mà không thở vào là chết. Mở cửa nhà bước ra đường, rồi có ai đó lái xe lơ đễnh tông trúng là chết ngay tại chỗ. Rất bất ngờ, không biết trước được. Quán tưởng như thế để mình trân quý từng giây phút sống trong hiện tại, không phí thì giờ vào những chuyện vô ích, tập trung tu tập khi mình vẫn còn sống tốt.

Cuối cùng, hành giả nên quán tưởng rằng khi chết, mình sẽ bỏ lại tất cả, chỉ mang theo được Nghiệp của mình vào kiếp sau. Tiền bạc, tài sản, địa vị, gia đình, thân quyến đều phải bỏ lại. Quán tưởng như thế để mình không bị ám ảnh, vướng mắc vào những ràng buộc của thế gian, và chú tâm thực hiện những thiện nghiệp để tạo phước báu cho đời sau.

Tóm lại, hành giả nên tập niệm chết để sống tốt. 

[*] Bhikkhu Bodhi, Perceptions Leading to the Deathless, Chuang Yen Monastery (23/08/2025) 
https://www.youtube.com/watch?v=b0MJX78YhB4  


*-----*

QUÁN TƯỞNG (Saññā, AN 7.49) – Lược trích

– Này các tỳ-khưu, có bảy quán tưởng nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh. Đó là quán tưởng về bất tịnh, quán tưởng về chết, quán tưởng về nhàm chán đối với các món ăn, quán tưởng về không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán tưởng về vô thường, quán tưởng về khổ trong vô thường, quán tưởng về vô ngã trong khổ.

(1) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về bất tịnh, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng để không đắm vào các tham dục; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(2) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về chết, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng không thích thú sự sống; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(3) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về nhàm chán đối với các món ăn, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng không thích thú với các vị nếm; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(4) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về không hoan hỷ đối với tất cả thế giới, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng với các lòe loẹt của thế giới; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(5) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về vô thường, tâm sẽ thối lui, tâm trở lưng, quay lưng với các lợi dưỡng, cung kính, danh vọng; do đó tâm vị ấy không căng thẳng, thanh thản, khởi lên nhàm chán.

(6) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về khổ trong vô thường, tâm sẽ nhận thức sắc bén sợ hãi về sự nguy hiểm của thụ động, biếng nhác, thả lỏng, phóng dật, không chú tâm, không quán sát; ví như phải đối mặt với một kẻ giết người giơ đao lên.

(7) Khi một tỳ-khưu sống với quán tưởng về vô ngã trong khổ, tâm sẽ thoát khỏi các tư tưởng về ngã, ngã sở, ngã mạn đối với cái thân có thức nầy và đối với tất cả tướng ở ngoài; vượt qua mọi so sánh phân biệt, được an tịnh, khéo giải thoát.

Này các tỳ-khưu, đó là bảy quán tưởng nếu được tu tập, được làm cho sung mãn, sẽ có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.  – (AN 7.49)

*-----*



Tuesday, 2 September 2025

Diễu võ hay Diễn võ, Diệu võ?

 DIỄU VÕ HAY DIỄN VÕ, DIỆU VÕ?

Nhân khi bàn luận về từ “diễu binh” và “diễn binh”, một người bạn trẻ có đề cập đến thành ngữ “diễu võ dương oai” để minh chứng cho cách dùng từ “diễu”. Quả thật là bây giờ khi dùng Google để tìm thì thấy rất nhiều các bài viết trên mạng dùng thành ngữ này với từ “diễu”. Nhưng nếu truy tìm với thành ngữ “diễn võ dương oai” thì thấy vẫn có một số bài viết dùng với từ "diễn". Tôi nhớ khi còn ở Sài Gòn trước 1975, tôi chỉ biết câu “dương oai diễn võ” viết với từ “diễn”.

Tìm tòi trên mạng qua Google, tôi biết thêm là thành ngữ trên bắt nguồn từ câu tiếng Hán là 耀武揚威 - Diệu vũ dương uy, trong đó, 耀 Diệu (bộ Vũ) là làm cho chói sáng, phô trương, khoe khoang.

Như thế, trong trường hợp này, "Diễu" và "Diễn" là cách phát âm vùng miền của từ "Diệu 耀". Có lẽ chúng ta nên viết câu đó là “diệu võ dương oai” với từ "diệu võ" thì chính xác hơn. Việt Nam Tự Điển của Nguyễn Văn Đức, xuất bản ở Sài Gòn năm 1970, có ghi câu "Diệu võ dương oai" và định nghĩa là "làm tàn, làm ra bộ nghênh ngang, khoe khoang sức mạnh". Dùng Google để truy tìm với thành ngữ "diệu võ dương oai" thì cũng sẽ thấy nhiều bài viết và vài tự điển trực tuyến đề cập đến từ "diệu võ".

*