Tuesday, 20 August 2019

HÃY TẬN DỤNG THỜI GIAN SỐNG MỖI NGÀY - Ni sư Ayya Khema


HÃY TẬN DỤNG THỜI GIAN SỐNG MỖI NGÀY
Ni sư AYYA KHEMA
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

Giờ đã đến lúc trở về nhà sau khóa thiền. Để có thể mang theo nhiều lợi lạc nhất, chúng ta cần biết cách tổ chức cuộc sống hằng ngày của mình. Nếu ta trở về và cũng hành xử giống như trước đây, thì chỉ sau một tuần ta sẽ quên hết mọi thứ. Và khi đến với một khóa thiền khác trong tương lai, ta lại phải bắt đầu mọi thứ trở lại.

Làm sao ta biết mình còn bao nhiêu thời gian trong cuộc sống này. Đây là cuộc sống duy nhất mà ta có trách nhiệm. Ở đây ta còn có thể quyết định ngày nay làm gì. Tương lai không hiện hữu. Nói rằng, “Tôi sẽ hành thiền ‘ngày mai”, là dại khờ. Không có ngày mai, chỉ có giây phút này. Khi cuộc sống kế tiếp đến, nó là cuộc sống này; thực ra đây là cuộc sống kế tiếp của ta. Có rất nhiều duyên cớ để không hành thiền hôm nay: Thời tiết, con cái, chồng, vợ, kinh tế, thực phẩm, đủ mọi thứ chuyện trên đời. Tuy nhiên, điều gì là tối ưu, là quyết định của riêng ta.

Nếu tương lai không hiện hữu và quá khứ đã hoàn toàn qua đi, thì ta còn lại gì? Một giây phút thoáng qua, như giây phút này đây. Ta chưa nói dứt câu, nó đã qua đi rồi. Nhưng nếu biết sử dụng từng giây phút một cách khôn ngoan, dần dần ta có thể có từng giây phút tỉnh thức, và kết quả là tuệ sâu lắng.

Buổi sáng thức dậy, việc đầu tiên ta cần làm là quyết tâm giữ chánh niệm. Có ý thức khi mở mắt, là bắt đầu một ngày, là bắt đầu chánh niệm. Nếu mở mắt trước khi có ý thức về hành động này, ta có thể nhắm mắt lại và bắt đầu lại. Từ hành động nhỏ đó, ta sẽ hiểu chánh niệm là gì; sau đó hãy để tâm tràn ngập hàm ân vì được có thêm một ngày trọn vẹn, cho một mục đích duy nhất. Không phải là để nấu một bữa ăn ngon hơn, không phải để mua sắm thứ này thứ nọ, mà là để tiến gần hơn đến Niết-bàn. Ta cần phải có đủ trí tuệ để biết làm thế nào đạt được mục đích đó. Đức Phật đã thuyết giảng điều này bao lần, nhưng dường như ta không nghe thấy, không hoàn toàn tiếp nhận những lời giáo huấn của Ngài. Nên ta cần phải nghe chúng nhiều lần.

Lòng biết ơn mang đến cho tâm trạng thái cởi mở, hoan hỷ về việc “Tôi sẽ làm gì với ngày hôm nay?”. Việc đầu tiên phải là ngồi xuống hành thiền, có thể phải dậy sớm hơn. Đa số người ta chết trên giường, một nơi thật phù hợp để chết, nhưng không phù hợp lắm để nằm đó hằng giờ một cách không cần thiết. Nếu đã qua thời thanh xuân, ta không cần ngủ nhiều nữa.

Trong nhiều gia đình, 6 giờ sáng đã ồn ào tiếng động. Nếu thế, ta cần dậy sớm hơn để tránh điều đó. Chỉ vậy cũng cho ta cảm giác hài lòng, vì đã làm điều gì đó đặc biệt để tiến gần hơn đến Niết-bàn. Nếu có đủ một tiếng để hành thiền, càng tốt; ít nhất không dưới nửa tiếng, vì tâm cần thời gian để thu nhiếp và tĩnh lặng. Buổi sáng thường là giờ tốt nhất cho nhiều người, vì qua một đêm tâm không bận rộn với nhiều việc như trong ngày, nên dễ trở nên tĩnh lặng hơn. Nếu bạn bắt đầu hành thiền trong nửa tiếng, rồi từ từ tăng dần lên được một tiếng, là điều tốt. Mỗi tuần ta thêm mười phút vào việc thực hành hằng ngày.

Sau thời thiền, chúng ta có thể suy nghĩ về năm điều quán tưởng hằng ngày. Giờ thì tâm ta đã thu nhiếp, tĩnh lặng và có nhiều khả năng để đạt đến nội tâm sâu lắng hơn.

1) Tôi phải bị hoại diệt
Tôi không thể tránh bị hoại diệt.

2) Tôi phải bị bệnh
Tôi không thể tránh bệnh.

3) Tôi phải chết
Tôi không thể tránh cái chết.

4) Tất cả những gì thuộc về tôi, thân thiết, quý yêu, sẽ đổi thay và biến mất.

5) Tôi là chủ của nghiệp
Tôi sinh ra từ nghiệp
Tôi liên hệ với nghiệp
Tôi sống bởi nghiệp
Bất cứ nghiệp gì tôi tạo, tốt hay xấu, tôi đều thừa hưởng.


Các câu kệ không cần phải chính xác lắm. Ngôn từ chỉ là khái niệm, ý nghĩa đằng sau đó mới quan trọng; sự vô thường của thân, của những gì ta nghĩ thuộc về ta, như con người, vật thuộc, và trách nhiệm về nghiệp của riêng mình.

Những điều quán tưởng khác nữa là thái độ thương yêu, tử tế đối với bản thân và người, việc bảo vệ hạnh phúc của riêng mình cũng như mong cho tất cả chúng sinh đều được như thế:

Xin cho tôi không có oán thù
Xin cho tôi không bị hãm hại

Xin cho tôi không phải phiền não về thân tâm
Xin cho tôi bảo vệ được hạnh phúc của bản thân.

Chúng sinh dẫu ở nơi nào
Xin cho họ không có oán thù.

Chúng sinh dẫu ở nơi nào
Xin cho họ không bị hãm hại.

Chúng sinh dẫu ở nơi nào
Xin cho họ thân tâm không phiền não.

Chúng sinh dẫu ở nơi nào
Xin cho họ bảo vệ được hạnh phúc của bản thân.

Đã quán tưởng về hai phần này một cách có ý nghĩa, ta có thể nhớ ba điều này trong tâm. Đầu tiên là chánh niệm, sự chú tâm đến trạng thái hiện hữu. Đó có thể là một hoạt động nơi thân với tâm không phóng dật, hay một cảm thọ, một tư tưởng vừa phát khởi. Hoàn toàn chú tâm đến điều đó, không cố gắng khỏa lấp nó dưới những mảnh vỡ vụn vặt, mà biết chính xác điều gì đang xảy ra trong đời ta.

Khi các hoạt động vật lý không đòi hỏi sự chú tâm, ta lại có thể hướng tư duy của mình đến các trạng thái thoáng qua trong chính cuộc đời của mình hay của ai đó, và quán chiếu xem ta cần làm gì trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà ta có. Khi ta quán tưởng điều này một cách chín chắn thì lòng từ bi, tình thương yêu, tâm muốn cống hiến, giúp đỡ người trở thành những chọn lựa ưu tiên. Chúng ta không cần phải giúp đỡ nhiều người ngay lập tức. Nhưng ngay cả giúp đỡ chỉ một người, có thể là người cùng sống trong một nhà, cũng đều hữu ích. Chính là hành vi và động lực mới đáng kể, không phải kết quả.

Nhiều người muốn làm điều tốt, nhưng mong đợi sự biết ơn. Đó là duy vật tâm linh, vì họ muốn có một sự đáp trả nào đó cho lòng tốt của họ, chí ít cũng là một sự tái sinh tốt đẹp. Điều đó cũng giống như bị hành hạ đớn đau, dù không phải trong ngục tù, mà do chờ đợi kết quả mang đến. Ta có thể buông bỏ cả hai thái độ và thiết lập thực tại rằng “Đây là ngày duy nhất còn lại của tôi, hãy để tôi sử dụng nó một cách hiệu quả nhất”. “Nếu tôi chỉ còn một ít thời gian trong kiếp sống này, thì điều gì quan trọng bậc nhất đối với tôi?” Sau đó chúng ta sống với ý thức rằng để đến gần với Niết-bàn hơn, ta phải buông bỏ ngã mạn, sự quan tâm đến ngã, những thứ ta thích hay không thích, vì nếu không cái ngã của ta sẽ ngày càng bành trướng thay vì thu nhỏ lại. Khi ta càng chấp ngã, khẳng định cái ngã xuyên suốt cuộc đời, nó càng lớn hơn, to béo hơn, thay vì teo tóp lại. Ta càng nghĩ đến sự quan trọng của ta, càng lo lắng, chăm sóc tự thân, ta càng xa cõi Niết-bàn, càng ít có cơ hội tìm được an vui, hạnh phúc trong cuộc sống.

Nếu một người to béo, tìm cách đi qua cánh cửa hẹp, thì người đó phải chèn ép thân, làm thân trầy xước. Nếu cái ngã của ai đó qua to béo, thì vị đó phải luôn va chạm với người khác, phải bị tổn thương, trong khi cái ngã của tha nhân lại trở thành cửa chắn mà người đó va vào. Nếu ta luôn kinh nghiệm những điều như thế, ta phải nhận ra rằng, đó không phải do lỗi của người, mà chính là do ta.

Nếu ta bắt đầu mỗi ngày với những suy nghĩ, quán tưởng như thế, ta sẽ trở nên bớt quan tâm đến tự ngã, mà cố gắng để nghĩ đến người khác. Dĩ nhiên, tai nạn vẫn có thể xảy ra. Tai nạn của việc thiếu chánh niệm, không để ý đến việc đang làm, tai nạn của các phản ứng mạnh mẽ, bản năng, hay do cảm giác tự thương hại. Những trường hợp đó cần được nhìn nhận cho đúng, là tai nạn, là thiếu chánh niệm. Không cần phải trách người hay trách mình. Ta chỉ cần biết là ở giây phút đó ta không có chánh niệm, và cố gắng sửa đổi lần sau. Chỉ có bậc A-la-hán, đã hoàn toàn giác ngộ, mới không gặp phải những tai nạn như thế.

Đức Phật không dạy chúng ta phải thể hiện tình cảm hay đè nén chúng. Thay vào đó Ngài dạy rằng chỉ có bốn tình cảm tối thượng (bốn tâm vô lượng: từ, bi, hỷ, xả - brahma viharas) là những tình cảm đáng có, còn mọi thứ khác ta chỉ cần biết rồi để chúng qua đi. Nếu sân hận khởi lên, ta có đè nén hay bộc lộ ra ngoài đều vô ích. Ta cần biết sân đã khởi, nếu không ta sẽ không bao giờ có thể chuyển đổi các phản ứng của mình. Ta có thể quan sát nó khởi lên rồi qua đi. Tuy nhiên, nhiều người khó làm được việc này; vì sân không qua đi nhanh chóng. Nhưng ta có thể nhớ rằng khi bày tỏ sự giận dữ có nghĩa là cái ngày đặc biệt đó, mà thực ra là một phần đời của mình, đã chứa đựng một sự việc kém vui, do đó ta có thể cố gắng thay thế, sửa đổi. Thay thế tình cảm này bằng một tình cảm khác dễ hơn là hoàn toàn loại bỏ nó. Loại bỏ là một hành động cố ý buông bỏ. Ta đã biết qua kinh nghiệm thiền quán rằng ta có thể thay thế vọng tưởng với sự chú tâm vào hơi thở; trong cuộc sống đời thường ta thay thế sự bất thiện với điều thiện lành.

Ta thường nổi sân với ai đó. Đối với người không quen biết, ta không quan tâm. Ta thường quan tâm đến người ta biết hay ở gần ta. Nếu như thế, ta cũng nên biết đến một vài đức tính của những người này. Do đó thay vì chỉ nhìn thấy những hành động tiêu cực của người đó, ta có thể chú tâm đến những điều tốt nơi họ.

Dầu họ có thể vừa nói những lời trái tai mà ta không thích nghe, nhưng ở lúc khác họ có thể nói những điều phải lẽ. Họ cũng biết làm điều thiện, cũng thể hiện tình thương yêu, tâm từ bi. Cho nên vấn đề là chuyển mục tiêu chú tâm, như ta đã tập làm trong thiền định. Nếu điều đó chưa trở thành thuần thục trong thiền tập thì sẽ rất khó thực hành trong đời sống hằng ngày, nhưng với sự kiên trì thực tập ta sẽ làm được. Ta phải thực hành bất chấp mọi khó khăn. Ta chuyển sự chú tâm từ chỗ này sang chỗ khác, chỉ cần làm như thế mà thôi. Làm được thế ta sẽ tự bảo vệ mình khỏi rơi vào các nghiệp ác, khỏi làm uổng phí một ngày trong đời ta. Biết đâu ta không còn ngày nào khác nữa.
Kết quả tức thời của tất cả những ý nghĩ, lời nói, hành động của ta khá rõ ràng. Nếu chánh niệm, ta sẽ biết rằng cảm xúc và ý nghĩ thiện sẽ mang lại cho ta bình an, hạnh phúc, trong khi điều xấu ác sẽ mang lại khổ não. Chỉ có kẻ khờ mới cốt ý khiếnmình phải đaukhổ. Vì chúng takhông phải là kẻ khờ, ta sẽ cố gắng loại bỏ tất cả mọi bất thiện trong tư duy, cảm xúc và cố gắng thay thế chúng bằng điều thiện. Tất cả mọi người đều tìm kiếm một thứ, đó là hạnh phúc. Khổ đau chỉ phát khởi qua chính ý nghĩ, hành động và phản ứng của ta.

Chúng ta chính là người tạo ra hạnh phúc hay khổ đau cho bản thân. Ta có thể huân tập để làm chủ điều đó. Thiền tập của ta càng tiến bộ thì điều đó càng dễ thực hiện, vì tâm cần có sức mạnh để làm thế. Tâm phóng dật không có sức mạnh, không có uy lực. Dĩ nhiên, chúng ta không thể mong đợi những kết quả mỹ mãn qua đêm, nhưng ta có thể tiếp tục thực hành. Nếu nhìn lại sau một thời gian thực hành, ta sẽ thấy sự chuyển đổi. Nếu chỉ mới thực hành một, hai ngày thì không thể có sự chuyển đổi bên trong. Cũng giống như khi ta trồng rau. Nếu ta vừa trồng hạt giống xuống, hôm sau đã đào lên thì ta cũng chỉ thấy hạt giống. Nhưng nếu sau khi gieo hạt, ta chăm sóc nó, cho nó thời gian thì ta sẽ thấy cây đâm chồi, kết quả. Cứ đào xới để xem kết quả liên tục chẳng ích lợi gì, nhưng qua thời gian, nhìn lại, ta sẽ thấy được sự thay đổi.

Nếu ta có cuốn sổ ghi lại mỗi cuối ngày các hoạt động của mình là điều tốt. Bất cứ người chủ cửa hàng nào cũng thường kiểm kê lại hàng hóa của mình vào cuối ngày để xem món hàng nào được khách ưa chuộng và món nào ế ẩm. Dĩ nhiên, người đó sẽ không mua thêm những món hàng ế, mà sẽ đặt thêm các thứ bán chạy. Trong ngày, ta có thể kiểm tra hành động, phản ứng của mình để xem hành động nào mang đến hạnh phúc cho mình, cho người và phản ứng nào không được tiếp nhận. Ngày hôm sau, ta sẽ không lặp lại các hành động, phản ứng đó, mà để chúng tiêu rụi đi. Nếu ngày này qua ngày kia, ta đều kiểm kê như thế, ta sẽ thấy hành động nào được chấp nhận thì luôn được chấp nhận, hay ngược lại cũng thế. Sự tử tế, nồng hậu, quan tâm đến người khác, hay giúp đỡ, quan tâm, chia sẻ đều luôn được tiếp đón. Chỉ quan tâm đến mình, khó chịu, cãi cọ, ganh tỵ luôn bị phản kháng. Mỗi ngày ta có thể viết xuống những hành động được tiếp nhận một bên, và không được tiếp nhận một bên khác, bất chấp chúng có mang đến hạnh phúc hay không. Khi làm thế, ta sẽ thấy là các phản ứng đối với cùng một tác nhân sẽ giống nhau. Bảng cân đối này sẽ cho ta nhiều động lực để chấm dứt các phản ứng bất thiện đã được hình thành trong ta từ trước đây. Chúng ta đã sử dụng chúng hằng bao năm, bao kiếp sống, và chúng luôn đưa đến khổ đau. Nếu ta có thể viết chúng xuống một cách rõ ràng, và biết chúng rõ ràng trong tâm, chắc chắn là ta sẽ cố gắng thay đổi.

Bắt đầu một ngày với quyết tâm giữ chánh niệm, quán chiếu về những việc xảy ra trong ngày, với nhận thức rằng đây là ngày duy nhất mà ta có, và sử dụng nó một cách tốt đẹp nhất, sau đó vào buổi tối kiểm kê lại trên bảng cân đối, sẽ cho ta một ngày sống trọn vẹn như một đời. Nếu ta làm việc này một cách cẩn trọng, thường trực, thì ngày hôm sau, hay kiếp sau, ta sẽ có được những kết quả thuận lợi. Nếu ta trải qua một ngày đầy tranh cãi, bực bội, lo âu, sợ hãi, thì ngày hôm sau cũng sẽ xảy ra giống như thế. Nhưng nếu ngày của ta đầy tình thương yêu, quan tâm, giúp đỡ cho người, ta sẽ thức giấc ngày hôm sau với những điều tương tự. Ý nghĩ cuối cùng trước khi ngủ sẽ là ý thức đầu tiên vào sáng hôm sau. Nghiệp quả sẽ trổ vào ngày hôm sau, không phải đợi đến kiếp sau. Quá mù mịt. Ta làm gì bao giờ, sẽ thấy kết quả ngày hôm sau.

Trước khi đi ngủ, hãy hành thiền tâm từ, rất ích lợi. Làm việc đó cuối cùng trước khi ngủ, nó sẽ là điều đầu tiên xuất hiện trong tâm ta sáng hôm sau. Đức Phật đã nói về kết quả của tình thương yêu như sau: “Ngủ bình an, không ác mộng, tỉnh giấc an bình”. Ta còn muốn gì hơn thế nữa chứ? Hãy sử dụng nguyên tắc này ngày này qua ngày khác, thì không có lý do gì mà cuộc sống của ta không được an ổn. Đó là cách sử dụng tốt nhất mỗi ngày trong cuộc sống của ta. Không có ai làm điều đó cho ta, nếu ta không tự làm cho bản thân. Không có ai khác quan tâm đến việc làm cho mỗi ngày trong cuộc sống của bạn được tốt đẹp nhất. Ai cũng tự lo cho bản thân họ. Ta không thể dựa vào người khác để tìm hạnh phúc cho bản thân.

Về việc hành thiền, chúng ta không được để việc thực hành trôi đi. Nếu không, ta lại phải bắt đầu trở lại. Nếu ta tiếp tục hành thiền mỗi ngày, ít nhất ta cũng duy trì được mức độ mà mình đã đạt được trong khóa tu thiền, mà cũng có thể tiến bộ hơn. Giống như vận động viên mà không thường xuyên tập luyện, sẽ phải bắt đầu trở lại, với tâm cũng thế. Nó cũng cần có kỷ luật, sự quan tâm theo dõi, vì nó là chủ của ngôi nhà bên trong bạn.

Không ai có thể bảo ta làm điều này, điều nọ, ngoại trừ tâm. Ta cần cho nó cơ hội nghỉ ngơi, dừng suy nghĩ một chút, có giây phút của tĩnh lặng, bình an, để nó có thể tái tạo bản thân. Không có sự làm mới năng lượng, tâm sẽ hao mòn giống như tất cả mọi thứ khác. Nếu tâm được chăm sóc, nó sẽ chăm sóc lại ta.

Đây chỉ là nét phác họa cách ta sử dụng một ngày cho công việc và sự tu tập. Đừng bao giờ nghĩ rằng Pháp chỉ có mặt tại các khóa tu hay vào những ngày đặc biệt nào đó: Đúng hơn nó là cách sống qua đó ta không quên tính chất vô thường và khổ của cuộc đời. Ta nhận thức được những sự thật này trong tâm, chứ chỉ suy nghĩ về chúng cũng chẳng ích lợi gì. Nếu mỗi ngày ta đều tu tập theo cách này, ta sẽ rũ bỏ được âu lo, những mối quan tâm vì chúng luôn dính dáng đến thế tục. Còn Pháp thì thăng hoa thế tục.

* * *

Sách: CHÁNH NIỆM, Thực tập Thiền quán - Hòa thượng Henepola Gunaratana

Sách: 
CHÁNH NIỆM, Thực tập Thiền quán
Hòa thượng Henepola Gunaratana
Nguyễn Duy Nhiên dịch.

Nguyên tác: Mindfulness in Plain English, by Bhante Henepola Gunaratana (2011)

Tải về bản PDF, song ngữ Việt-Anh:

=> http://budsas.net/sach/vn68.pdf

* MỤC LỤC

Lời giới thiệu

01. Vì sao phải quan tâm đến thiền?
02. Những gì không phải là thiền?
03. Thiền là gì?
04. Thái độ
05. Sự thực tập
06. Phương cách điều thân
07. Phương pháp điều tâm
08. Ngồi thiền
09. Chuẩn bị trước khi ngồi thiền
10. Những khó khăn trong lúc ngồi thiền
11. Đối trị với sự xao lãng - Phần I
12. Đối trị với sự xao lãng - Phần II
13. Chánh niệm (Sati)
14. Niệm và định
15. Thiền tập trong đời sống hằng ngày
16. Được gì cho ta?
Năng lực của tâm từ
   
---------

Sách: BÁT CHÁNH ĐẠO, Con Đường Đến Hạnh Phúc - Hòa thượng Henepola Gunaratana

Sách: BÁT CHÁNH ĐẠO, Con Đường Đến Hạnh Phúc 
Hòa thượng Henepola Gunaratana, Diệu Liên Lý Thu Linh dịch.

Nguyên tác: Eight Mindful Steps to Happiness, Walking the Buddha’s Path. Bhante Henepola Gunaratana (2001)

Tải về bản PDF, song ngữ Việt-Anh:

=> http://budsas.net/sach/vn67.pdf

* MỤC LỤC

VỀ TÁC GIẢ
LỜI CẢM TẠ CỦA TÁC GIẢ
LỜI NGƯỜI DỊCH
LỜI NÓI ĐẦU

Sự Khám Phá của Đức Phật
Ý Nghĩa Của Hạnh Phúc
Nguồn Hạnh Phúc
Cái Bẫy Của Khổ Đau
Từng Bước Tu Tập
Hỗ Trợ Cho Sự Thực Tập
Khởi Đầu Của Sự Thực Hành Chánh Niệm

CHÁNH KIẾN (BƯỚC 1)
Lý Nhân Quả
Tứ Diệu Đế
Chánh Niệm Về Chánh Kiến
Tóm Lược Về Chánh Kiến

CHÁNH TƯ DUY (BƯỚC 2)
Buông xả
Tình thương yêu
Tâm Từ Bi
Chánh Niệm Về Chánh Tư Duy
Tóm Lược Về Chánh Tư Duy

CHÁNH NGỮ (BƯỚC 3)
Nói Sự Thật
Lời Nói Không Phải Là Vũ Khí
Lời Nói Hòa Nhã
Tránh Nói Chuyện Phù Phiếm
Chánh Niệm Về Chánh Ngữ
Tóm Lược Về Chánh Ngữ

CHÁNH NGHIỆP (BƯỚC 4)
Năm Giới
Chánh Niệm Về Chánh Nghiệp
Tóm Lược Về Chánh Nghiệp

CHÁNH MẠNG (BƯỚC 5)
Các Câu Hỏi Để Đáng Giá Chánh Mạng
Tuân Giữ Chánh Mạng
Chánh Niệm Về Chánh Mạng
Tóm Lược Về Chánh Mạng

CHÁNH TINH TẤN (BƯỚC 6)
Mười Kiết Sử
Năm Triền Cái
Tứ Chánh Cần
Cái Nhìn Toàn Diện
Chánh Niệm Về Chánh Tinh Tấn
Tóm Lược Về Chánh Tinh Tấn

CHÁNH NIỆM (BƯỚC 7)
Bốn Lãnh Vực Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ)
Chánh Niệm Về Thân (Quán Thân)
Chánh Niệm Về Thọ
Chánh Niệm Về Tâm
Chánh Niệm Về Đối Tượng Tâm
Tóm Lược Về Sự Thực Hành Chánh Niệm

CHÁNH ĐỊNH (BƯỚC 8)
Thiền Định
Các Tầng Thiền Định
Chánh Niệm Về Chánh Định
Tóm Lược Về Chánh Định

LỜI KẾT
Lời Hứa Khả Của Đức Phật
Giác Ngộ
Hãy Đến Để Thấy

HIỆU ĐÍNH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
--------

Sách: VÔ NGÃ, VÔ ƯU. Being Nobody, Going Nowhere. Ayya Khema (1987)

VÔ NGÃ, VÔ ƯU. 
Ni sư Ayya Khema, Diệu Liên Lý Thu Linh dịch.

Nguyên tác: Being Nobody, Going Nowhere. Ayya Khema (1987)


Tải về bản PDF, song ngữ Việt-Anh:

=> http://budsas.net/sach/vn66.pdf

* MỤC LỤC

Lời Tựa
Tác Giả
Lời Người Dịch

CHƯƠNG 1: THIỀN - LÝ DO VÀ PHƯƠNG PHÁP
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA THIỀN ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÚNG TA.
CHƯƠNG 3: THANH TỊNH VÀ TỈNH GIÁC
CHƯƠNG 4: TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
1. Từ
2. Bi
3. Hỷ
4. Xả
CHƯƠNG 5: TỪ BI QUÁN
CHƯƠNG 6: NĂM CHƯỚNG NGẠI
1. Tham
2. Sân
3. Hôn trầm
4. Trạo cử
5. Mạn Nghi
CHƯƠNG 7: NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI
1. Nghiệp
2. Luân Hồi
CHƯƠNG 8: KINH TỪ BI
CHƯƠNG 9: BỐN HỶ LẠC
1. Hỷ Lạc Do Các Cảm Thọ Mang Đến
2. Hỷ Lạc Của Chư Thiên
3. Hỷ Lạc Qua Nhiếp Tâm
4. Hỷ Lạc Qua Kiến Tánh
CHƯƠNG 10: NGŨ UẨN
1. Thân (Sắc)
2. Thọ
3. Tưởng
4. Hành
5. Thức
CHƯƠNG 11: MƯỜI ĐIỀU THIỆN
1. Bố Thí
2. Giới Hạnh
3. Xuất Ly
4. Trí Tuệ
5. Tinh Tấn
6. Kiên Nhẫn
7. Chân Thật
8. Quyết Tâm
9-10. Tâm Từ Tâm Xả
CHƯƠNG 12: TỨ DIỆU ÐẾ VÀ BÁT CHÁNH ÐẠO
Tứ Diệu Ðế
Bát Chánh Ðạo
1. Chánh Kiến
2. Chánh Tư duy
3. Chánh Ngữ
4. Chánh Nghiệp
5. Chánh Mạng
6. Chánh Tinh Tấn
7. Chánh Niệm
8. Chánh Ðịnh
CHƯƠNG 13: MỘT CUỘC BẮT ĐẦU MỚI

------------

Sách: TÓM LƯỢC CÁC BÀI GIẢNG, W. Heart & S.N. Goenka

TÓM LƯỢC CÁC BÀI GIẢNG, W. Heart & S.N. Goenka
Nguyên tác: “The Discourse Summaries of S.N. Goenka”, Talks from a ten-day course in Vipassana meditation, condensed by William Hart.

Tải về bản PDF dạng song ngữ Việt-Anh:

=> http://budsas.net/sach/vn65.pdf

* * *

Sách: NGHỆ THUẬT CHẾT, V. Hamilton & S.N. Goenka

NGHỆ THUẬT CHẾT, V. Hamilton & S.N. Goenka
Nguyên tác: The Art of Dying, by Vipassana Meditation Teacher S.N. Goenka and others (2014).

Tải về bản PDF dạng song ngữ Việt-Anh:

=> https://tinyurl.com/2trafyzs (vn64.pdf, 2.6 MB)

* MỤC LỤC
Kính dâng
Lời dẫn
Đôi nét về Ngài S. N. Goenka
Một ngày qua
Đôi dòng về sách này
Về pháp thiền Vipassana

Sự ra đi trong Chánh pháp của mẹ tôi - S. N. Goenka
Tuệ giác Phật
Hiện hữu như thật - đã và đang - Graham Gambie
Sự ra đi của Graham - Anne Doneman
Điều gì xảy ra lúc chết? - S. N. Goenka
Paṭicca Samuppāda - Nguyên lý duyên khởi - S. N. Goenka
Một cái chết mẫu mực - S. N. Goenka

HỎI ĐÁP VỚI THẦY GOENKAJI – PHẦN I: HỘ NIỆM NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU LÚC SẮP CHẾT
- Chỉ khoảnh khắc hiện tại - Virginia Hamilton
- Nghiệp - Sự thừa kế đích thực - S. N. Goenka
- Một cái chết hoan hỷ - Evie Chauncey

HỎI ĐÁP VỚI THẦY GOENKAJI – PHẦN II: CHUẨN BỊ CHO CÁI CHẾT CỦA CHÍNH MÌNH
- Sống và chết trong Chánh Pháp - Vipassana Newsletter
- Bình tâm đối mặt bệnh nan y - S. Adaviappa
- Dòng nước mắt - C.A.F. Rhys Davids
- Cái chết của con cái
- Quà tặng vô giá - Gabriela Ionita
- Mãi mãi tri ân
- Hãy tu tập để tự cứu mình - S. N. Goenka
- Lẫn tránh tuệ giác vô thường
- Bài kệ của Ambapālī - Amadeo Solé-Leris

HỎI ĐÁP VỚI THẦY GOENKAJI – PHẦN III: NHỮNG CÂU HỎI Y ĐỨC DÀNH CHO Y HỌC HIỆN ĐẠI
- Đối diện cái chết - Virginia Hamilton
- Bảy mươi năm đã qua - S. N. Goenka
- Nghệ thuật sống: Thiền Vipassana - S. N. Goenka
- Thực hành nuôi dưỡng tâm từ trong thiền Vipasssana - S. N. Goenka

Lời cảm tạ
Bảng chú giải thuật ngữ
-----------

Monday, 19 August 2019

Sách: NGHỆ THUẬT SỐNG, W. Heart & S.N. Goenka

NGHỆ THUẬT SỐNG, W. Heart & S.N. Goenka
Hành thiền Vipassana theo sự giảng dạy của Thiền sư S.N. Goenka

Nguyên tác: The Art Of Living, Vipassana Meditation As Taught By S. N. Goenka. William Hart.

Tải về bản PDF dạng song ngữ Việt-Anh:

=> http://budsas.net/sach/vn63.pdf

* MỤC LỤC
Lời nói đầu
Tựa
Dẫn nhập

Chương 1. Tìm kiếm
Chương 2. Điểm khởi đầu
Chương 3. Nguyên nhân trực tiếp
Chương 4. Căn nguyên của vấn đề
Chương 5. Tu tập giới hạnh
Chương 6. Tu tập định tâm
Chương 7. Rèn luyện trí tuệ
Chương 8. Ý thức và bình tâm
Chương 9. Mục đích
Chương 10. Nghệ thuật sống

Phụ lục A: Tầm quan trọng của vedanā (cảm giác) trong giáo huấn của Đức Phật
Phụ lục B: Những đoạn kinh nói về cảm giác
Bảng chú giải từ ngữ Pāli
--------

Saturday, 17 August 2019

Sách song ngữ Việt Anh - Thiền sư Nhất Hạnh

1) Thiền sư Nhất Hạnh. AN LẠC TỪNG BƯỚC CHÂN (Peace Is Every Step)
Link tải bản PDF:
=> http://budsas.net/sach/vn62.pdf 

2) Thiền sư Nhất Hạnh. PHÉP LẠ CỦA SỰ TỈNH THỨC (The Miracle of Mindfulness)
Link tải bản PDF:
=> http://budsas.net/sach/vn19.pdf

*

*

Friday, 16 August 2019

Bộ sưu tập sách của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, tiếng Việt và tiếng Anh

Link tải về 80 sách tiếng Việt (81 MB, dạng nén Zip):
https://tinyurl.com/uhgm8o9 
https://mega.nz/#!W1QABLQQ!BzhX3m6GU0KAaBaDYoQ7GUq3yG7gTzY6DqI-TQuq2dI

Link tải về 50 sách tiếng Anh (155 MB, dạng nén Zip):
https://tinyurl.com/vpvd899
https://mega.nz/#!j4Ri1QQS!4UtPlmEDsuMAjoS_DI5yMpaCz4T0ySaDMrtSA2xC920

Danh mục sách tiếng Việt:
01. 43 Công Án Của Trần Thái Tông
02. Am Mây Ngủ
03. An Lạc Từng Bước Chân
04. An Trú Trong Hiện Tại
05. Bàn Tay Cũng Là Hoa
06. Bồ Tát Tại Gia, Bồ Tát Xuất Gia
07. Bông Hồng Cài Áo
08. Bước Tới Thảnh Thơi
09. Bụt Là Hình Hài, Bụt Là Tâm Thức
10. Chỉ Nam Thiền Tập Dành Cho Người Trẻ
11. Cho Đất Nước Đi Lên
12. Cho Đất Nước Mở Ra
13. Con Đã Có Đường Đi
14. Con Đường Chuyển Hóa
15. Con Sử Tử Vàng Của Thầy Pháp Tạng
16. Cửa Tùng Đôi Cánh Gài
17. Đạo Bụt Nguyên Chất
18. Đạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hằng Ngày
19. Đạo Phật Của Tuổi Trẻ
20. Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời
21. Đạo Phật Hiện Đại Hóa
22. Đạo Phật Ngày Nay
23. Đạo Phật Qua Nhận Thức Mới
24. Để Có Một Tương Lai
25. Để Hiểu Đạo Phật
26. Đường Xưa Mây Trắng
27. Duy Biểu Học
28. Giận
29. Giới Tiếp Hiện
30. Hạnh Phúc Mộng Và Thực
31. Hiệu Lực Cầu Nguyện
32. Hoa Sen Trong Biển Lửa
33. Hơi Thở Nuôi Dưỡng Và Trị Liệu
34. Hướng Đi Của Đạo Bụt Cho Hòa Bình Và Môi Sinh
35. Hương Vị Của Đất
36. Im Lặng Sấm Sét
37. Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi
38. Kinh Kim Cương – Gươm Báu Cắt Đứt Phiền Não
39. Kinh Người Áo Trắng
40. Kinh Pháp Ấn
41. Kinh Quán Niệm Hơi Thở
42. Nẻo Vào Thiền Học
43. Nẻo Về Của Ý
44. Nghi Thức Tụng Niệm Đại Toàn
45. Người Vô Sự
46. Nhật Tụng Thiền Môn
47. Nói Với Tuổi Hai Mươi
48. Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức
49. Quyền Lực Đích Thực
50. Sám Pháp Địa Xúc
51. Sen Búp Từng Cánh Hé
52. Sen Nở Trời Phương Ngoại
53. Sống Chung An Lạc
54. Sự Tích Quan Âm Hương Tích
55. Sự Tích Quan Âm Thị Kính
56. Thả Một Bè Lau
57. Thiền – Chất Liệu Nuôi Dưỡng Và Chuyển Hóa
58. Thiền Hành Yếu Chỉ
59. Thiền Sư Tăng Hội
60. Thiền Tập Cho Người Bận Rộn
61. Thiết Lập Tịnh Độ
62. Thơ Từng Ôm Và Mặt Trời Từng Hạt
63. Thương Yêu Theo Phương Pháp Bụt Dạy
64. Tiếp Xúc Với Sự Sống
65. Tình Người
66. Tố Thiều Lan
67. Trái Tim Của Bụt
68. Trái Tim Của Hiểu Biết
69. Trái Tim Của Trúc Lâm Đại Sĩ
70. Trái Tim Mặt Trời
71. Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ
72. Từng Bước Nở Hoa Sen
73. Tùng Bưởi Hồng
74. Tuổi Trẻ Tình Yêu Lý Tưởng
75. Tương Lai Thiền Học Việt Nam
76. Tương Lai Văn Hóa Việt Nam
77. Tý – Chiếc Lá Ổi Non, Cây Tre Triệu Đốt
78. Ước Hẹn Với Sự Sống
79. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận
80. Vương Quốc Của Những Người Khùng



Danh mục sách tiếng Anh:
01. Thich Nhat Hanh - All in One, One in All (2001).pdf
02. Thich Nhat Hanh - Anger, Wisdom for Cooling the Flames (2002).pdf
03. Thich Nhat Hanh - Be Free Where You Are (2002).pdf
04. Thich Nhat Hanh - Being Peace (2005).pdf
05. Thich Nhat Hanh - Breathe, You are alive (2008).pdf
06. Thich Nhat Hanh - Fear, Essential Wisdom for Getting Through the Storm (2012).pdf
07. Thich Nhat Hanh - Fidelity, How to create a loving relationship that lasts (2011).pdf
08. Thich Nhat Hanh - Good citizens, Creating enlightened society (2012).pdf
09. Thich Nhat Hanh - Happiness (2009).pdf
10. Thich Nhat Hanh - How to Eat (2014).pdf
11. Thich Nhat Hanh - How to Fight(2017).pdf
12. Thich Nhat Hanh - How to Love (2014).pdf
13. Thich Nhat Hanh - How to Relax (2015).pdf
14. Thich Nhat Hanh - How to Sit (2014).pdf
15. Thich Nhat Hanh - How to Walk(2015).pdf
16. Thich Nhat Hanh - Inside the now, Meditations on time (2015).pdf
17. Thich Nhat Hanh - Joyfully together, The art of building a harmonious community (2003).pdf
18. Thich Nhat Hanh - Living Buddha, Living Christ(2007).pdf
19. Thich Nhat Hanh - Love Letter to the Earth (2013).pdf
20. Thich Nhat Hanh - Mindful Movements, Ten Exercises for Well-Being(2008).pdf
21. Thich Nhat Hanh - No Death, No Fear (2002).pdf
22. Thich Nhat Hanh - No Mud, No Lotus (2014).pdf
23. Thich Nhat Hanh - Old Path, White Clouds (1991).pdf
24. Thich Nhat Hanh - One Buddha is Not Enough, A Story of Collective Awakening (2011).pdf
25. Thich Nhat Hanh - Peace Is Every Breath (2011).pdf
26. Thich Nhat Hanh - Peace Is Every Step, The Path of Mindfulness in Everyday Life (1991).pdf
27. Thich Nhat Hanh - Reconciliation, Healing the inner child (2010).pdf
28. Thich Nhat Hanh - Savor, Mindful Eating, Mindful Life (2010).pdf
29. Thich Nhat Hanh - Silence, The Power of Quiet in a World Full of Noise (2015).pdf
30. Thich Nhat Hanh - Sutra on the Eight Realizations of Great Beings (1987).pdf
31. Thich Nhat Hanh - The Art of Communicating (2013).pdf
32. Thich Nhat Hanh - The Art of Living (2017g).pdf
33. Thich Nhat Hanh - The Art of Power (2008).pdf
34. Thich Nhat Hanh - The Blooming of a Lotus (2009).pdf
35. Thich Nhat Hanh - The Coconut Monk (2009).pdf
36. Thich Nhat Hanh - The Diamond That Cuts Through Illusion (2010).pdf
37. Thich Nhat Hanh - The Heart of Buddha Teahings (1998).pdf
38. Thich Nhat Hanh - The Heart of Understanding, Commentaries on the Prajnaparamita Heart Sutra (1988).pdf
39. Thich Nhat Hanh - The Long Road Turns to Joy, A Guide to Walking Meditation (2011).pdf
40. Thich Nhat Hanh - The Mindfulness Survival Kit, Five Essential Practices (2014).pdf
41. Thich Nhat Hanh - The Miracle of Mindfulness (1987).pdf
42. Thich Nhat Hanh - The Novice, A Story of True Love (2011).pdf
43. Thich Nhat Hanh - The Sun My Heart (1988).pdf
44. Thich Nhat Hanh - The Way Out Is In (2015).pdf
45. Thich Nhat Hanh - Transformation and Healing (2010).pdf
46. Thich Nhat Hanh - True love, A practice for awakening the heart (2004).pdf
47. Thich Nhat Hanh - You Are Here, Discovering the Magic of the Present Moment (2010).pdf
48. Thich Nhat Hanh - Zen Keys (1974).pdf
49. Jerry Braza. Thich Nhat Hanh - Moment by Moment, The Art and Practice of Mindfulness (1997).pdf
50. Jon Kabat-Zinn, Thich Nhat Hanh - Full Catastrophe Living (2013).pdf


Tuesday, 13 August 2019

Thông điệp mùa Vu Lan: Bông hồng cài áo

Thông điệp mùa Vu Lan: Bông hồng cài áo
Chúc Phúc – Quảng Kiến
Nguyệt San Giác Ngộ 2008
Nguồn: https://langmai.org

Bài phỏng vấn Thiền sư Nhất Hạnh do Chúc Phúc – Quảng Kiến thực hiện năm 2006

Được biết, sau khi tác phẩm ra đời, Thiền sư đã phát động phong trào cài hoa hồng để tưởng niệm về công ơn mẹ. Xin Thiền sư cho biết lần đầu tiên phong trào này được phát động là vào mùa Vu Lan năm nào, tại đâu? Thiền sư có gặp sự trở ngại nào chăng khi đưa ra một nét văn hóa tuy đẹp đẽ song cũng rất mới lạ này?

– Tôi không hề có ý định phát động phong trào Cài Hoa Hồng để tưởng niệm về công ơn mẹ. Phong trào ấy tự động phát khởi một cách tự nhiên mà thôi. Điều đó cũng làm cho tôi ngạc nhiên. Hồi đó, năm 1962, sau chín tháng nghiên cứu về khoa Tỷ Giảo Tôn Giáo tại Princeton University, tôi về nghỉ hè tại Camp Ockanickon ở Medford thuộc tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ. Ban ngày tôi chơi và nói chuyện với thanh thiếu niên về Văn Hóa Việt Nam và đi chèo thuyền trên hồ, ban đêm tôi viết văn. Tôi đã viết đoản văn Bông Hồng Cài Áo trong một căn lều gỗ người trẻ dành cho tôi. Viết xong tôi gửi cho các vị đệ tử của tôi trong đoàn Sinh Viên Phật Tử Sàigon do tôi hướng dẫn.

Bài này gửi qua chị Trương thị Nhiên. Chị Nhiên và đoàn Sinh Viên Phật Tử đọc xong rất cảm động nên quyết định đem chia sẻ cho mọi người. Họ bàn nhau chép tay ba trăm bản làm quà tặng cho những bạn bè của họ trong các phân khoa Đại Học Sài Gòn. Mỗi bản chép tay đều có gắn thêm một chiếc hoa màu hồng cho người còn mẹ hay màu trắng cho người mất mẹ, hay mất mẹ. Rằm tháng bảy năm ấy họ họp nhau lại tại Chùa Xá Lợi, làm Lễ Bông Hồng Cài Áo lần đầu tiên. Anh Tôn Thất Chiểu, một thành viên của đoàn Sinh Viên Phật Tử đã gửi cho Hòa Thượng Thích Đức Tâm, hồi đó đang làm chủ bút cho nguyệt san Liên Hoa của Giáo Hội Tăng Già Trung Phần. Tập San Liên Hoa đã đăng nguyên bài dưới tựa đề là Nhìn Kỹ Mẹ. Hòa Thượng Trí Thủ, bổn sư của Hòa Thượng Đức Tâm, đọc được đoản văn trên nguyệt san Liên Hoa đã khóc vì cảm động.

Sau đó Bông Hồng Cài Áo được in ra nhiều lần, một số các chùa bắt đầu tổ chức Lễ Bông Hồng Cào Áo. Từ đó, Lễ Bông Hồng Cài Áo đã trở thành một truyền thống. Tôi không nghĩ là đã có những trở ngại trong khi phong trào được lan rộng. Năm 1964, nhà xuất bản Lá Bối ra mắt độc giả bằng quyển Bông Hồng Cài Áo, in khổ ốm dài để có thể bỏ vào bì thư gửi tặng bạn bè trong ngày Vu Lan. Quyển sách nhỏ này đã phải tái bản nhiều lần. Năm 1965 đoàn Cải Lương Thanh Nga đã dựng và trình diễn vở tuồng Bông Hồng Cài Áo và có mời tôi tham dự.

Tại trong nước cũng như tại ngoại quốc, đoản văn Bông Hồng Cài Áo đã được dịch và in ra nhiều thứ tiếng trong đó có tiếng Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Trung Hoa, Nga, Thái Lan và tiếng Lào.

Theo Thiền sư, giữa Ngày lễ của Mẹ trong văn hóa Nhật và ngày Vu Lan Báo hiếu trong văn hóa Việt Nam có những nét tương đồng và khác biệt nào?

– Lễ Bông Hồng Cài Áo tổ chức tại Làng Mai mỗi mùa Hè kể từ năm 1983 đã làm theo tinh thần Việt Nam, khác truyền thống Nhật. Lễ này không những để vinh danh người Mẹ mà cũng để tưởng nhớ và vinh danh người Cha nữa. Mỗi người được cài hai chiếc hoa hồng, một dành cho Mẹ và một dành cho Cha. Chiếc hoa dành cho Cha nằm hơi cao lên một chút để phân biệt với hoa cho Mẹ. Và anh sẽ cài một hoa hồng cho Cha khi Cha còn sống, một hoa hồng cho Mẹ khi Mẹ còn sống.

Không ít người thắc mắc tại sao Thiền sư lại chọn hoa hồng mà không phải là loài hoa nào khác? Phải chăng đơn thuần chỉ vì hoa hồng là loài hoa biểu trưng cho tình yêu?

– Mình nên hiểu chữ hồng trong bông hồng là đỏ. Cài hoa hồng thì cài hoa hồng đỏ. Cài hoa khác như hoa cẩm chướng thì cẩm chướng màu cũng đỏ, không nhất thiết là phải có hoa hồng (rose).Và khi Mẹ không còn, Cha không còn thì được cài hoa trắng . Các đệ tử người Hoa của tôi khi làm lễ Bông Hồng Cài Áo đầu tiên tại Đài Loan năm 1995 thì họ dùng hoa cẩm chướng màu đỏ và trắng cho buổi Lễ Cài Hoa tưởng nhớ Mẹ Cha. Mẹ Cha còn thì cài hoa cẩm chướng màu hồng. Mẹ Cha mất thì cài hoa cẩm chướng màu trắng. Bất cứ hoa gì cũng được kể cả hoa lan.

Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã phổ nhạc thành công ca khúc Bông Hồng Cài Áo từ bài văn của Thiền sư, góp phần đưa nghi thức cài hoa hồng vào sâu trong đời sống văn hóa dân tộc. Xin cho Thiền sư cho biết cảm nhận mình của khi nghe bài hát ấy – lần đầu tiên cũng như bây giờ?

– Phạm Thế Mỹ làm bài Bông Hồng Cài Áo rất dễ dàng và tự nhiên như thở vào thở ra, tự nhiên như bước chân đi dạo, tự nhiên như khi nâng chén trà lên uống. Tôi không thấy tôi và nhạc sĩ là hai người khác nhau khi nghe ca khúc Bông Hồng Cài Áo, trước kia cũng vậy và bây giờ cũng vậy.

Là một người rất quan tâm đến giới trẻ Việt Nam nói riêng và giới trẻ trên toàn thế giới nói chung, Thiền sư có nhắn nhủ điều gì với các bạn trẻ nhân mùa Vu lan năm nay?

– Ngày Lễ Bông Hồng Cài Áo không phải chỉ để tưởng nhớ công ơn Mẹ Cha. Các bạn phải biết thực tập nhìn sâu, tức là thực tập thiền quán trong ngày ấy. Phải thấy được những tài năng, đức hạnh và nét đẹp nào mà mình đã tiếp nhận từ Cha và từ Mẹ. Rồi thấy được Cha và Mẹ không phải là những thực tại có ngoài mình mà đang có ngay trong mình. Mình là sự tiếp nối của Cha, mình là sự tiếp nối của Mẹ. Và mình mang Mẹ, mang Cha đi về tương lai. Phải biết mỉm cười cho Mẹ, thở cho Cha và bước đi cho cả hai. Sự tiếp nối đẹp đẽ của Cha Mẹ nơi mình là biểu hiện cụ thể nhất cho lòng Hiếu.

Nếu bạn lỡ có những khó khăn với Cha hay Mẹ thì đừng nghĩ cạn là Mẹ không thương, Cha không thương. Có thể những vụng về trong quá khứ về phía Cha Mẹ đã tạo ra những lớp khổ đau đè nặng và làm khuất lấp tình thương ấy. Mình biết nếu có gì xảy ra cho mình thì Cha Mẹ sẽ khóc hết nước mắt.. Và nếu có gì xảy ra cho Mẹ hay cho Cha thì mình cũng sẽ khóc hết nước mắt. Phải thấy rằng các vị đã có nhiều khổ đau và khó khăn mà chưa đủ khả năng chuyển hóa nên đã tự làm khổ mình và làm khổ lây đến các con. Mình cũng vậy. Mình đã khổ đau vì hiểu lầm, vì bực tức, và do đó đã lỡ nói những lời không dễ thương, có những phản ứng không đẹp đẽ với Cha và với Mẹ. Bên nào cũng chịu một phần trách nhiệm.

Thấy được cái khổ của Cha, của Mẹ, mình tìm cách giúp Cha và giúp Mẹ. Mình phải biết nói lời hối lỗi đã không giúp được Mẹ Cha mà còn làm cho Cha Mẹ khổ đau thêm. Sử dụng pháp lắng nghe và ái ngữ để tái lập được truyền thông, để dựng lại thâm tình, đó là điều mình có thể làm được. Tôi có nhiều vị đệ tử đã làm được việc đó, người Việt cũng như người ngoại quốc.

Có những người trẻ dại dột đã đi tự tử. Đó là một hành động tuyệt vọng, nhưng cũng là một hành động trừng phạt. Trừng phạt người đã làm mình khổ, trong trường hợp này, đó là những vị sinh thành ra mình. Ta sinh ra đời để thương yêu, không phải để trừng phạt. Chết như thế là một sự thất bại. Nếu bạn là Phật tử, bạn phải biết giáo pháp đức Thế Tôn có công năng chuyển rác thành hoa, biến phiền não thành bồ đề, dựng lại tình thâm từ xác chết hận thù. Cha Mẹ là Bụt đó, đừng đi tìm Bụt nơi nào khác. Ngày hôm nay bạn nói được câu gì, làm được cử chỉ gì để Mẹ vui, để Cha vui thì làm ngay đi, đừng để tới ngày mai, sợ rằng muộn quá. Đọc Bông Hồng Cài Áo để nhớ điều đó. Tôi chúc bạn một ngày Vu Lan thật ngọt ngào, thật hạnh phúc, thực tập thành công.

Nếu bạn được cài bông trắng, nên quán chiếu là Cha hoặc Mẹ vẫn còn còn trong bạn và có mặt trong từng tế bào của cơ thể bạn. Đưa bàn tay lên nhìn, bạn sẽ thấy bàn tay ấy của bạn mà cũng là bàn tay của Cha, của Mẹ. Trong bàn tay bạn, có bàn tay của Cha, của Mẹ. Bạn hãy đưa bàn tay ấy đặt lên trán và sẽ thấy, đó là bàn tay của Mẹ hay của Cha đang đặt trên trán bạn. Thật là nhiệm mầu.

Ta hãy tôn vinh Mẹ, tôn vinh Cha trong trái tim. Bụt dạy: Vào thời không có Bụt ra đời thì thờ Cha thờ Mẹ cũng là thờ Bụt. Đây là điều tôi muốn nói với các bạn trẻ ở Việt Nam cũng như trên thế giới.

*

* Đoản văn Bông hồng cài áo (1962): http://budsas.net/uni/u-vbud/vbpha087.htm

* Đây là bài thơ mà Thầy Nhất Hạnh đề cập trong đoản văn Bông Hồng Cài Áo:

MẤT MẸ
Xuân Tâm (1916-2012)

Năm xưa tôi còn bé
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận trẻ mồ côi
Quanh tôi ai cũng khóc
Yên lặng tôi sầu thôi
Mặc dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi
Độ nhỏ tôi không tin
Người thân yêu sẽ mất
Hôm ấy tôi sững sờ
Và nghi ngờ trời đất
Từ nay tôi hết thấy
Trên trán Mẹ hôn con
Những khi tôi phải đòn
Đau lòng Mẹ la dạy
Kìa nhà ai bên cạnh
Mẹ con vỗ về nhau
Tìm Mẹ tôi không thấy
Lúc buồn biết trốn đâu
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông Chùa nhẹ rơi rơi
Tôi biết tôi mất Mẹ
Là mất cả bầu trời.

* Nguồn: Thông điệp mùa Vu Lan

*
Bông hồng cài áo, Nxb Lá Bối, Sài Gòn 1964

Bông hồng cài áo, Phạm Thế Mỹ, Sài Gòn 1972

Saturday, 20 July 2019

Sách: Phật pháp vấn đáp (2019)

VÀI DÒNG LỊCH SỬ.

Đầu tiên, khi bác Phạm Kim Khánh dịch tập sách tiếng Anh “Good Question, Good Answer”, bác đặt tựa đề là “Khéo Vấn, Khéo Đáp” và xuất bản ấn tống bên Mỹ. Sau đó, được bác đồng ý cho phép, tôi hiệu đính và bổ sung thêm vài chương mới từ tập sách của Sư Dhammika (có giải thích trong phần Giới Thiệu). Đồng thời, tôi kèm thêm 7 bài viết khác nữa (phần Phụ Đính), và do đó, đặt tựa đề cho tập sách mới là “Phật Pháp Vấn Đáp”. Cuốn sách nầy xuất bản 2 lần tại Việt Nam khoảng 15 năm trước.

Vài năm sau, một nhóm bạn Phật tử ở Hà Nội xin phép tôi để tái bản ấn tống. Nhưng nhóm ấy lại chọn tựa đề của bác Khánh là “Khéo Vấn, Khéo Đáp”. Tôi hoàn toàn không biết nội dung có sửa đổi gì hay không. Chỉ thấy hình bìa sách. Có lẽ từ đó, có vài hiểu lầm về hai tựa đề của cuốn sách.

Lần nầy, tôi duỵệt lại bản vi tính “Phật Pháp Vấn Đáp”. Có nhiều chỉnh sửa sau khi duyệt với sự góp ý của các thân hữu trong nhóm ấn tống. Trong ấn bản 2019 nầy, tôi quyết định giữ lại tên tựa đề đầu tiên của cuốn sách xuất bản tại Việt Nam 15 năm trước là “Phật Pháp Vấn Đáp”.

* Có thể tải bản mềm, dạng PDF, tại link: http://budsas.net/sach/en102_viet.pdf

-- Binh Anson (18/01/2019).


Friday, 19 July 2019

Sách: Thiền-na và đệ tử cư sĩ, dựa theo các bài kinh Pāli - Bình Anson lược dịch (2019)

Thiền-na và đệ tử cư sĩ, dựa theo các bài kinh Pāli
The Jhānas and the Lay Disciple, According to the Pāli Suttas
Bhikkhu Bodhi (2015) - Bình Anson lược dịch (2019)

Tải về bản PDF, song ngữ Việt-Anh, tại link:
=> http://budsas.net/sach/vn60.pdf

Bhikkhu Bodhi lần lượt trình bày các nghiên cứu dựa theo kinh điển Pāli, xoay quanh ba câu hỏi quan trọng:

1) Kinh văn Pāli có chỉ ra rằng một phàm nhân phải đắc thiền-na trước khi thể nhập vào “chánh tánh quyết định” (sammatta-niyāma), con đường không thối chuyển để nhập dòng thánh giải thoát, hay không?

2) Kinh văn có gán ghép các vị đệ tử cư sĩ đã đắc quả Dự Lưu với khả năng đắc thiền-na không?

3) Nếu kinh văn đa phần không gán ghép thiền-na với quả vị Dự Lưu, ở giai đoạn nào trên dòng thánh giải thoát thì việc đắc thiền-na trở nên cần thiết?

*

Dàn bài
1. Giới thiệu
2. Thiền-na và việc đắc quả vị Dự Lưu
3. Thiền-na và chánh định
4. Vị thánh Dự Lưu và thiền-na
5. Khi nào thiền-na trở nên cần thiết?
6. Kết luận và câu hỏi mới


Tuesday, 16 July 2019

“Tôi đã học giáo pháp nhiều năm rồi, nhưng thật sự đã học được gì?” (Gs Aming Tu)

Mindfully Facing Disease and Death: Compassionate Advice from Early Buddhist Texts (2017), by Bhikkhu Analayo 
Tỉnh thức đối diện với bệnh tật và cái chết - Tỳ-khưu Anālayo

*

Về Giáo sư Aming Tu 
Bình Anson 

Giáo sư Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân, Du Zhengmin) là một sáng lập viên của hội CBETA (Chinese Buddhist Electronic Text Association, 中華電子佛典協會 Trung Hoa Điện Tử Phật Điển Hiệp Hội, Hiệp hội Kinh văn Điện tử Phật giáo Trung Hoa) và đã từng là Giám đốc Điều hành của Hội. Ông là giáo sư Tin học và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong dự án số hóa Tam tạng Kinh điển tiếng Hán. Năm 2005, ông bị bệnh và được chẩn đoán là bị bệnh ung thư gan, phải vào bệnh viện 10 ngày và trải qua một cơn đau đớn rất khắc nghiệt.

Sau khi rời bệnh viện, ông tìm đọc các bản kinh trong Hán tạng và tạng Pali ghi lại các lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử để đối phó với các cơn đau, bệnh tật và cái chết. Ông suy ngẫm và thực hành theo đó, và nhờ vậy, đã giúp ông rất nhiều để đối phó với các cơn đau và viễn ảnh của cái chết không thể tránh được.

Ông thảo luận các vấn đề nầy với Tỳ-khưu Anālayo – lúc ấy, Sư đang nghiên cứu và dịch các bản kinh A-hàm – và ông đề nghị Sư khai triển thành một cuốn sách với nội dung về các phương cách đối diện với bệnh tật và cái chết, dựa theo các bản kinh của Phật giáo Sơ kỳ – các bộ A-hàm trong Hán tạng và Nikāya trong tạng Pāli, cùng với những hướng dẫn thực tế để hành thiền, giúp hành giả có đủ nghị lực, sự hiểu biết và tỉnh thức để trực diện với các vấn đề tất yếu đó của kiếp người.

Cuốn sách được xuất bản vào đầu năm 2017 và được nhiều vị thiền sư và học giả khen ngợi, tán thán. Một điều buồn là Gs Aming Tu không thấy được ấn bản chính thức của cuốn sách nầy. Ông qua đời vào tháng 11 năm 2016.

Bình Anson 
Perth, 17/07/2017
----------------------

GIỚI THIỆU
Tỳ-khưu Ānalayo

Nguồn cảm hứng để biên soạn cuốn sách này là từ người bạn đạo và đồng nghiệp Aming Tu (Đỗ Chính Dân) ở Cổ Pháp Sơn (鼓法山 Dharma Drum Mountain), Đài Loan. Là một giáo sư về Tin học Phật giáo và một hành giả Thiền tông Đông độ, Aming Tu đã tìm thấy các bài kinh giảng về bệnh tật và cái chết trong các bộ A-hàm Hán tạng là một nguồn lực hỗ trợ to lớn khi phải chịu đựng sự suy thoái cơ thể của ông vì bệnh ung thư. Nhận thức được lợi ích ông có được từ những bài kinh nầy, ông ước muốn các lời giảng dạy đó được dịch và giải thích để phổ biến rộng rãi đến mọi người. Khi ông chia sẻ ý tưởng đó với tôi, tôi rất hoan hỷ làm theo và cuốn sách nầy là kết quả của kế hoạch mà chúng tôi cùng thực hiện. Trong Lời Bạt của cuốn sách, Aming Tu chia sẻ kinh nghiệm cá nhân, mô tả các phương cách ông tìm thấy từ các bài kinh trong bộ A-hàm Hán tạng để giúp ông đối diện với bệnh tật và cái chết.

*

LỜI BẠT
Aming Tu (杜正民 - Đỗ Chính Dân)

Lần đầu tiên khi tôi được chẩn đoán là bị bệnh ung thư và phải nhập viện, tôi bị sốc khi phát hiện ra rằng, trong số hàng ngàn cuốn sách mà tôi đã sưu tập, tôi không tìm thấy được một cuốn sách nào mà tôi có thể mang theo với tôi, vì mặc dù đã từng đọc vô số sách trong đời, không có một cuốn nào có thể đi cùng tôi trong cuộc hành trình cuối đời nầy.

QUÀ TẶNG BẤT NGỜ

Vào cuối năm 2005, tôi đưa mẹ tôi đến bệnh viện để kiểm tra sức khỏe. Trong khi chờ đợi, tôi dùng cơ hội nầy để tiện thể xin kiểm tra luôn cho tôi. Ngay sau khi khám siêu âm, bác sĩ thấy có vấn đề trong lá gan. Ông lập tức đưa tôi vào phòng chụp hình cộng hưởng từ trường (MRI) và thu xếp cho tôi nhập viện. Tôi nhớ ngày tôi được chẩn đoán bị bệnh ung thư, tôi đi bộ đến núi Dương Minh (陽明山, Yangmingshan) như tôi vẫn thường làm, để ngắm hoa và ăn các loại rau cải địa phương; tôi vẫn thưởng thức một buổi trưa thanh thản, không cảm thấy buồn rầu. Sau đó, tôi nhanh chóng viết chúc thư và kết thúc mọi công việc để sửa soạn cho mười ngày nằm viện.

Nằm ở bệnh viện cũng giống như đi tĩnh tâm; mình sống với chính mình và trải nghiệm với sự sống và chết. Tôi sẽ đi du lịch mười ngày với thân và tâm. Mang theo một túi xách nhỏ, tôi bước vào phòng bệnh viện và bắt đầu gặp gỡ với cuộc sống và bệnh tật của tôi. Từ cái nhìn nầy, đây là một cơ hội quý báu, tôi không còn có thể dùng sự bận rộn công việc như là một cái cớ để trốn tránh. Cuộc tĩnh tâm mười ngày nầy là một dịp may vô giá để tôi lắng đọng và kết nối trở lại với thân và tâm của tôi.

THÂN VÀ TÂM TRONG MƯỜI NGÀY NHẬP VIỆN TĨNH TÂM 

Bởi vì đây là lần đầu tiên tôi nhập viện, mọi việc đều mới lạ cho tôi, và các trải nghiệm ở đó hoàn toàn khác hẵn những gì quen thuộc hàng ngày. Mắt chỉ thấy người ta, sự kiện và những thứ liên quan đến bệnh tật; tai chỉ nghe những tiếng rên rỉ, than thở buồn rầu; mũi chỉ ngửi được mùi thuốc và mùi bệnh; lưỡi chỉ nếm các chất đắng và vô vị; và thân chỉ tiếp xúc với các bề mặt lạnh lẽo của thiết bị y tế hoặc cảm giác đâm chích của các mũi kim. Trải nghiệm tinh thần và thể xác của năm uẩn cấu tạo thân nầy – sắc, thọ, tưởng, hành, thức – cũng rất lạ lùng và khó chịu.

Tôi chịu nhiều thống khổ trong thời gian đó, nhưng thử thách khổ sở nhất là cơn đau thể xác. Cơn đau nầy không cho tôi ngồi, nằm, hay ngủ và có khi làm tôi khó thở. Cảm giác nghẹt thở khi bị cơn đau khốc liệt hoành hành, không có chữ nghĩa nào có thể dùng để diễn tả cho bác sĩ hiểu. Sự đau đớn như thế nầy có lẽ tương tự như cơn đau mà ngài Khemaka đã diễn tả trong Tạp A-hàm: “Cơn đau nầy như thể người đồ tể dùng con dao bén rạch bụng một con bò còn sống để moi lấy nội tạng của nó. Làm sao con bò có thể chịu được những cơn đau nơi bụng như thế? Bụng của tôi bây giờ đang chịu đau đớn hơn cả bụng bò.” Khi tôi đọc đoạn kinh nầy, tôi đã bị sốc vì không ngờ đoạn kinh đã diễn tả chính xác và sinh động về trạng thái đau đớn của tôi.

CƠN ĐAU LÀ MỘT CÔNG ÁN 

Kiểu đau không chịu nổi nầy khiến tôi tự hỏi: Có loại giảng dạy nào có thể giúp tôi vượt qua khổ đau mãnh liệt nầy? Ngoài cơn đau thể xác, tôi còn phải tìm cách đối diện với cảm giác bấp bênh bất định của cơn bệnh. Trên báo chí, ung thư thường được cho là sẽ đưa đến cái chết không thể tránh khỏi; và do đó, vấn đề về cái chết thường xuất hiện trong tâm trí tôi, mang theo nhiều âu lo. Có thể nói rằng cảm giác về đau và sự bất lực không thể nào được hiểu rõ bởi người quan sát mà chỉ biết đồng cảm.
Trong tình huống nầy, khi tôi tìm cách đối diện với cơn đau và cái chết, tôi bắt đầy suy ngẫm sâu xa hơn: Những lời dạy nào của Đức Phật mà tôi có thể nương tựa và được hướng dẫn cho phần còn lại của đời tôi? Đức Phật đã hướng dẫn người bệnh và người sắp chết như thế nào? Ngài dạy họ phải đối diện cái chết như thế nào? Những câu hỏi đó xoay vần trong tâm trí tôi như thể là một “thoại đầu” – một từ hay một câu để quán soi trong Thiền tông Đông độ, cũng thường được gọi là “công án”.

TÌM KIẾM CẢM HỨNG TỪ KINH ĐIỂN 

Sau khi rời bệnh viện, tôi bắt đầu khảo sát các bài kinh để tìm một phương pháp thực hành thích hợp cho người bệnh và người sắp chết. Cuối cùng, tôi tìm thấy một nhóm các bài kinh trong Tạp A-hàm ghi lại các lời giảng dạy của Đức Phật cho các vị đệ tử về các phương cách thực hành để đối diện với bệnh tật, đau đớn và cái chết. Những kinh văn nầy ghi lại phương cách Đức Phật dạy các đệ tử khi lâm trọng bệnh – bao gồm các vị trưởng lão và sa-di, cũng như các cư sĩ già lẫn trẻ.

Khi tôi bắt đầu đọc các bài kinh đó, tôi rất ngạc nhiên khi khám phá ra rằng mặc dù các bài kinh đó có vẻ đáp ứng ngẫu nhiên về các tình huống đặc biệt, chúng ta có thể tìm thấy trong các bài kinh nầy một sự trình bày súc tích, gọn gàng, đơn giản, có hệ thống về sự thực hành và khuôn khổ các khái niệm. Càng đọc và phân tích nội dung các bài kinh, tôi càng hoan hỷ và tràn ngập niềm vui thích.
Khi tôi đọc so sánh các bài kinh Pāli tương ứng, tôi cũng thấy nghiên cứu đối chiếu như thế nâng cao tầm hiểu biết về sự giảng dạy của Đức Phật và giúp tôi xác định cốt lõi thông điệp của Ngài. Sự nghiên cứu đó giúp tôi có thể diễn tả cấu trúc tổng thể của giáo pháp cũng như xác định các giai đoạn tuần tự của thực tập, cho thấy bộ sưu tập các bài kinh là một nguồn quý giá để thực hành.

Trong những năm sau, khi phải nhập và xuất viện nhiều lần, các bài kinh nầy không những là bạn đồng hành quý báu để tôi đối mặt cơn bệnh mà tôi còn chia sẻ các bài đó đến những người chung quanh, ở trong lớp học với các sinh viện hay trong những lúc nói chuyện ngẫu nhiên với bạn bè. Tuy thế, có lẽ vì đa số chúng ta xem cái chết rất xa vời, những người tôi tiếp xúc đã không dành thì giờ để tìm hiểu sâu xa các bài kinh đó. Tôi cảm thấy như thể tôi đã thất bại không giúp được họ hiểu được tầm quan trọng của các lời giảng dạy nầy. Vì lý do đó, tôi quyết định sắp xếp các kinh văn thành một tập sách với hy vọng rằng, cùng với các cố gắng sơ bộ của tôi để phân tích và phân loại nội dung các bài kinh trong tay, tôi sẽ dễ dàng chia sẻ những lời dạy của Đức Phật đến những người ấy.

CÂU CHUYỆN CỦA ÔNG CẤP CÔ ĐỘC

Trong các bài kinh trong bộ sưu tập mà tôi đọc được, câu chuyện cảm động nhất là câu chuyện về ông Cấp Cô Độc. Ngài Ānanda và Sāriputta (Xá-lợi-phất) đến thăm ông khi nghe tin ông lâm bệnh nặng. Khi hai vị trưởng lão hỏi ông Cấp Cô Độc cảm thấy thế nào, vị gia chủ đáp: “Cơn đau bây giờ lên đến cực độ, con cảm thấy càng lúc càng gia tăng, không suy giảm.” Tiếp đó, ngài Sāriputta hướng dẫn giúp ông trực diện với cơn đau và cái chết. Sau khi nghe xong, ông Cấp Cô Độc rơi nước mắt; phản ứng đầy cảm xúc nầy được kích hoạt từ giáo pháp tuyệt vời do ngài Sāriputta giảng dạy. Thật vậy, ông Cấp Cô Độc đã thực hành Pháp hơn hai mươi năm và do đó, đã có thể can đảm đối phó với cơn đau càng lúc càng gia tăng. Tôi thật sự xúc động khi đọc đoạn kinh văn nầy. Nó cũng khiến tôi suy nghĩ: “Tôi đã học giáo pháp nhiều năm rồi, nhưng thật sự đã học được gì?”

Trong suốt hai mươi đến ba mươi năm nghiên cứu giáo lý, lĩnh vực nghiên cứu chính yếu của tôi là học các kinh văn và số hóa kinh điển Phật giáo. Tuy nhiên, cơn bệnh nầy đã đưa tôi trở về một câu hỏi căn bản: Cốt lõi của Phật pháp là gì? Có phải chăng vì thấy cảnh già, bệnh, chết mà Thái tử Sĩ-đạt-đa đã rời bỏ cung điện để đi tìm sự tự do thoát khỏi những hoạn khổ nầy?

Chỉ lúc đó, tôi mới thực sự hiểu được hai đoạn kinh văn sau đây: “Có ba sự kiện mà toàn thể thế gian không thích nghĩ đến. Ba sự kiện ấy là gì? Đó là già, bệnh và chết.”“Chính vì có ba sự kiện trên đời người ta không thích nghĩ đến – đó là già, bệnh và chết, mà chư Phật, chư Như Lai xuất hiện trên thế gian và thế gian được biết đến giáo pháp đã được chư Phật, chư Như Lai thực chứng và truyền dạy cho chúng sinh.” Tôi hiểu sự tu tập và thực chứng nầy thật sự là cốt lõi của Phật Pháp. Một cách nào đó, bệnh tật nầy đã cho phép tôi tái khám phá lời dạy của Đức Phật.

CÁC BÀI KINH LÀ NHỮNG HỒ SƠ Y KHOA 

Lần đầu tiên tôi đọc các bài kinh giảng về bệnh tật, tôi cảm nhận mỗi bài kinh ngắn giống như hồ sơ bệnh lý thu gọn về “sự chữa trị” của bệnh nhân đang nhận giáo pháp. Trong thời gian nằm ở bệnh viện, tôi học được chút ít về cách các bác sĩ điền vào các mẫu thông tin về bệnh nhân để giúp tôi hiểu được tờ thông tin lịch sử y khoa của tôi. Tôi học được rằng các bác sĩ thường dùng khuôn mẫu SOAP khi tạo hồ sơ bệnh án cho mỗi bệnh nhân. SOAP là viết tắt của Subjective (chủ quan), Objective (khách quan), Assessment (thẩm định) và Plan (kế hoạch).

Về sau, tôi đã sử dụng mô hình SOAP nầy và tạo ra “mẫu đơn thông tin bệnh nhân” cho mỗi bài kinh về bệnh tật, với thông tin về bệnh nhân, thời gian và địa điểm thăm viếng của vị đạo sư, mô tả chủ quan về chứng bệnh của bệnh nhân, các triệu chứng quan sát được, toa thuốc trị bệnh, tiên lượng, v.v. Dùng phương pháp nầy để phân tích bài kinh giúp tôi xác định một bộ đầy đủ các pháp thực hành.
Theo kinh nghiệm của tôi, loại mô hình SOAP nầy, gần giống cấu trúc của Tứ Thánh Đế trong bài kinh mô tả Đức Phật như là một y sĩ, đặc biệt phù hợp với con người thời hiện đại. Bằng cách trình bày nội dung các bài kinh như thế, người bệnh, các bác sĩ và những người chăm sóc bệnh nhân có thể hiểu các kinh văn nầy qua một phương cách mới, giúp họ có cái nhìn tươi mới hơn về bệnh tật và cái chết. Sau khi sắp xếp, so sánh và phân tích nội dung của bộ sưu tập, tôi lập ra danh sách của những người sau đây có thể nhận được lợi lạc từ các lời dạy đó:
  • Bệnh nhân có thể dựa vào các bài kinh cho việc thực hành riêng của mình cũng như để tụng đọc;
  • Bác sĩ, người chăm sóc bệnh nhân và tu sĩ có thể dùng các bài kinh đó như là một cuốn sách tham khảo bổ sung khi tương tác với bệnh nhân;
  • Những ai còn khỏe mạnh có thể dùng các bài kinh đó như là những hướng dẫn hay khai triển dẫn nhập để thực hành hàng ngày, sửa soạn sẵn sàng đối diện với bệnh tật và cái chết.
Tóm lại, tôi tin rằng tuyển tập các bài kinh trong cuốn sách nầy đặc biệt thích hợp cho những ai có cuộc sống bận rộn và không có thì giờ để nghiên cứu sâu rộng tất cả các bài kinh. Như thế, bộ sưu tập nầy là tập sách đọc dẫn nhập rất tốt, cung cấp sự hướng dẫn quý giá để hành thiền như được trình bày trong đó.

Ý NGHĨ CUỐI CÙNG 

“Hôm nay là ngày cuối cùng trong đời tôi.” Từ khi bắt đầu bị bệnh, tôi dùng câu nói nầy như là một nguyên tắc hướng dẫn đời tôi. Tôi xem mỗi lớp học, mỗi cuộc hội họp, mỗi cuộc gặp gỡ và mỗi cuộc trò chuyện như là một buổi chia tay. Với thái độ đó, tâm trí tôi tràn ngập lòng biết ơn và trân quý sâu sắc từng khoảnh khắc. Mỗi buổi sáng giống như bắt đầu một đời sống mới: “Hôm nay là ngày đầu tiên của đời tôi.”

Đọc các bài kinh về bệnh tật sau một cuộc chạm trán gần với cái chết, tôi cảm thấy thật sự rất đáng tiếc rằng kho tàng quý báu đó từ lâu đã bị chôn sâu trong kinh điển Phật giáo. Rất ít người để ý đến các bài kinh đó và ít người hơn nữa đã thật sự sử dụng các bài kinh đó để làm hướng dẫn cho việc tu tập. Tôi tri ân ngài Tỳ-khưu Anālayo đã tận tâm phiên dịch tuyển tập các bài kinh và viết kèm theo những lời giải thích. Tôi rất hoan hỷ khi cầm được cuốn sách nầy trong tay, một cuốn sách có thể đi cùng với tôi trong cuộc hành trình cuối cùng của cuộc đời nầy.

Aming Tu
------------------------------------
 

Thursday, 27 June 2019

Chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng


Vào năm 2017 tôi có một buổi chia sẻ trong PalTalk về chủ đề nầy. Có 2 phần chính:

I. CHUẨN BỊ CHO NGƯỜI Ở LẠI: Dặn dò, sắp xếp cho những người thân còn sống trong gia đình.

a) Viết di chúc (legal will) theo đúng luật địa phương: phân chia tài sản, chỉ định những người thừa kế quản lý tài sản.

b) Viết giấy ủy quyền pháp lý (power of attorney) theo đúng luật địa phương, chỉ định người đại diện pháp lý khi tôi lâm trọng bệnh.

c) Dặn dò những người thân trong gia đình, bằng lời nói và viết xuống giấy (last words): không cần thiết phải duy trì sự sống trong trường hợp tôi bị bệnh hay tai nạn trầm trọng vô phương cứu chữa, cho biết tôi đã đăng ký hiến nội tạng, cách thức tổ chức đám tang đơn giản (nhanh, gọn, rẻ), hỏa thiêu, chôn tro cốt ở hàng rào sân chùa, v.v.

Tôi đang duyệt và làm lại các giấy tờ trong phần a) và b) cho đúng luật lệ nước Úc, qua một dịch vụ tư vấn pháp lý tại Perth.

II. CHUẨN BỊ CỦA NGƯỜI SẼ RA ĐI: Chuẩn bị tâm lý cho chính mình, thường xuyên quán niệm về sự chết qua nhiều phương cách khác nhau. Có thể xem thêm tại:

http://budsas.net/dlpp/bai75/index.htm

* Ghi thêm: Những gì tôi làm ở trên thật ra không mới lạ hay độc đáo gì cả. Rất nhiều người Úc thuộc mọi tôn giáo khác nhau đã làm các bước cụ thể tương tự như ghi trong Phần I, trong khuôn khổ pháp lý của nước Úc. Phần II - chuẩn bị tâm lý - là dựa theo lời Phật dạy trong các bài kinh về niệm chết và được khai triển chi tiết trong cuốn Thanh Tịnh Đạo của ngài luận sư Buddhaghosa.

*
  

Monday, 17 June 2019

Con đường xưa tôi đi

CON ĐƯỜNG XƯA TÔI ĐI
252 Stirling Street, Perth, Western Australia.

Sáng nay lái xe đưa bà xã vào trung tâm thành phố có chút việc. Trên đường về, tôi lái xe đi vào con đường này, chợt nhớ đến các kỷ niệm xưa. Đến trước ngôi nhà cũ, chụp vài tấm hình.

Đây là ngôi nhà đầu tiên chúng tôi đến thuê ở trong bốn năm, sau khi định cư tại Tây Úc. Khi mới đến Perth, chúng tôi ở tạm trong ký túc xá sinh viên của Đại học Murdoch vài tháng, rồi tìm nhà ở gần trung tâm thành phố để bà xã tiện đi làm và cũng tiện cho tôi đi làm tại các nhà hàng vào ban đêm. Đọc báo, thấy có quảng cáo cho thuê căn nhà này, tôi đến gặp chủ nhà. Sau khi trò chuyện khoảng 10 phút, ông vui vẻ nhận cho thuê với các điều kiện dễ dàng. Một thời gian sau, chúng tôi trở nên thân tình với ông bà chủ nhà.

Đây là căn nhà của cha bà chủ nhà để lại. Ông cụ ngày trước là một quân nhân Úc, đã từng làm việc tại Ấn Độ và Miến Điện, và để lại nhiều hình ảnh của hai xứ đó. Một thời gian sau, ông chủ nhà biết tôi là gốc kỹ sư tốt nghiệp tại Việt Nam và Thái Lan và đang là nghiên cứu sinh tiến sĩ, ông đề nghị tôi làm đơn xin gia nhập Hội Kỹ sư Úc, vì nếu được chấp nhận, thì mới dễ xin việc làm với tư cách là một kỹ sư. Ông và người em trai đều là kỹ sư làm việc cho chính phủ Tây Úc, và sẵn sàng viết giấy giới thiệu hỗ trợ cho tôi gia nhập Hội Kỹ sư. Đây là một phước duyên rất lớn vì lúc đó, tôi không hề quen biết một chuyên gia kỹ thuật nào trong xã hội Tây Úc. Nhờ đó mà về sau, khi hoàn tất chương trình tiến sĩ, tôi vào làm việc cho chính phủ với chức vụ kỹ sư cho đến khi nghỉ hưu.

Về sau này, khi căn nhà được bán để thành lập văn phòng công ty, chúng tôi dọn đi nơi khác, nhưng vẫn liên lạc thăm hỏi ông bà chủ nhà cho đến khi ông bà qua đời. Căn nhà vẫn được giữ hình dáng cũ. Mỗi lần đi ngang qua, tôi nhớ lại các kỷ niệm xưa và nhớ đến lòng tốt của ông bà chủ nhà đó.

Perth, Tây Úc
17 tháng 6, 2019.

*

Thursday, 6 June 2019

Về bốn quả Thánh và mười kiết sử

Về bốn quả Thánh và mười kiết sử
Bình Anson (2019)

Kinh điển của Phật giáo Sơ kỳ (Nikāya và A-hàm) thường đề cập đến bốn quả vị mà tất cả những người con Phật phải nhắm đến trên đường giải thoát, đưa đến Niết-bàn. Các quả vị nầy được xem như là các dấu mốc – hoặc các chặng đường – trên hành trình thanh lọc tâm ý, tiêu diệt các ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, cắt đứt mười sợi dây trói buộc chúng sinh vào vòng luân hồi (kiết sử hay thằng thúc, saṁyojana).

Bốn quả vị đó là:

- Dự lưu (Sotāpanna, Tu-đà-hoàn),
- Nhất lai (Sakadāgāmi, Tư-đà-hàm),
- Bất lai (Anāgāmī, A-na-hàm),
- A-la-hán (Arahant, Ứng cúng).

Mười kiết sử là:

- Thân kiến (Sakkāya-diṭṭhi),
- Hoài nghi (Vicikicchā),
- Giới lễ nghi thủ (Sīlabata-parāmāsa)
- Dục ái (Kāma-rāga)
- Sân hận (Vyāpāda),
- Sắc ái (Rūpa-rāga),
- Vô sắc ái (Arūpa-rāga),
- Mạn (Māna),
- Trạo cử vi tế (Uddhacca),
- Si vi tế (Avijjā).

Năm kiết sử đầu gọi là hạ phần kiết sử (orambhāgiya-saṁyojana), năm kiết sử cuối gọi là thượng phần kiết sử (uddhambhāgiya-saṁyojana).

Trong nhiều bài kinh, Đức Phật thường tóm tắt về bốn quả thánh đó như sau:

“... Có những tỳ-khưu là những vị A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn trừ, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánh trí.

“Có những tỳ-khưu là những vị Bất lai, đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sinh, từ ở đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa.

“Có những tỳ-khưu là những vị Nhất lai, đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, sau khi sinh vào đời này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau.

“Có những tỳ-khưu là những vị Dự lưu, đã đoạn trừ ba kiết sử, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ đạt đến giác ngộ.” – (MN 118)

*

Người đạt quả Dự lưu là người đã phá bỏ ba kiết sử đầu tiên: thân kiến, hoài nghi, và giới lễ nghi thủ. Người nầy được xem như là một người đã nhập vào dòng giải thoát, tùy theo hạnh nghiệp và tinh tấn mà chỉ tái sinh làm người hoặc trong các cõi trời, tối đa là bảy kiếp. Người nầy còn được gọi là đã mở "Pháp nhãn", vì người ấy đã bắt đầu có thanh tịnh về quan kiến, đã trực nhận rõ ràng Chánh Pháp của Ðức Phật. Người đó không còn xem mình như là một bản thể riêng biệt và thường tồn, kể cả hình sắc và tâm thức. Người đó không còn một chút nghi ngờ nào về sự hiện hữu và lợi ích của Tam Bảo: không còn hoài nghi về sự giác ngộ của Ðức Phật, không còn hoài nghi về con đường mà Ðức Phật đã vạch ra để đi đến giác ngộ, không còn hoài nghi về những đệ tử của Ngài đã đi theo con đường ấy và đã đạt được sự giải thoát tối hậu. Người ấy cũng không còn có ảo tưởng rằng Niết-bàn có thể đạt được bằng cách ép mình vào các hình thức lễ nghi phiến diện hay các điều lệ ước định nào đó.

Thân kiến (Sakkāya-diṭṭhi), kiết sử đầu tiên, là sự hiểu sai lạc về cái gọi là Tự ngã, hay cái Tôi, đồng hóa nó với một trong năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong bài kinh số 44, thuộc Trung bộ (MN 44), Ni sư Dhammadina giảng rằng một người đã đoạn trừ thân kiến là một người “không xem sắc là tự ngã, không xem tự ngã là có sắc, không xem sắc là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong sắc”, tương tự như thế đối với bốn uẩn còn lại.

Có người thường hiểu lầm về từ “hoài nghi” dùng ở đây. Tiếng Pali là “vicikicchā”. Ngài Phật Âm (Buddhaghosa), trong bộ luận Thanh Tinh Đạo, nói rằng “vicikicchā” phải hiểu là một thái độ cuồng tín mù quáng, không sẵn sàng tra vấn, học hỏi. Do đó cần phải trừ khử kiết sử nầy. Ðức Phật khuyến khích chúng ta phải biết suy tư, luận giải và chứng nghiệm, vì Pháp là “mời mọi người đến xem xét” (ehipassiko). Ðể rồi chúng ta thấy, biết rõ ràng sự ích lợi của Phật Pháp cho con đường hành trì của ta, và từ đó, ta có một niềm tin vững chắc vào Tam Bảo, không còn thắc mắc, phân vân, hay do dự gì nữa.

Từ “giới lễ nghi thủ” (sīlabata-parāmāsa), có sách ghi là “giới cấm thủ”, cũng thường bị hiểu lầm. Trừ khử “giới lễ nghi thủ” không có nghĩa là một thái độ buông lơi, phóng túng, dễ duôi, không giữ gìn giới hạnh. Trái lại, nó có nghĩa là một thái độ minh triết, xem giới luật như là một phương tiện tốt, cần thiết để luyện tâm, nhưng lại không mù quáng, không quá lệ thuộc vào các hình thức giáo điều. Một người không còn giới lễ nghi thủ là một người lúc nào cũng có giới đức trong sạch, nhưng sống thảnh thơi trong giới luật đạo hạnh, không còn coi đó là một gánh nặng trên con đường hành trì của mình.

Để trừ khử các kiết sử trên, Đức Phật khuyên chúng ta phải nỗ lực thực hành bốn điều: (1) thân cận bậc chân nhân, (2) lắng nghe diệu pháp, (3) như lý tác ý, và (4) thực hành pháp và tùy pháp, như đã ghi trong Tương ưng (SN 55.11):

“Thân cận bậc chân nhân là Dự lưu phần.
Nghe diệu pháp là Dự lưu phần.
Như lý tác ý là Dự lưu phần.
Thực hành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần”.

Rồi Ngài giảng về sự liên quan của bốn pháp trên:

– “Này các tỳ-khưu, giao thiệp với bậc chân nhân được viên mãn thì làm viên mãn nghe diệu pháp; nghe diệu pháp được viên mãn thì làm viên mãn lòng tin; lòng tin được viên mãn thì làm viên mãn như lý tác ý; như lý tác ý được viên mãn thì làm viên mãn niệm và tỉnh giác; niệm và tỉnh giác được viên mãn thì làm viên mãn các căn được chế ngự; các căn được chế ngự được viên mãn thì làm viên mãn ba thiện hành; ba thiện hành được viên mãn thì làm viên mãn bốn niệm xứ; bốn niệm xứ được viên mãn thì làm viên mãn bảy giác chi; bảy giác chi được viên mãn thì làm viên mãn minh giải thoát” (AN 10.61).

Về thân cận bậc chân nhân, Ngài giảng:

– “Thế nào là làm bạn với thiện? Ở đây, thiện nam tử sống tại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay con người gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận. Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập với đầy đủ lòng tin. Với những người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập với đầy đủ trí tuệ. Đây gọi là làm bạn với thiện” (AN 8.54).

Rồi Ngài khuyên:

“Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng,
Hãy thân cận người trí.
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu.” (Dhp 76)

“Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân.
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân.” (Dhp 78)

Đức Phật đề cập đến 5 lợi ích của việc biết nghe diệu pháp: (1) được nghe điều chưa nghe, (2) làm cho trong sạch điều được nghe, (3) đoạn trừ nghi, (4) làm cho tri kiến chánh trực, và (5) làm cho tâm tịnh tín (AN 5.202).

Trong kinh “Tất cả các lậu hoặc” (MN 2), Đức Phật dạy về pháp như lý tác ý để điều hướng các sự suy nghĩ của mình sao cho có lợi lạc trên đường tu tập, như sau:

– “Này các tỳ-khưu, thế nào là các pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý? Này các tỳ-khưu, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sinh không sinh khởi, hay dục lậu đã sinh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sinh không sinh khởi, hay hữu lậu đã sinh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sinh không sinh khởi, hay vô minh lậu đã sinh được trừ diệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh không sinh khởi và các lậu hoặc đã sinh được trừ diệt.

Vị ấy như lý tác ý: Ðây là khổ; như lý tác ý: Ðây là khổ tập; như lý tác ý: Ðây là khổ diệt; như lý tác ý: Ðây là con đường đưa đến khổ diệt. Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các tỳ-khưu, các pháp ấy được gọi là pháp dùng tri kiến để đoạn trừ các lậu hoặc”.

Khi Tỳ-khưu Kotthika hỏi ngài Trưởng lão Xá-lợi-phất cần phải như lý tác ý thế nào để được giải thoát, ngài đáp:

– “Này Hiền giả Kotthika, tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.

Năm thủ uẩn đó là gì? Đó là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Hiền giả Kotthika, vị tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã” (SN 22.122).

Về thực hành pháp và tùy pháp, ở đây được giảng rộng ra, bao gồm niệm và tỉnh giác, phòng hộ các căn, huân tập ba thiện hành (thân, khẩu, ý), thực hành bốn niệm xứ (thân, thọ, tâm pháp), và phát triển bảy giác chi (niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả).

Trong nhiều bài kinh (Tương ưng, phẩm Dự lưu), Đức Phật thường đề cập đến bốn đặc tính của một vị thánh Dự lưu là: niềm tín thành bất động nơi Đức Phật, nơi Giáo Pháp của Ngài, nơi đoàn thể các vị Thánh Tăng và có giới đức cao thượng, lúc nào cũng được các bậc chân nhân khen ngợi. Trong Tăng chi (AN 10.92), Ngài giảng:

– “Thế nào là thành tựu bốn Dự lưu phần? Ở đây, này Gia chủ, vị thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với Đức Phật: Ðây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp: Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu. Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với chúng Tăng: Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chân chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được đảnh lễ, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Vị ấy thành tựu với những giới đức được các bậc thánh ái kính, không bị phá hủy, không bị bể vụn, không bị điểm chấm, không bị uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến thiền định.”

Mặc dù đoạn kinh trên thường được xem là các tiêu chuẩn căn bản của quả Dự lưu, trong kinh điển còn có ghi các danh sách khác, trong đó, tiêu chuẩn về giới hạnh được thay thế bằng tiêu chuẩn bố thí và trí tuệ:

(i) Bài kinh trong Tương ưng SN 55.32 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: “Lại nữa, vị thánh đệ tử trú ở gia đình, với tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vật bố thí.”

(ii) Bài kinh trong Tương ưng SN 55.33 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: “Lại nữa, vị thánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sinh diệt của các pháp, trí tuệ các bậc thánh thể nhập các pháp, đưa đến chân chánh đoạn tận khổ đau.”

Khi các danh sách liệt kê này được kết hợp lại, chúng ta có được bốn đức tính của vị thánh Dự lưu: (1) đầy đủ lòng tin, (2) đầy đủ giới đức, (3) đầy đủ bố thí, và (4) đầy đủ trí tuệ.

Đó cũng là bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho một cư sĩ Phật tử:

– “Có bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn? Đó là đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ” (AN 8.54).

Ở đây, lòng tin nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) không phải chỉ đơn thuần là sự tin tưởng, sùng tín mù quáng. Vị Dự lưu thật sự tín nhiệm, tin tưởng nơi nguyên lý nghiệp quả - nguyên lý của hành động và hậu quả - vì vị ấy đã chứng nghiệm rõ ràng khi bắt đầu nhập dòng thánh.

*

Trong giai đoạn kế tiếp, khi dục ái (tham đắm vào dục giới) và sân hận được trừ khử một cách đáng kể thì người đó đắc quả Nhất lai, nghĩa là có thể còn tái sinh làm người hoặc trong cõi trời dục giới một lần nữa. Khi hai kiết sử dục ái và sân hận được loại bỏ hoàn toàn, thì người ấy vào quả Bất lai, nghĩa là không còn tái sanh vào cõi dục giới nầy nữa. Năm kiết sử đầu tiên nầy gọi là “hạ phần kiết sử” (orambhāgiya-saṁyojana), cột trói chúng ta trong cõi dục.

Người ấy tiếp tục hành trì thanh lọc tâm ý, và tinh tấn trừ khử năm kiết sử còn lại: tham đắm vào cõi sắc (sắc ái), tham đắm vào cõi vô sắc (vô sắc ái), trạo cử vi tế, mạn, và si vi tế. Năm kiết sử nầy gọi là “thượng phần kiết sử” (uddhambhāgiya-saṁyojana), cột trói chúng ta trong cõi sắc và vô sắc. Ở đây, tham đắm vào cõi sắc và cõi vô sắc là sự tham đắm vào bốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa-jhāna) và bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpa-jhāna). “Trạo cử vi tế” (uddhacca) là trạng thái vẫn còn một vài giao động nhỏ trước trần cảnh, “mạn” (māna) là các ý tưởng so sánh, và “si vi tế” (avijjā) là một vài dấu vết vô minh ngăn che còn sót lại.

Ðến lúc đó, người ấy đã phá tung tất cả mười sợi dây trói buộc, trừ khử mười loại kiết sử ô nhiễm, lậu hoặc đã đoạn tận, tuệ giác khai mở, không còn tạo nghiệp, không còn phải tái sinh, luân hồi nữa. Nói một cách khác, như đã mô tả trong Trung bộ, bài kinh số 1 (kinh “Pháp môn Căn bản”, MN 1), đối với người ấy: “Các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đạt chánh trí giải thoát.” Người ấy trở thành bậc A-la-hán, đắc đạo quả Niết-bàn, giải thoát rốt ráo tối hậu.

Bình Anson,
Perth, Tây Úc, tháng 11-1998
(Hiệu đính và bổ sung: 2004, 2019)

Nhận dòng giải thoát
Bốn quả Thánh
Quả Dự Lưu



Friday, 24 May 2019

“Trái tim bất diệt” của Bồ-tát Quảng Đức hiện ở đâu?

Trích: Giác Ngộ Online, ngày 04/06/2013
https://giacngo.vn/thuvien/2013/06/04/33D248

(...)
(Ngày 19 tháng 6, 1963) Nhục thân Bồ-tát được cung thỉnh về thiêu tại Đài hỏa táng An dưỡng địa ở Phú Lâm (Sài Gòn). Theo nhiều nhân chứng, sau khi nhục thân biến thành tro, thì lạ lùng thay, quả tim vẫn còn. Quả tim lại được đưa trở lại lò thiêu với ngọn lửa trên 4.000 độ, trong nhiều giờ liền, nhưng vẫn không cháy, trở thành một khối rắn như đá với hình dáng nguyên vẹn một cách huyền diệu, lạ thường. Chư Tăng Ni, Phật tử và những người chứng kiến, thêm một lần nữa, kính lễ trong niềm xúc động không nói nên lời. Chư tôn đức trong Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo đã hội ý và quyết định cung thỉnh Trái tim bất diệt của Bồ-tát trở về chùa Xá Lợi, Quận 3, Sài Gòn, để tôn thờ.



Qua bao gian nguy, Trái tim bất diệt của Bồ-tát vẫn được gìn giữ nơi tôn nghiêm ở chùa Xá Lợi, rồi tôn thờ tại Việt Nam Quốc Tự. Sau đó được gởi vào Ngân hàng Pháp tại Sài Gòn, và hiện nay cũng đang được bảo quản trong Ngân hàng Nhà nước, Chi nhánh phía Nam, theo văn bản bàn giao ký gởi 11 giờ trưa ngày 26-04-1991. Bên đứng tên ký gởi là HT. Thích Thiện Hào (lúc bấy giờ là Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN, Trưởng ban Trị sự THPG TP.HCM), HT. Thích Từ Nhơn (lúc đó là Phó Trưởng ban Tăng sự T.Ư) và TT. Thích Giác Toàn (lúc bấy giờ là Ủy viên Kiểm soát T.Ư GHPGVN). Nhị vị HT. Thích Thiện Hào và HT. Thích Từ Nhơn đã viên tịch, nay còn một nhân chứng duy nhất đại diện Giáo hội trong lễ bàn giao ký gởi trên là HT. Thích Giác Toàn, đương kim Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN.

Nhớ lại sự kiện quan trọng đó, HT. Thích Giác Toàn cho biết: “Lúc Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân, tôi còn nhỏ, đang tu học tại tịnh xá Mỹ Đức ở Mỹ Tho. Đến cuối năm 1965 tôi mới lên Sài Gòn tu học tại tịnh xá Trung Tâm. Với sự kiện thiêng liêng chấn động thế giới là Bồ-tát Thích Quảng Đức tự thiêu, tôi chỉ được biết đến qua sách báo, dư luận và đặc biệt là qua lời kể của những nhân chứng, chư tôn túc giáo phẩm, các cư sĩ lão thành, trong lòng tôi luôn hướng về Ngài bằng tấm lòng ngưỡng mộ tôn kính.

“Là thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, vào tháng 4 năm 1991, khi hay tin được chư vị giáo phẩm lãnh đạo HT. Thích Thiện Hào và HT. Thích Từ Nhơn cử tôi tham gia đoàn tiếp nhận và bàn giao Trái tim bất diệt của Bồ-tát Thích Quảng Đức ở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh, trong lòng tôi có một niềm hỷ lạc vô biên, bởi đây là một nhân duyên rất đặc biệt với tôi, từng giờ từng phút trông đến sự kiện đó để được chiêm bái Trái tim Bồ-tát”.

Những ký ức vẫn còn như mới hôm qua, HT. Thích Giác Toàn kể tiếp: “Tôi nhớ hôm đó tại văn phòng làm việc của ngân hàng có HT. Thích Thiện Hào, HT. Thích Từ Nhơn, HT. Thích Thông Bửu và tôi; về phía ngân hàng và các cơ quan liên quan có ông Trịnh Thanh Tùng, Vụ phó Vụ Phát hành Kho quỹ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bà Nguyễn Thị Thu Hồng, thủ quỹ Ngân hàng Nhà nước, bà Trần Thị Kim Liên, kế toán Ngân hàng Nhà nước, ông Nguyễn Văn Ngọc, Vụ phó Vụ Tôn giáo Chính phủ, ông Phạm Văn Hùng, Giám đốc Bảo tàng Cách mạng TP.HCM, ông Bùi Văn Hàn, thuộc Bộ Nội vụ, và ông Đỗ Quốc Dân, Phó ban Tôn giáo TP. HCM. Do tính chất đặc biệt quan trọng và giá trị thiêng liêng của Trái tim bất diệt của Bồ-tát, nên nghi thức ký nhận và bàn giao gởi được tiến hành một cách nghiêm cẩn”.

Trong trả lời báo chí về việc bảo quản Trái tim bất diệt của Bồ-tát, lúc sinh tiền, HT. Thích Từ Nhơn đã từng kể lại trước đây, Hòa thượng lúc đang ở Sa Đéc thì được triệu tập về Sài Gòn và được Đức Tăng thống - Trưởng lão HT. Thích Tịnh Khiết, giao nhiệm vụ thiêng liêng là bảo quản tôn thờ Trái tim bất diệt ở Việt Nam Quốc Tự. Vì lo sự an toàn, Hòa thượng đã đề nghị được gởi vào Ngân hàng Pháp quốc tại Sài Gòn để được bảo mật. Trái tim bất diệt đã được tôn trí trong một tháp bằng đồng và có dán niêm phong có chữ ký của Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết.

Trước năm 1975, Hòa thượng thường vào lễ Trái tim Bồ-tát được cất giữ ở tầng hầm của ngân hàng. Sau năm 1975, theo quy luật chung, Ngân hàng Nhà nước tiếp quản các ngân hàng ở Sài Gòn, trong đó có việc tiếp nhận và gìn giữ trái tim Bồ-tát Thích Quảng Đức. Đến năm 1991, một lần nữa, Trái tim bất diệt được giao lại Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh TP.HCM gìn giữ trước sự chứng kiến của đại diện GHPGVN, chính quyền, ngân hàng trong sự kiện nói trên. “Mới đó mà đã hơn 20 năm…” - HT. Thích Giác Toàn bùi ngùi nói.

“Tôi nhớ lúc có đủ mọi người, đại diện ngân hàng đã cẩn thận mang một chiếc tháp bằng đồng, cao chừng gần nửa thước, rộng khoảng 0,3-0,4 mét; còn nguyên niêm phong có chữ ký và khuôn dấu của Đức Tăng thống Thích Tịnh Khiết và HT. Thích Từ Nhơn. Đại diện của ngân hàng cho biết Nhà nước đã bảo quản tốt từ sau ngày 30-4-1975, nay chuyển lại cho đại diện Phật giáo”, HT. Thích Giác Toàn kể lại.

Hòa thượng cho biết thêm, chư tôn đức giáo phẩm sau hơn một giờ bàn bạc đã đi đến thống nhất là gởi lại Ngân hàng Nhà nước để bảo quản. “Bảo tháp bằng đồng bên trong tôn trí xá-lợi Trái tim Bồ-tát được giữ nguyên niêm phong và bàn giao gởi lại theo văn bản trên trước sự chứng kiến của nhiều người”, HT. Thích Giác Toàn cho biết. Từ đó đến nay, hơn hai mươi năm, Trái tim bất diệt vẫn ở trong Kho Lưu trữ đặc biệt của ngân hàng; qua thăm dò của người viết bài này, chưa một lần mở cửa, hoặc được cung thỉnh để Tăng Ni, Phật tử, người tôn kính Ngài được đảnh lễ, chiêm bái.

“Dòng thời gian nửa thế kỷ đã trôi qua sau khi Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân để lại Trái tim bất diệt nung tới hơn 4.000 độ vẫn không cháy, trở thành ngọc xá-lợi, là một tu sĩ Phật giáo thuộc thế hệ con cháu của Bồ-tát, tôi mong Giáo hội và môn đồ pháp quyến Bồ-tát có một phương thức cụ thể nhằm thiết kế một nơi tôn thờ Trái tim bất diệt - bảo vật không chỉ của Phật giáo mà của quốc gia, để hậu thế được có dịp tôn kính, lễ bái, chiêm ngưỡng và bày tỏ tấm lòng thành với Bồ-tát đã vị pháp thiêu thân”. - Tâm sự của HT. Thích Giác Toàn cũng là tâm nguyện của nhiều người, nhất là trong dịp Đại lễ Kỷ niệm 50 năm ngày Bồ-tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân (1963-2013).

 Hoàng Độ
* * *
* * *
  
Ghi thêm:
Ngày 23-05-2019, HT. Thích Trí Quảng, Phó Pháp chủ GHPGVN cùng chư tôn đức Ban Trị sự GHPGVN TP. HCM đến chùa Quán Thế Âm (Q. Phú Nhuận, Sài Gòn), trú xứ cuối cùng của Bồ-tát Thích Quảng Đức, để cung thỉnh một phần xá-lợi xương và bộ kinh Pháp Hoa mà ngài thọ trì trước lúc vị pháp thiêu thân đem về tôn trí tại Việt Nam Quốc Tự (Q. 10, Sài Gòn) cùng với biểu tượng của "Trái Tim Bất Diệt" được tạc khắc bằng đá hồng ngọc của Myanmar. 
(Bình Anson, 24-05-2019)
* * *



Thursday, 16 May 2019

Sưu tập bộ A-HÀM, Hán tạng

Ngoài các bộ kinh Nikaya, tôi cũng sưu tập và tham cứu các bản dịch bốn bộ kinh A-hàm thuộc Hán tạng, do quý ngài Hòa thượng Thiện Siêu, Thanh Từ, Đức Thắng và Tuệ Sỹ dịch trong 20 năm qua.

Theo tôi, đọc kinh Nikaya mà không chịu khó tham cứu đối chiếu với kinh A-hàm là một thiếu sót lớn (và ngược lại). Cả hai nguồn đều là kinh văn nguyên thủy của Phật giáo.