Monday, 2 May 2022

Điều răn duy nhất trong gia đình tôi

Khi còn là một sinh viên ở Sài Gòn rồi sau đó sang du học ở Bangkok trước 1975, tôi rất thích phim “Love Story” (Chuyện Tình), đi xem ở rạp chiếu bóng, rồi tìm mua đọc cuốn sách của Erich Segal. Trong đó có một đoạn ngắn tôi thích nhất, về cuộc đối thoại giữa người cha và cô con gái độc nhất của mình:

“He had then warned his daughter not to violate the Eleventh Commandment.
“Which one is that?” I asked her.
“Do not bullshit thy father,” she said.”
― Erich Segal, Love Story

“Ông cảnh cáo con gái ông đừng vi phạm vào Điều Răn Thứ 11 (của Đức Chúa Trời).
“Điều răn đó là gì?” Tôi hỏi cô ấy.
“Đừng ba xạo với cha của mình”, cô trả lời.

Như các bạn đã biết, trong đạo Ky-tô có mười điều răn của Đức Chúa Trời. Nhưng ở đây, cha của cô gái đặt thêm một điều răn nữa.

Tôi rất ấn tượng về câu nói đó. Khi lập gia đình và có hai cô con gái, tôi thường nói với các cô là nhà mình theo đạo Phật, không có mười điều răn, chỉ có một điều răn duy nhất là:

- “DO NOT BULLSHIT YOUR FATHER” (Đừng ba xạo với cha của mình).

Trong gia đình, bất cứ chuyện gì cũng nên thành thật với nhau, đừng ngại ngùng, e dè. Để thông cảm lẫn nhau, vui buồn với nhau, và cùng nhau giải quyết các khó khăn trong cuộc sống.

Bình Anson,
Perth, Tây Úc, 2019.

*


Saturday, 30 April 2022

Về Tạng A-tỳ-đàm (Abhidhamma Piṭaka, Tạng Vi Diệu Pháp, Tạng Thắng Pháp)

ABHIDHAMMA PIṬAKA – Vi Diệu Pháp Tạng, Tạng A-tỳ-đàm.
Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch (2006), Bình Anson hiệu đính (2022).

* Nguồn: “Dictionary of Pāli Proper Names”, G. P. Malalasekera (1938, 1997), Pali Text Society.

Đây là tạng thứ ba của Tam tạng (Tipiṭaka). Gồm bảy bộ: Pháp tụ (Dhammasaṅganī), Phân tích (Vibhaṅga), Ngữ tông (Kathāvatthu), Nhân chế định (Puggalapaññati), Nguyên chất ngữ (Dhātukathā), Song đối (Yamaka) và Vị trí (Paṭṭhāna); tất cả được gọi là Luận thư (Pakaraṇa). Chỉ trong Biên niên (Chronicles) và Chú giải (Commentaries), từ “Abhidhamma” mới được dùng làm tựa của Tạng thứ ba [1]. Trong Kinh tạng [2], từ ấy có nghĩa là “pháp đặc biệt”, nghĩa là một giáo lý đơn thuần (không có pha trộn thêm văn học hay truyện cá nhân, v.v.), và thỉnh thoảng được dùng kèm theo từ Abhivinaya [3] – được hiểu như là pháp tối thượng và luật tối thượng.

Có người cho rằng [4], vì từ Abhidhamma không thấy hiện diện đơn lẻ trong Kinh tập (Sutta Nipāta), Tương ưng bộ (Saṃyutta Nikāya) hay Tăng chi bộ (Aṅguttara Nikāya), và chỉ được thấy một đôi lần trong Trường bộ (Dīgha Nikāya) và Trung bộ (Majjima Nikāya), từ ấy chỉ được sử dụng vào giai đoạn cuối khi hình thành bốn bộ Nikāya [5].

Những người theo Đại chúng bộ (Mahāsaṅghika) không chấp nhận xem A-tỳ-đàm là một Tạng (Piṭaka) vì họ không công nhận đó là lời của Phật [6].

Theo nhóm Trì tụng Trường bộ (Dighabhānaka), tạng A-tỳ-đàm (Abhidhamma Piṭaka) bao gồm toàn bộ Tiểu bộ (Khuddaka Nikāya), ngoại trừ Hạnh tạng (Cariyāpiṭaka), Thánh nhân Ký sự (Apadāna) và Phật sử (Buddhavaṃsa) [7].

Theo cách phân chia khác, năm bộ Nikāya không phải là thành phần riêng của các bài kinh giảng mà là của toàn bộ kinh văn của thời kỳ nguyên thủy; và trong bộ thứ năm – Tiểu bộ (Khuddaka Nikāya) – bao gồm cả tạng Luật (Vinaya) và tạng A-tỳ-đàm (Abhidhamma) [8].

Ngài Buddhaghosa (Phật Âm) có ghi lại truyền thuyết cho rằng A-tỳ-đàm được Đức Phật thuyết lần đầu tiên ở cõi trời Đao Lợi (Tāvatiṃsa), dưới gốc cây Pāricchataka, lúc Ngài ngồi trên ngai của Thiên chủ Đế-thích (Sakka), trong dịp viếng thăm thân mẫu trên cõi ấy. Sau đó, Phật dạy lại cho Trưởng lão Xá-lợi-phất bên bờ hồ Anotatta, chỗ mà Trưởng lão Xá-lợi-phất đến để phục vụ Đức Phật trong lúc Ngài viếng cõi trời Đao-lợi [9].

Truyền thuyết còn nói thêm rằng sau khi đắc quả Chánh đẳng giác, Đức Phật dành tuần lễ thứ tư ngự tại Bảo cung (Ratanaghara), tập trung tâm trí vào từng chi tiết về các giáo lý phức tạp của A-tỳ-đàm [10].

Tuy nhiên, theo Tiểu phẩm (Cullavagga) của tạng Luật (Vinaya Piṭaka), trong hai kỳ Kết tập Kinh điển đầu tiên [11], tạng A-tỳ-đàm không thấy được trùng tụng.

Sự kiện mà A-tỳ-đàm (Abhidhamma) không thấy được đề cập trong các bài kinh và chỉ có Pháp (Dhamma) và Luật (Vinaya) được đề cập đến cho thấy rằng, vào một lúc nào đó, A-tỳ-đàm không được kết hợp thành một tạng riêng biệt. Trên thực tế, A-tỳ-đàm không được các nhà Chú giải gọi là lời của Phật dạy theo ý nghĩa như các bài kinh. Thêm vào đó, chỉ có một bộ trong tạng A-tỳ-đàm – bộ Ngữ tông (Kathāvatthu) [12], được đem ra giảng dạy trong kỳ Kết tập Kinh điển lần thứ ba.

Bảy bộ A-tỳ-đàm được xem như rất đặc biệt đối với trường phái Theravāda (Thượng tọa bộ); tuy nhiên có bằng chứng cho thấy nhiều trường phái khác, nhất là phái Nhất thiết Hữu bộ (Sarvāstivāda), cũng xem A-tỳ-đàm như là kinh văn thiêng liêng [13].

Về nội dung, A-tỳ-đàm không tạo ra một triết lý được sắp đặt theo một hệ thống nào, mà là một luận giải về về các Pháp (Dhamma) như thấy trong tạng Kinh (Sutta Piṭaka). Hầu hết đều có có tính cách tâm lý và luận lý; các giáo lý căn bản được đề cập hay bàn luận là những gì đã được đề xuất trong các bài kinh, và như vậy, được xem như là hiển nhiên [14]. Ngoài các Chú giải về bảy bộ A-tỳ-đàm, còn có một công trình luận giải về toàn bộ tạng A-tỳ-đàm, có tên là Phụ chú giải A-tỳ-đàm (Abhidhamma Mūlaṭīkā) do ngài Ānanda Vanaratanatissa thuộc trường phái Vanavāsī (Lâm trú) của Sri Lanka soạn thảo.

Ngài Ānanda Vanaratanatissa dựa trên các Chú giải của Luận sư Buddhaghosa (Phật Âm), nhưng có nhiều nơi ngài không đồng ý với Luận sư Buddhaghosa. Công trình được soạn thảo theo lời yêu cầu của Trưởng lão Buddhamitta và tu chính bởi ngài Mahā Kassapa ở Pulatthipura.

Có một Phụ chú (Anuṭīkā) về A-tỳ-đàm do ngài Culla Dhammapāla soạn [15].

----------

Ghi chú:

[1] Xem thảo luận trong DA. i. 15, 18 f.
[2] Vin.i. 64; iii. 144; iv. 344.
[3] D. iii. 267; M. i. 272.
[4] Xem New Pāli Dictionary về từ Abhidhamma
[5] Xem Dial. iii. 199 về nguồn gốc của Abhidamma.
[6] Dpv. v. 32-8.
[7] DA. i. 15.
[8] DA. i. 23.
[9] VibhA. p. 1; AA. i. 71 v.v.
[10] J. i. 78.
[11] Chương xi và xii; nhưng xem thêm DA. i. 15 với thông tin khác.
[12] Xem Kathāvatthu.
[13] Xem Tārānātha: Geschichte des Buddhismus (56) 156 (296).
[14] Thảo luận về nội dung: xem tài liệu về Abhidhamma trong ERE.
[15] Gv. 60, 69. Chi tiết: xem P.L.C., pp. 210-2. Gv. (72) cũng có đề cập đến Abhidhammagaṇḍhi, có thể là một bản tự vựng.

D. = Digha Nikaya, 3 vols. (P.T.S.).
DA. = Sumangala Vilāsinī, 3 vols. (P.T.S.).
Dial. = Dialogues of the Buddha, 3 vols. (Oxford).
Dpv. = Dipavamsa, ed. Oldenberg (Williams and Norgate).
ERE. = Encyclopedia of Religion and Ethics.
Gv. = Gandhavamsa (P.T.S. Journal, 1886).
J. = Jātaka, ed. Fausboll, 5 vols.
M. = Majjhima Nikaya, 3 vols. (P.T.S.).
P.L.C. = The Pali Literature of Ceylon, by Malalasekera (R.A.S.).
VibhA. = Sammoha-Vinodanī, Vibhanga Commentary (P.T.S.).
Vin. = Vinaya Pitaka, 5 vols., ed. Oldenberg (Williams and Norgate).

------------------


30/4: Thành kính tưởng niệm và Hồi hướng phước báu.

Sáng nay có Ajahn Brahm và 2 vị sư đi bát. Sau khi đặt bát, tôi có trình với Sư là hôm nay, 30/4, là một ngày đặc biệt cho người Việt, đánh dấu ngày chấm dứt cuộc nội chiến (1954-1975) với 2,5 triệu người chết, và bắt đầu những cuộc di tản vượt biên trong 20 năm tiếp theo (1975-1995), có khoảng 200 ngàn người đã chết trên biển cả.

Thành kính tưởng niệm và xin hồi hướng phước báu tạo được sáng hôm nay đến những người ấy. Nguyện cho tất cả được tái sinh về cõi an vui.

🙏🙏🙏

Bình Anson
Nollamara, Tây Úc
30/04/2022

*


Friday, 15 April 2022

Hòa thượng HỘ GIÁC (1928-2012) và chữ NIỆM

Vào giữa thập niên 1990, các bạn đạo người Việt tại Perth bắt đầu biết đến pháp hành thiền trong truyền thống Theravada, và cũng như những nơi khác, bắt đầu tìm hiểu, bàn luận sôi nổi về thiền minh sát, thiền tứ niệm xứ, chánh niệm, con đường duy nhất, v.v.

Trong thời gian đó, ngài Hòa thượng và phái đoàn chư Tăng từ Hoa Kỳ đến viếng thăm Tây Úc, và có một buổi thuyết pháp. Sau thời pháp, có người hỏi ngài là làm sao sống trong chánh niệm, ngài trả lời ngắn gọn: –“Sống chánh niệm là làm gì biết nấy.”

Tôi rất tâm đắc với câu nầy, “LÀM GÌ BIẾT NẤY”. Chữ “biết” ở đây rất lợi hại, không phải dễ thực hành. Khi mình ăn, mình có thật sự “biết” là mình đang ăn không? Hay là vừa ăn vừa xem TV, vừa nghe nhạc, vừa trả lời điện thoại, vừa lướt web, vừa nói chuyện với người ngồi kế bên, ... rồi không biết mình đang ăn, không thật sự nếm được hương vị thức ăn trong miệng? Khi mình nói, hay chat trong Net, mình có thật sự “biết” mình đang nói gì, đang phản ứng với tâm gì – tâm tham, tâm sân, hay tâm ngã mạn – không? Có người nói huyên thuyên, từ chuyện này sang chuyện kia, dùng nhiều từ hoa mỹ, nhưng rốt cuộc, người nghe không hiểu được người ấy muốn nói gì. Không biết người nói ấy có thật sự “biết” mình nói về chuyện gì không?

Còn nhiều thí dụ nữa, ngay trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. “Làm gì biết nấy”, nghe đơn giản như đang giỡn, nhưng thật ra, không phải dễ thực hiện.

*

Ghi thêm: Hôm nay bỗng nhiên tôi nhớ đến kỷ niệm này với ngài Hòa thượng Hộ Giác. Nhất là bây giờ, cũng như đa số những người cao tuổi khác, tật hay quên của mình càng ngày càng trầm trọng! 

Cho nên, không cần phải lý luận cao xa về pháp thiền này nọ, hay phân tích tâm, tâm sở chi tiết tỉ mỉ theo A-tỳ-đàm, hay trích dẫn một khối kinh điển, lời vàng ngọc của các giảng sư, điều thực tế có ích lợi ngay trước mắt là mình phải gắng tập nhận thức và ghi nhớ mỗi một hành động của mình trong sinh hoạt hằng ngày, ngay bây giờ và tại nơi đây. Đó là CHÁNH NIỆM của người già. Đơn giản nhưng thực tế. Không cần điều gì cao xa hơn.

*



Kinh văn Phật giáo Sơ kỳ (Early Buddhist Texts)

 KINH VĂN PHẬT GIÁO SƠ KỲ
(Early Buddhist Texts, EBTs - 早期佛教经文,  Tảo kỳ Phật giáo Kinh văn)

Nguồn: Bhikkhu Sujato & Bhikkhu Brahmali (2014), The Authenticity of the Early Buddhist Texts. [*]

Kinh văn Phật giáo Sơ kỳ (Early Buddhist Texts, EBTs) gồm những kinh văn ghi lại lời dạy của Đức Phật lịch sử và các đệ tử cùng thời. Đa số là những bài kinh trong bốn bộ Nikāya Pāli chính (Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng bộ, Tăng chi bộ) và các kinh văn A-hàm tương đương (Trường A-hàm, Trung A-hàm, Tạp A-hàm, Tăng nhất A-hàm) bằng tiếng Hán, tiếng Tây Tạng, tiếng Sanskrit và một số phương ngữ Ấn Độ; giới bổn tỳ-khưu (Pātimokkha, Ba-la-đề-mộc-xoa) và một số đoạn kinh văn trong Hợp phần (Khandhaka) của tạng Luật; và một số kinh văn trong Tiểu bộ – Kinh tập, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Pháp cú, Trưởng lão kệ và Trưởng lão ni kệ. Từ “kinh” (sutta) ở đây được dùng để chỉ những đoạn văn ghi lại lời Đức Phật nói ra (và một phần nào đó, cũng bao gồm lời của các vị đệ tử cùng thời với Ngài).

Không được xem là Kinh văn Phật giáo Sơ kỳ (non-Early Buddhist Texts, non-EBTs) gồm có: tạng A-tỳ-đàm (tạng Vi diệu pháp), các kinh văn Đại thừa, các tập tiểu sử Đức Phật, các biên niên sử, cũng như phần còn lại của Tiểu bộ và tạng Luật. Bộ Chuyện Tiền thân trong Tiểu bộ không phải là Kinh văn PG Sơ kỳ nhưng trong một số trường hợp, có nguồn gốc từ những tích truyện ra đời sớm hơn thời Đức Phật. Các bộ Chú giải và những văn liệu về sau có thể bao gồm những thông tin lịch sử có giá trị cùng với những sáng tác viết ra về sau này.

[*] Tải bản PDF:
http://dhammaloka.org.au/files/pdf/authenticity.pdf

*-----*

From: Bhikkhu Sujato & Bhikkhu Brahmali (2014), The Authenticity of the Early Buddhist Texts

Early Buddhist Texts (EBTs): Texts spoken by the historical Buddha and his contemporary disciples. These are the bulk of the Suttas in the main four Pali Nikāyas and parallel Āgama literature in Chinese, Tibetan, Sanskrit, and other Indian dialects; the pātimokkhas [1] and some Vinaya material from the khandhakas; [2] a small portion of the Khuddaka Nikāya, consisting of significant parts of the Sutta Nipāta, Udāna, Itivuttaka, Dhammapada, and Thera- and Therī Gāthā. The “Suttas” in a narrow sense are those passages that are directly attributed to the Buddha himself (and to a lesser extent his direct disciples).

Non-EBTs: Abhidhamma, Mahāyāna Sūtras, Buddha biographies, historical chronicles, as well as the majority of the Khuddaka Nikāya and the Vinaya Piṭaka. The Jātakas are non-EBT, but derive from stories that in some cases may even be earlier than the Buddha. Commentaries and other late texts may contain some genuine historical information alongside much later invention.
  
------------------
[1] We have normally used Pali spelling of Indic terms, simply because we are more familiar with Pali. In certain contexts, however, convenience or custom dictates the use of Sanskrit. When quoting from inscriptions—which frequently have spelling irregularities and inconsistencies—we use the form given in our sources, occasionally supplying the Pali form for clarity.

[2] In particular some of the monastic procedures, such as the upasampadā and uposatha ceremonies, that are found across all Vinaya traditions.

*


Tuesday, 12 April 2022

Samādhi - Stillness - Định

 SAMĀDHI - STILLNESS - ĐỊNH

Trưa nay nghe được một bài pháp trên YouTube của Ajahn Brahm giảng kinh An trú Tầm (MN 20), trong đó có một đoạn Sư giảng về tâm an định, từ Pali là "SAMĀDHI". Các dịch giả tiếng Anh, kể cả ngài Bhikkhu Bodhi, dịch là "Concentration". Tôi cũng tưởng thế là đúng và vẫn dùng từ ấy.

Nhưng trong bài giảng tôi vừa nghe, Sư Brahm nói Sư không đồng ý và có trao đổi nhiều lần với ngài Bodhi. Sư nghĩ rằng từ "Concentration" (tập trung) có hàm ý bó buộc, gắng sức, ép buộc, trong khi "Samādhi" là một trạng thái tâm đạt được khi buông xả tất cả, không dính chấp vào một đối tượng nào, một trạng thái yên tĩnh, lắng đọng. Theo sự hiểu biết và kinh nghiệm hành thiền của Sư, Sư thấy từ "Stillness" diễn đạt đúng hơn cho từ "Samādhi" và Sư chủ trương dịch là "Stillness" thay vì "Concentration".

Rồi Sư kể một chuyện xảy ra nhiều năm trước. Trong một khóa thiền quốc tế tổ chức tại trường thiền Jhana Grove, Tây Úc, trong một bài pháp, Sư có đề cập đến cách dịch này - Samādhi dịch là Stillness, thay vì Concentration. Một vị thiền sinh đến từ Singapore phát biểu ý kiến, cho biết là trong tiếng Trung, Samādhi lúc nào cũng được dịch với ý nghĩa của Stillness. Ajahn Brahm không nói rõ từ tiếng Trung đó là gì, nhưng tôi đoán ngay đó là "ĐỊNH" mà có lẽ đa số Phật tử Việt chúng ta đều quen thuộc. Trong tiếng Hán Việt, Samādhi thường được dịch là định, an định, an chỉ, ... tùy trường hợp (sammā-samādhi: chánh định), nhưng lúc nào cũng mang ý nghĩa "Stillness" chứ không phải "Concentration" (tập trung) như đa số các dịch giả tiếng Anh thường dùng.

Tò mò, tôi đến gõ cửa bác Gờ, hỏi thêm về cách chiết tự từ ĐỊNH (定) trong tiếng Hán Việt. Đó là tập hợp từ MIÊN (宀, mái nhà, nơi trú ẩn) trên từ CHÍNH (正). Từ CHÍNH nếu phân tích thêm, bao gồm từ NHẤT (一) và CHỈ (止). Tâm lắng đọng tại một nơi có sự che chở, bao trùm.

*-----*


Sunday, 10 April 2022

Tin xấu, tin tốt.

 Tin xấu, tin tốt.

Hằng ngày tôi thường đến các trang web truyền thông bằng tiếng Anh để đọc/xem tin tức đó đây trên thế giới, như ABC (Australia), BBC (Anh quốc), CNN (Mỹ). Thỉnh thoảng tôi mới đến xem tin tức tiếng Việt - trong nước và hải ngoại - vì đa phần các thông tin này là dịch từ các bản tin tiếng Anh, và nếu có tin tức về Việt Nam thì tôi nghi ngờ độ chính xác và mức độ khách quan của các trang web tiếng Việt đó.

Dù là tiếng Anh hay tiếng Việt, nếu chịu khó quan sát, ghi nhận thì mình thấy đa phần là loan những tin tức xấu, bi quan, tiêu cực (chiến tranh, cướp giật, giết người, gian lận, lường gạt, khủng hoảng chính trị, khủng hoảng kinh tế, tai họa ...). Có lẽ như thế mới thu hút người đọc. Cho nên, mới có câu: "No news is good news" - Không có tin tức gì thì đó là tin tức tốt lành. Nếu có tin tức, thì toàn là tin giật gân, buồn rầu, xấu ác.

Tuy nhiên, trong các trang web thông tin tiếng Anh, tôi thấy trang ABC của Úc là có mục "Good News" - Thông tin tốt lành, nhưng lại đặt để ở phần cuối trang. Đến đó là mình đọc được những thông tin tốt lành về các sinh hoạt xây dựng, đóng góp tích cực cho xã hội.

Nói đi rồi cũng phải nói lại. Ngay chính bản thân mình, tôi cũng thích đọc các thông tin bi quan, tiêu cực (chiến tranh, khủng hoảng, tai họa, ...). Còn các tin tức tốt lành thì ít khi để ý đến. Có lẽ đây là tâm lý chung của thế gian. Miệng thì nói thích an vui, hòa bình, nhưng trong tâm thì thật ra thích để ý, bình luận, dính mắc vào các chuyện nóng bỏng, đau buồn, đấu tranh, tiêu cực.

*


Tuesday, 5 April 2022

Những căn bệnh thường gặp ở người cao tuổi (trên 60-65 tuổi)

 NHỮNG CĂN BỆNH THƯỜNG GẶP Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Đào Lan Anh (01/10/2020)

Ở người cao tuổi, nhiều chức năng của cơ thể bị suy giảm, dẫn đến sức khỏe yếu dần. Dưới đây là một số nhóm bệnh thường gặp ở người cao tuổi (trên 60-65 tuổi).

1) BỆNH VỀ HỆ THẦN KINH TRUNG ƯƠNG
Hầu hết người cao tuổi do hệ thần kinh trung ương bị lão hóa dần nên làm cho trí nhớ kém, hay quên, cá biệt mắc một số bệnh như: Parkinson hoặc Alzheimer.

2) BỆNH VỀ HỆ THỐNG TUẦN HOÀN
Trong số các bệnh về tim mạch ở người cao tuổi thì bệnh xơ vữa động mạch, bệnh thiểu năng mạch vành, bệnh tăng huyết áp… chiếm một tỷ lệ đáng kể. Trong một số trường hợp, các loại bệnh này thường thấy ở những người béo phì, nghiện bia, rượu chiếm tỷ lệ cao hơn những người không nghiện bia rượu.

3) BỆNH VỀ HỆ HÔ HẤP
Bệnh viêm họng, viêm phế quản mạn tính, giãn phế quản, tâm phế mạn tính, hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là những bệnh gặp khá nhiều ở người cao tuổi, nhất là ở những người có tiền sử hoặc đang hút thuốc lá, thuốc lào, những người sống trong tình trạng thiếu dưỡng khí như: nhà chật hẹp, thiếu ánh sáng, khói bếp nhiều...

4) BỆNH VỀ HỆ XƯƠNG KHỚP
Đau xương, khớp, thoái hóa khớp nhất là đốt sống thắt lưng, khớp gối hoặc bệnh gút làm cho người bệnh đau đớn, lo lắng, buồn chán, nhất là khi thay đổi thời thiết. Thoái hóa khớp gối, gây biến chứng cứng khớp gây đau khớp gối và vận động khó khăn mỗi buổi sáng lúc bắt đầu ngủ dậy. 

Triệu chứng đau nhức các khớp xương tương đối phổ biến ở người cao tuổi, đặc biệt là về đêm gây khó chịu ảnh hưởng đến sức khỏe và gây mất ngủ hoặc ngủ không sâu, không ngon giấc.

5) BỆNH VỀ ĐƯỜNG TIÊU HÓA
Người cao tuổi rất dễ mắc bệnh rối loạn tiêu hóa như: ăn không tiêu, đầy hơi, chướng bụng, táo bón hoặc tiêu chảy. Táo bón là một bệnh do nhiều lý do khác nhau nhưng trong đó có một lý do mà người cao tuổi hay gặp phải là ít vận động. người cao tuổi thường ngồi một chỗ thêm vào đó ít ăn rau, uống ít nước cho nên phân ứ lại lâu ngày ở trực tràng làm cho các mạch máu trực tràng giãn ra gây nên bệnh trĩ. người cao tuổi cũng có thể mắc bệnh viêm loét dạ dày-tá tràng, trào ngược thực quản hoặc viêm đại tràng mạn tính. 

Các loại bệnh dạng này thường làm cho người cao tuổi rất khó chịu, gây lo lắng, ăn không ngon, ngủ không ngon giấc hoặc kém ngủ, mất ngủ kéo dài. Mất ngủ lại làm cho nhiều bệnh tật phát sinh.

6) BỆNH VỀ HỆ TIẾT NIỆU - SINH DỤC
Người cao tuổi cũng rất dễ mắc các bệnh về hệ tiết niệu - sinh dục, đặc biệt là u xơ tiền liệt tuyến hoặc ung thư tiền liệt tuyến. Những bệnh về sinh dục - tiết niệu thường có hiện tượng đi tiểu nhiều lần, tiểu dắt, tiểu són, nhất là vào ban đêm gây nhiều phiền toái cho người cao tuổi.

Ngoài ra, ở người cao tuổi cũng thường bị rối loạn một số chỉ số về mỡ máu (cholesterol, triglycerid), rối loạn về chức năng gan, đái tháo đường,… Do đó, người cao tuổi nên đi khám bệnh định kỳ, tập thể dục đều đặn, có chế độ dinh dưỡng hợp lý; không nên uống rượu, bia, không nên hút thuốc lá, thuốc lào, luôn giữ cho mình một tinh thần lạc quan, vui vẻ./.

– Đào Lan Anh 
(01/10/2020)

*-----*




Friday, 1 April 2022

Nhớ chùa - Hòa thượng Thích Mãn Giác

 NHỚ CHÙA
Huyền Không (1949) 
(HT Thích Mãn Giác)

Từ thuở ra đi vắng bóng chùa
Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua
Trong tôi bừng dậy niềm chua xót
Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa

Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng
Có con đường đỏ chạy lang thang
Có hàng tre gợi hồn sông núi
Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng

Có những cây mai sống trọn đời
Bên hàng tùng bách mãi xanh tươi
Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa
Đức Phật từ bi miệng mỉm cười

Tôi nhớ làm sao những buổi chiều
Lời kinh giải thoát vọng cao siêu
Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi
Cầu nguyện dân làng sống mến yêu

Vì vậy làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi dân xóm
Xây dựng tương lai xứ sở mình

Mỗi tối dân quê đón gió lành
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh

Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao
Dân làng tắm gội lên chùa lễ
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào

Biết đến bao giờ trở lại quê
Phân vân lòng gởi nhớ nhung về
Tang thương dù có bao nhiêu nữa
Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê

Chuông vẳng nao nao nhớ lạ lùng
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.

- Huyền Không (1949) 
(HT Thích Mãn Giác)

*-----*


Thursday, 10 March 2022

Nhất dạ hiền giả

 KINH NHẤT DẠ HIỀN GIẢ
(Bhaddekaratta Sutta, MN 131)

(Lược trích)

Đức Thế Tôn dạy:

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển.

Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.

Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.

Này các tỳ-khưu, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: “Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là hành của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy, “Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các tỳ-khưu, là truy tìm quá khứ.

Thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: “Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy là tưởng của tôi... Như vậy là hành của tôi... Như vậy là thức của tôi trong quá khứ”; và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các tỳ-khưu, là không truy tìm quá khứ.

Thế nào là ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: “Như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy sẽ là tưởng của tôi... sẽ là hành của tôi... sẽ là thức của tôi trong tương lai”, và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các tỳ-khưu, là ước vọng trong tương lai.

Thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: “Như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; “Như vậy sẽ là tưởng... sẽ là hành... sẽ là thức của tôi trong tương lai”, và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các tỳ-khưu, là không ước vọng trong tương lai.

Thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các tỳ-khưu, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc thánh, không thuần thục pháp của các bậc thánh, không tu tập pháp của các bậc thánh; không đi đến các bậc chân nhân, không thuần thục pháp của các bậc chân nhân, không tu tập pháp của các bậc chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc; hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ, hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ; hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong tưởng; hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này các tỳ-khưu, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

Thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các tỳ-khưu, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc thánh, thuần thục pháp của các bậc thánh, tu tập pháp của các bậc thánh, đi đến các bậc chân nhân, thuần thục pháp của các bậc chân nhân, tu tập pháp của các bậc chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ... không quán tưởng... không quán hành... không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này các tỳ-khưu, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

Do đó Ta nói:

Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển

Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.

Trú như vậy nhiệt tâm,
Ðêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.

(Bình Anson lược trích, 10-03-2022)

*----------*













Wednesday, 9 March 2022

Thế nào là sống một mình (độc trú)?

 THƯỢNG TỌA
(Tạp A-hàm, kinh số 1071)

Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ. Bấy giờ có tỳ-khưu tên là Thượng Tọa, chỉ thích sống một mình tại một nơi, thường hay ca ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai xong trở về một mình và ngồi hành thiền một mình.

Bấy giờ có một số tỳ-khưu đi đến gặp Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi lui ngồi một bên, bạch với Ngài:

“Bạch Thế Tôn, có tôn giả tên là Thượng Tọa chỉ thích sống một mình tại một nơi, thường hay ca ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai xong trở về một mình và ngồi hành thiền một mình.”

Đức Thế Tôn bảo một vị tỳ-khưu:

“Ông hãy đến chỗ tỳ-khưu Thượng Tọa và nói rằng Ta gọi ông ta.”

Vị tỳ-khưu ấy vâng lời Phật dạy, đến nói lời như trên với tỳ-khưu Thượng Tọa. Tỳ-khưu Thượng Tọa liền đi đến gặp Phật, cúi đầu đảnh lễ, rồi lui ngồi một bên. Thế Tôn hỏi tỳ-khưu Thượng Tọa:

“Có phải ông chỉ thích sống một mình tại một nơi, thường hay ca ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai xong trở về một mình và ngồi hành thiền một mình chăng?”

Tỳ-khưu Thượng Tọa đáp:

“Bạch Thế Tôn, thật như vậy.”

Phật hỏi tỳ-khưu Thượng Tọa:

“Ông sống một mình như thế nào?”

Tỳ-khưu Thượng Tọa đáp:

“Con sống một mình tại một nơi, thường hay ca ngợi người sống một mình, đi khất thực một mình, thọ trai xong trở về một mình và ngồi hành thiền một mình. Chỉ thế thôi.”

Phật dạy:

“Ông đúng là người thích sống một mình, Ta không nói là chẳng phải sống một mình. Nhưng có lối sống một mình cao thượng hơn. Vì sao gọi là lối sống một mình cao thượng? Đó là tỳ-khưu quán chiếu để thấy rằng quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới, an nhiên sống trong hiện tại mà không bị vướng mắc vào các tham dục. Đó là vị tu sĩ với tâm không còn do dự, bỏ hết mọi lo âu, xa lìa mọi tham dục, đoạn tận các kết sử. Đây mới là thật sự sống một mình, không có lối sống nào cao thượng hơn nữa.”

Rồi đức Thế Tôn nói lên bài kệ:

Quán chiếu vào cuộc đời,  
thấy rõ được vạn pháp, 
không chấp vào pháp nào, 
lìa xa mọi ái nhiễm.
Sống an lạc như thế, 
tức là sống một mình.

Phật giảng xong, tôn giả Thượng Tọa hoan hỷ đón nhận lời Phật dạy, cung kính đảnh lễ cáo từ.

*----------*

VỊ TỲ-KHƯU TÊN THERA
(Theranāmaka Sutta, SN 21.10)

Một thời, Thế Tôn trú ở Trúc Lâm gần thành Vương Xá, tại nơi nuôi dưỡng các con sóc. Lúc bấy giờ có một tỳ-khưu tên là Thera (Trưởng Lão, Thượng Tọa) sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú. Vị ấy đi vào làng khất thực một mình, đi về một mình, ngồi vắng lặng một mình, và đi kinh hành một mình.

Rồi có nhiều vị tỳ-khưu đi đến gặp Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên, rồi  bạch Thế Tôn:

“Bạch Thế Tôn, có vị tỳ-khưu tên là Thera sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú.

Thế Tôn bảo một tỳ-khưu:

“Này tỳ-khưu, hãy đến gặp ông ấy và nói Ta gọi ông ấy.”

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, vị tỳ-khưu vâng đáp rồi đi đến gặp tỳ-khưu Thera và nói:

“Này hiền giả Thera, bậc Ðạo Sư gọi hiền giả.”

“Thưa vâng, hiền giả.” Tôn giả Thera vâng đáp tỳ-khưu ấy và đi đến gặp Thế Tôn. Sau khi đến, vị ấy đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn hỏi tôn giả Thera:

“Có thật chăng, này Thera, ông sống độc trú và tán thán hạnh độc trú?

“Vâng, đúng như thế, bạch Thế Tôn.”

“Như thế nào, này Thera, ông sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú?”

“Bạch Thế Tôn, con đi vào làng khất thực một mình, con đi về một mình, con ngồi vắng lặng một mình, rồi con đi kinh hành một mình. Đó là cách con sống độc trú và tán thán hạnh sống độc trú.”

“Ðó là sống độc trú, này Thera, Ta không nói không phải vậy. Tuy nhiên, có một cách làm viên mãn sống độc trú đầy đủ với các chi tiết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.”

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”

“Này Thera, thế nào là độc trú được làm viên mãn với đầy đủ các chi tiết? Ở đây, cái gì thuộc quá khứ thì đoạn tận; cái gì thuộc tương lai thì từ bỏ; ngã ái và dục ái trong hiện tại được nhiếp phục. Như vậy, này Thera, là độc trú được làm viên mãn với các chi tiết.”

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Xong rồi, Thiện Thệ, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Ai chiến thắng tất cả,
Ai hiểu biết tất cả,
Ai là bậc thiện trí,
Mọi pháp không ô nhiễm.
Ai từ bỏ tất cả,
Ái tận, được giải thoát,
Ta nói chính người ấy,
Thật là vị độc trú.

*----------*




Wednesday, 16 February 2022

Sách: Rhys Davids, T.W. and Stede, W. - Pāli-English Dictionary (1921) - Từ điển Pali-Anh

Sách:

Rhys Davids, T.W. and Stede, W. Pāli-English Dictionary (1921) [en234.pdf
Từ điển Pali-Anh 

Link để tải bản PDF (12.5 MB):

 1. https://tinyurl.com/2p9xjyf4  2. https://mega.nz/file/mkIkkZiC#jwiWRDmCAJXhjLtykehCcbq-7Xt-FihaK5B_cVq4K1I

*



Tuesday, 15 February 2022

 Ngay bây giờ, với thân tâm này, chỉ theo dõi hơi thở.

Sáng nay, khi hành thiền, tâm tôi không ổn định, suy nghĩ đủ chuyện. Rồi bỗng nhớ đến câu chuyện về ba câu hỏi của nhà vua. Tự hỏi tại sao mình không thử áp dụng cho mình?

1) Thời gian thuận lợi nhất là NGAY BÂY GIỜ, không phải là lúc nào khác.

2) Người quan trọng nhất là chính THÂN TÂM NÀY, không phải quan tâm về bất cứ người nào khác.

3) Công việc quan trọng nhất là THEO DÕI HƠI THỞ VÀ CÁC CẢM THỌ NƠI THÂN, không phải là lúc lo lắng, suy tính về bất cứ chuyện gì khác.

Sau khi quyết định như thế, tự nhiên thấy các ý nghĩ vẩn vơ đều tan biến. Tâm trở nên ổn định, tập trung vào hơi thở và các cảm thọ ở thân trong suốt buổi thiền. Nghĩ cũng lạ. Xin chia sẻ ở đây.

*



Saturday, 12 February 2022

Trưởng lão Sīvalī

Trần Ngọc Lợi dịch 
(Bình Anson hiệu đính)

* Nguồn: G. P. Malalasekera (1938), Dictionary of Pali Proper Names, The Pali Text Society, London.

Ông là con của Công chúa Suppavāsā, tức cháu ngoại của vua trị vì xứ Koliya. Mẹ ông mang thai ông bảy năm bảy ngày và chuyển bụng trong bảy ngày liền (xem nhân duyên trong Asātarūpa Jātaka [1]). Bấy giờ bà nói với chồng rằng: “Trước khi mạng chung, tôi sẽ bố thí,” và nhờ chồng đến yết kiến Phật. Phật ban phước lành cho bà, bà sinh được mẹ tròn con vuông. Để tạ ơn, bà yêu cầu chồng cúng dường Đức Phật và chúng Tăng trong bảy ngày.

Từ lúc sinh ra, Sīvalī có thể làm bất cứ việc gì. Tôn giả Sāriputta nói chuyện với chàng ngay trong ngày chàng chào đời và truyền giới cho chàng với sự cho phép của Công chúa Suppavāsā. Chàng đắc Sơ quả ngay sau khi nắm tóc đầu tiên được thí phát, và đắc Nhị quả ngay sau khi nắm tóc thứ nhì được cắt đứt. Thọ giới xong, chàng vô rừng ẩn tu, hành thiền quán về sự chậm ra đời của mình và đạt thắng trí của bậc A-la-hán.

Vào thời Phật Padumuttara, ông có phát nguyện được làm vị đệ tử tối thắng về nhận vật thực cúng dường như ngài Sudassana, đệ tử của Đức Phật. Do đó, ông cúng dường Phật và chúng tỳ-khưu trong bảy ngày. 

Vào thời Phật Vipassī, ông làm gia chủ ở gần Bandhumatī, từng cúng dường mật, sữa chua và đường đủ cho 68 ngàn vị tỳ-khưu. 

Vào thời Phật Atthadassī, ông là vua Varuṇa từng cúng dường cội Bồ-đề sau khi Phật nhập diệt. Về sau, ông băng hà dưới cội Bồ-đề này và sinh lên cõi Nimmānaratī (Hóa lạc thiên). Ông làm vua 34 lần, với vương hiệu Subāhu [2].

Theo Apadāna [3], phụ thân ông trong kiếp sau cùng là người Licchavī tên Mahāli.

Trưởng lão Sīvalī được Phật tuyên bố là vị đệ tử tối thắng về nhận vật thực cúng dường [4]. Trưởng lão có tháp tùng Phật trong chuyến du hành đến Khadiravaniya-Revata vì đoạn đường này khó đi và ít được cúng dường vật thực [5]. Ngoài ra, Trưởng lão từng đi với 500 tỳ-khưu lên Hy Mã Lạp Sơn để thử sự tối thắng về nhận vật thực cúng dường của ông; ông được chư Thiên cúng dường chu đáo. Trên núi Gandhamādana, ông được Thiên tử Nāgadatta cúng dường cháo sữa trong suốt bảy ngày.

----------

Ghi chú:

[1] Cf. Ap. 494, vs. 29 f. Chuyện Sīvalī còn được kể trong Ud. ii. 8; AA. i. 136 f.; DhA. iv. 192 f.; ii. 196; J. i. 408 f. Udāna và Jātaka có nói rằng một cư sĩ hộ trì của Moggallāna phải hoãn lại cuộc thỉnh Phật về nhà thọ trai để Ngài nhận lời mời của Suppavāsā đến mừng ngày Sīvalī chào đời; chuyện này không thấy nói đến trong các kinh văn khác. Udāna không có đề cập đến việc Sīvalī vô rừng ẩn tu. Dhammapasaṭṭhakathā kể câu chuyện này một cách khác. 

[2] Thag. vs. 60; ThagA. i. 135. 

[3] Ap. ii. 492 f. 

[4] A. i. 24. 

[5] ThagA. i. 138; Ap. ii. 495; AA. i. 139.

*




Thursday, 10 February 2022

Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.

Nhiều năm trước, trong một diễn đàn Phật giáo tiếng Anh, một vị sư đề cập đến bài kinh nầy, nhưng không nêu rõ xuất xứ, về một hiện tượng tâm lý rất phổ thông xảy ra trong tăng chúng cũng như trong xã hội từ thời xưa cho đến thời nay. Người ta thường tụ hội thành từng nhóm vì cùng chung một mục đích nào đó hay khuynh hướng nào đó, thiện hay bất thiện. 

Tôi thích bài kinh đó nhưng rồi quên đi. Thỉnh thoảng nhớ lại, nhưng không tìm được nguồn gốc chính xác. Sáng nay có lẽ đã đủ duyên, đến nhờ bác Gờ giúp và tìm được bài kinh. Xin ghi lại đây bản dịch Việt và Anh. 

*

 CÙNG KHUYNH HƯỚNG  (Caṅkama Sutta, SN 14.15)

Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), tại núi Gijjakūta (Linh Thứu). Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành, không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Tôn giả Mahāmoggallāna cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành, không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Tôn giả Mahākassapa cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành,  không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Tôn giả Anuruddha cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành, không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Tôn giả Puṇṇa Mantāniputta cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành, không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Tôn giả Upāli cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành, không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Tôn giả Ānanda cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành, không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Tôn giả Devadatta cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành, không xa Thế Tôn bao nhiêu.

Rồi Thế Tôn gọi các tỳ-khưu: 

– Này các tỳ-khưu, các ông có thấy Sāriputta cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Này các tỳ-khưu, tất cả vị tỳ-khưu ấy là bậc đại trí tuệ.

– Này các tỳ-khưu, các ông có thấy Moggallāna cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành?
– Thưa có, bạch Thế Tôn
– Này các tỳ-khưu, tất cả vị tỳ-khưu ấy là bậc đại thần thông.

– Này các tỳ-khưu, các ông có thấy Kassapa cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Này các tỳ-khưu, tất cả vị tỳ-khưu ấy chủ trương hạnh đầu đà.

– Này các tỳ-khưu, các ông có thấy Anuruddha cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Này các tỳ-khưu, tất cả vị tỳ-khưu ấy là bậc có thiên nhãn.

– Này các tỳ-khưu, các ông có thấy Puṇṇa Mantāniputta cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Này các tỳ-khưu, tất cả vị tỳ-khưu ấy là bậc thuyết pháp.

– Này các tỳ-khưu, các ông có thấy Upāli cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Này các tỳ-khưu, tất cả vị tỳ-khưu ấy là bậc trì luật.

– Này các tỳ-khưu, các ông có thấy Ānanda cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Này các tỳ-khưu, tất cả vị tỳ-khưu ấy là bậc đa văn.

– Này các tỳ-khưu, các ông có thấy Devadatta cùng với một số đông tỳ-khưu đang đi kinh hành?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Này các tỳ-khưu, tất cả vị tỳ-khưu ấy là ác dục.

Này các tỳ-khưu, tùy thuộc theo giới, các chúng sinh cùng hòa hợp, cùng đi với nhau. Chúng sinh liệt ý chí cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sinh liệt ý chí. Chúng sinh thiện ý chí cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sinh thiện ý chí.

Này các tỳ-khưu, tùy thuộc theo giới thời quá khứ, các chúng sinh đã cùng hòa hợp, đã cùng đi với nhau. Chúng sinh liệt ý chí đã cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sinh liệt ý chí. Chúng sinh thiện ý chí đã cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sinh thiện ý chí.

Này các tỳ-khưu, tùy thuộc theo giới thời vị lai, các chúng sinh sẽ cùng hòa hợp, sẽ cùng đi với nhau. Chúng sinh liệt ý chí sẽ cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sinh liệt ý chí. Chúng sinh thiện ý chí sẽ cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sinh thiện ý chí.

Này các tỳ-khưu, tùy thuộc theo giới hiện tại, các chúng sinh cùng hòa hợp, cùng đi với nhau. Chúng sinh liệt ý chí cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sinh liệt ý chí. Chúng sinh thiện ý chí cùng hòa hợp, cùng đi với chúng sinh thiện ý chí.

- (Hòa thượng Minh Châu dịch Việt, Bình Anson hiệu đính)

 *----------*

WALKING TOGETHER (Caṅkama Sutta, SN 14.15)

At one time the Buddha was staying near Rājagaha, on the Vulture’s Peak Mountain. Now at that time Venerable Sāriputta was walking together with several mendicants not far from the Buddha. Venerable Mahāmoggallāna was doing likewise, as were Venerable Mahākassapa, Venerable Anuruddha, Venerable Puṇṇa Mantāniputta, Venerable Upāli, Venerable Ānanda, and Devadatta.

Then the Buddha said to the mendicants, “Mendicants, do you see Sāriputta walking together with several mendicants?”

“Yes, sir.”

“All of those mendicants have great wisdom. Do you see Moggallāna walking together with several mendicants?”

“Yes, sir.”

“All of those mendicants have great psychic power. Do you see Kassapa walking together with several mendicants?”

“Yes, sir.”

“All of those mendicants advocate austerities. Do you see Anuruddha walking together with several mendicants?”

“Yes, sir.”

“All of those mendicants have clairvoyance. Do you see Puṇṇa Mantāniputta walking together with several mendicants?”

“Yes, sir.”

“All of those mendicants are Dhamma speakers. Do you see Upāli walking together with several mendicants?”

“Yes, sir.”

“All of those mendicants are experts in monastic law. Do you see Ānanda walking together with several mendicants?”

“Yes, sir.”

“All of those mendicants are very learned. Do you see Devadatta walking together with several mendicants?”

“Yes, sir.”

“All of those mendicants have bad desires.

Sentient beings come together and converge because of an element. Those who have a bad attitude come together and converge with those who have a bad attitude. Those who have a good attitude come together and converge with those who have a good attitude.

In the past, in the future, and also in the present, sentient beings come together and converge because of an element. Those who have a bad attitude come together and converge with those who have a bad attitude. Those who have a good attitude come together and converge with those who have a good attitude.”

 - Translated by Bhikkhu Sujato

*----------*



Wednesday, 2 February 2022

BỐN NHIẾP PHÁP: Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng sự

Kinh Nhiếp Pháp
(Saṅgaha Sutta, AN 4.32, AN 4.253, DN 30, DN 33)

“Này các tỳ-khưu, có bốn nhiếp pháp này. Thế nào là bốn?

“Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành và đồng sự
Hỡi các vị tỳ-khưu,
Ðây là bốn nhiếp pháp.

“Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành và đồng sự,
Ðối với những pháp này,
Ở đời đối xử nhau,
Chỗ này và chỗ kia,
Như vậy thật tương xứng.

“Và bốn nhiếp pháp này,
Như đỉnh đầu trục xe,
Nếu thiếu nhiếp pháp này,
Thời cả mẹ lẫn cha
Không được các người con
Tôn trọng và cung kính.

“Do vậy bậc Hiền trí,
Ðồng đẳng nhìn nhiếp pháp
Nhờ vậy họ đạt được,
Sự cao lớn, tán thán.”

*

Ghi thêm: 

Theo Hòa thượng Giác Giới, trong tập sách Kho Tàng Pháp Học, bốn nhiếp pháp (cattāri saṅgahavatthū) là bốn pháp nhiếp phục nhân tâm, bốn pháp cảm hóa người khác. Đó là:

1. Bố thí (dāna): Tâm rộng rãi xả tài, luôn chia sẻ tài sản vật chất của mình đến người khác, không keo kiết bỏn xẻn.

2. Ái ngữ (peyyavajja): Có lời nói nhẹ nhàng, nói lời hòa nhã êm ái, thông cảm, làm người nghe có ấn tượng thiện cảm.

3. Lợi hành (atthacariyā): Có tâm vị tha phục vụ, làm lợi ích cho người khác, dẫn dắt mọi người an trú vào thiện pháp.

4. Đồng sự (samānattatā): Đối xử hòa đồng, hòa hợp với mọi người; xử sự đồng đẳng, cộng vui cộng khổ; biết nhìn những điểm tương đồng để sống với mọi người.

*




Tuesday, 1 February 2022

LÁ THƯ NGÀY TẾT NHÂM DẦN, Thích Tuệ Sỹ

Phật lịch 2565 
Tuế thứ Tân Sửu 28.12 - Dương lịch 30.01.2022

LÁ THƯ NGÀY TẾT NHÂM DẦN

Nam-mô Long Hoa Hội, Đương lai Hạ sanh Di-lặc Tôn Phật

Kinh gởi:

Chư Tôn Trưởng Lão, Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng-già nhị bộ; cùng Bốn Chúng Đệ tử.

Trong sát-na nhiệm mầu của tâm tịnh tín, khoảnh khắc khép lại quá khứ đen tối bi thương, hướng đến không gian biến mãn tâm từ vô lượng, bằng chút thiện căn công đức đã được gieo trồng trong quá khứ, kính dâng lên Đấng Chí Tôn Vô Năng Thắng, hồi hướng công đức này đến pháp giới chúng sinh đồng miễn trừ bệnh khổ.

Kính thưa Chư Hiền, cùng Bốn Chúng đệ tử.

Thời gian đến, thời gian đi. Thời gian nấu chín sinh vật. Thời gian hối thúc sinh loại. Thời gian thức tỉnh con người.

Thời gian, một năm qua, trôi nhanh theo âm thanh cuồng nộ của những đợt sóng kinh hoàng từ bóng ma đại dịch, vang vọng tiếng kêu thống thiết từ những đoàn người xuôi ngược đào vong trên chính trên quê hương của mình.

Trong cảnh tượng ấy, trong cảnh giới hàn băng địa ngục giữa cõi nhân sinh ấy, nơi mà tình người, được lịch sử nhầm lẫn trao tay cho thế lực cuồng vọng tham lam, đã đóng băng thành mặt nước đại dương rập rình hiểm họa.

Thế nhưng, trong thế giới địa ngục trần gian ấy, vẫn còn những tấm lòng nhân ái, giữ cho đốm lửa thiện căn từ giác tính uyên nguyên vẫn còn lấp lánh trong lịch sử tồn sinh của dân tộc. Chúng đệ tử Phật góp nhặt công đức thiện hành và tùy hỷ thiện tâm của những tấm lòng nhân ái tương thân tương trợ trong cảnh khốn cùng bức bách, để kết thành một đóa hoa mai tỏa sáng sắc hương tâm từ vô lượng, dâng lên cúng dường đức Từ Tôn Vô Năng Thắng, trang nghiêm ngày Hội Long Hoa, cho một thế giới an lành tịnh lạc trong chu kỳ thành trụ hoại không vô tận của vô biên thế giới. 

Chúng đệ tử Phật, trong ngày hội truyền thống, cùng chung niềm vui chung của dân tộc, cùng cất đi gánh nặng khổ nhục đày đọa hình hài và tâm trí của một năm tai dịch hoành hành; một năm vinh quang ảo tưởng cho những tham tàn vô đạo phi nhân. Chúng đệ tử cùng chung sức góp nhặt chút công đức, từ thiện căn đã được gieo trồng trên mảnh đất cùng khốn này, để vun bồi thiện tâm lớn mạnh dựng lại những gì đã sụp đổ, để nối lại đức từ nhân ái của một thời độc lập và tự chủ - hào hùng nhưng khiêm tốn, ngoan cường nhưng bao dung - đã bị đứt đoạn bởi những thế hệ thừa kế tự tôn vinh, được kích động bởi tham vọng lịch sử, được trang nghiêm bằng ý thức khoa trương kiêu ngạo.

Bốn nghìn năm lịch sử dựng nước. Hai nghìn năm Đạo Pháp hưng suy theo vận nước thăng trầm vinh nhục. Một nghìn năm Thăng Long đứng vững trước mọi phong ba của thời đại. Năm mươi năm hòa bình thống nhất, dù với ước vọng đấu tranh xây dựng một xã hội công bằng văn minh, xóa đi quá khứ người bóc lột người; nhưng bóng ma quá khứ ấy bỗng chốc biến thể, thay đổi hình hài, tự thăng hoa và tiến bước theo hướng đi dọn sẵn của một thứ tồn tại vô hình đang thách thức đỉnh cao trí tuệ của nhân loại văn minh. Những giá trị nhân sinh cần được định nghĩa lại: Phẩm giá con người? Văn minh tiến bộ?

Trong nỗi kinh hoàng dưới những hình thái bức hiếp, bóc lột kiểu mới, vẫn thấp thoáng những bàn tay nhân ái đã và đang nâng đỡ những thân hình bạc nhược, tâm tư suy sụp, vì đói khát và đợi chờ; đã và đang xoa dịu những trái tim nhức nhối trong cô đơn, tuyệt vọng trước nẻo đường phân ly sống chết; đã và đang dìu dắt những trẻ thơ mất cha, mất mẹ, mất cả mọi nguồn yêu thương thân thiết, bị vất bỏ giữa chợ đời hiểm ác, mà không biết vì đâu. Thiện căn từng được ươm mầm trong chuỗi dài lịch sử rồi cũng đến lúc nẩy chồi, chen chúc để vươn lên dưới ánh sáng uyên nguyên của mặt trời tuệ giác trong cánh đồng đang trổ đầy hoa trái độc. Một trang lịch sử đau thương, khổ nhục, cần được khép lại. Tâm từ cần được khơi nguồn để mỗi người con thân yêu của đất nước tự tâm cảm nghiệm ân đức bao dung và tha thứ của Cha Ông một thời đã làm nên lịch sử, định hướng đi cho dân tộc trụ vững giữa những tham vọng điên cuồng thống trị thế giới, những cơn lốc tranh chấp ý thức hệ phân chia quyền lực, những tiến bộ đảo điên trong lịch sử văn minh tiến hóa của loài người.

Hãy khép lại hận thù quá khứ, được gieo rắc từ những áp bức, bóc lột, bất công. Nghiệp ác, bất thiện đã được tạo tác, và được tích lũy trong kho tàng tâm thức, thành di sản mà chủ nhân của nó cũng chính là người thừa tự. Không phải vì được quên hay được nhớ mà nghiệp ác bất thiện sẽ mất hay còn. Kẻ gây ác cảm thấy có vị ngọt trong hành vi ác; cho đến khi quả ác chín muồi, vị ngọt biến chất thành độc tố thiêu đốt thân tâm của nó. Các vị Tổ Thiền của chúng ta thường nói "thời tiết nhân duyên mà thôi vậy". Những biến đổi xã hội, cũng đồng như sự thay đổi biến chuyển trong cơ thể sinh vật, trong thủ uẩn của chúng sanh, không chuyển biến nhất thời để cho quả. Khi nhân duyên hội đủ, đến thời cho quả chín, một thế hệ mới, từ lòng đất, qua vô số kiếp hành Bồ-đề nguyện, đột nhiên xuất hiện, ngăn chặn những dòng nước lũ độc hại đang làm ô nhiễm thế gian, phá sập và dẹp bỏ những gì đã mục nát, rỗng ruột.

Trong lịch sử của các dân tộc cũng vậy. Một chế độ mới được dựng lên, hứa hẹn một thời đại công bình chính trực, không tham tàn bóc lột, không bức hiếp bạo hành; nhưng rồi, chính cái thế lực tự xưng cứu tinh dân tộc tự nó biến thể thành tập đoàn hung ác bạo ngược không kém gì thế lực mà nó thay thế. Trong lịch sử tiến hóa của các cộng đồng dân tộc dưới gầm trời này, có lẽ khó tìm thấy một dân tộc nào an ổn đứng ngoài quy luật tiến hóa ấy. Vậy thì, có gì mà phải thất vọng hay tuyệt vọng? Hãy làm những gì, bằng trí tuệ sáng suốt phân biệt thiện ác, những gì tăng ích an lạc trong đời này và nhiều đời sau, cho ta và những người khác.

Thế nhưng, trí tuệ sáng suốt không phải là giá trị được ban tặng bởi ai đó bên ngoài ta hay trên ta, mà đó là công phu tu dưỡng không phải một sớm một chiều. Mọi tôn giáo, các Thánh triết Đông Tây, đều nói nhiều đến tình yêu, nhưng không đâu tìm thấy lời dạy cụ thể, thiết thực, làm thế nào để phát triển tình yêu rộng lớn. Tình yêu, tuy là phẩm tính hiện thực của con người đấy, nhưng nếu không được tu tập, bồi dưỡng, thì cũng không khác gì ngọn lửa không được rót thêm nhiên liệu, độ sáng trước như thế và sau vẫn như thế, rồi tàn lụi dần. Đức Phật không chỉ nói suông tình yêu; Ngài cũng nói, hãy ngồi xuống, an tịnh thân hành, thực hành thuận tự quá trình tu tập bốn vô lượng tâm. Cái gì là tập quán của thân, và cái gì là huân tập của tâm; công năng sai biệt trong chuỗi tương tục của hai thứ này không tồn tại với thời và thế như nhau.

Tâm từ, tâm bi vô lượng, không chỉ là nguồn an lạc cho mỗi cá nhân tu tập. Đó là nguồn suối đại hành tâm, bằng tâm nguyện Bồ-đề, nguyện thêm vui bớt khổ cho chúng sinh, dẫu biết rằng hư không vô biên, chúng sinh giới vô tận, nghiệp và phiền não của chúng sinh cũng không cùng tận.

Đại hành tâm, với thệ nguyện bao la hoằng vĩ, nhưng lại bắt đầu từ việc nhỏ: chia nửa manh áo cho người đang lạnh, chia nửa nắm cơm cho người đang đói. Phật dạy, bố thí là pháp hành cho người tại gia lăn lóc trong đường đời đầy bụi bám, từ đó mà thứ tự tùy thuận, lần lượt tăng trưởng trí tuệ, cho đến viên mãn Đại Bồ-đề.

Bố thí là khởi đầu của Bồ-đề hành, Bồ-tát đạo. Bằng bố thí mà trang nghiêm cõi Phật. Bằng bố thí mà dẫn đạo chúng sanh thuần thục trong Thánh đạo.

Bố thí, trong ý nghĩa kinh tế, là hoạt động tái phân phối thu nhập, để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, giảm bớt áp lực bất công xã hội. Bố thí trong quan hệ tương tác như lý bình đẳng giữa người cho, vật cho và người nhận, tất yếu dẫn đến sự tăng trưởng của giới, và đó là sự thăng hoa phẩm giá con người, nền tảng của đạo đức xã hội, thiết lập định chế công bình chính trực bảo đảm an ninh trật tự cho những cộng đồng đa dạng trong một xã hội đa nguyên; bao dung, điều hòa những mâu thuẫn giữa các nguồn tư duy triết học, tín ngưỡng tôn giáo dị biệt. Chính trong quan hệ tương tác giữa người cho, vật cho và người nhận mà quy luật tồn tại được quán sát, được chiêm nghiệm. Không phải như nhà kinh tế học ngồi trước các bảng thống kê, trước những con số của bài toán xác suất, mà bằng sự rung cảm, đồng cảm trước cảnh đời khốn khổ, bất lực, không đủ sức tự mình đứng dậy để tự mưu sinh; và bằng quyết trạch trí thấy biết đâu là nhân tập khởi của những bất công xã hội.

Bố thí là nền tảng cho an ninh và trật tự xã hội. An ninh và trật tự xã hội được duy trì bền vững bằng đạo đức và bao dung, tức bằng giới và nhẫn. Viên mãn thí, giới, nhẫn hợp thành điều kiện tất yếu để phát triển trí tuệ, ngọn đuốc soi đường và định hướng cho văn minh tiến bộ của nhân loại.

Vậy cho nên, khi chứng kiến một người cùng khổ đang chia nửa manh áo rách, nửa phần cơm hẩm cho người cùng khổ hơn mình, Thánh nhân thấy biết rõ thiên giới hay nhân giới đang được định hướng. Và chính nơi đây, trong cái cảnh những kẻ tham tàn tự khoác áo bào nhân nghĩa không chút do dự rút tỉa xương tủy của đồng bào ruột thịt đang thất cơ thất sở lăn lóc trên các vỉa hè đường phố, trong cảnh tượng khiến tê tái quặn thắt tim người của những ai còn chút lương tri, vẫn không hề thiếu vắng những bàn tay sung mãn tình người để cho và nhận, hiển hiện ánh sáng đức từ đã và sẽ soi đường và định hướng cho lịch sử tồn vong của dân tộc.

Chúng đệ tử Phật, đã cùng chung cộng nghiệp với dân tộc này, trong đất nước này, trong khoảnh khắc thời thiết nhân duyên đã chung đúc thành truyền thống thiêng liêng của dân tộc này, nguyện cùng đại khối dân tộc đồng hành trong ánh sáng của đức từ nhân ái, bao dung và tha thứ, dọn đường cho các thế hệ tiếp nối thăng tiến trong phẩm giá cao quý của con người.

Xin hãy khép lại quá khứ hận thù, nghi kỵ!

Xin hãy mở rộng tâm tình bao dung nhân ái!

Cầu nguyện tất cả con dân trong đại khối dân tộc, một năm mới, ngày đêm thường an lành; tất cả mọi thời đều an lành. Cầu nguyện đất nước thanh bình, nhân dân an lạc.

Thị ngạn am – Vô trụ xứ.  Âl. 28–12–Tân sửu.
Khâm thừa Di chúc,
Bỉnh pháp Tỳ-kheo
Thiện thệ tử Thích Tuệ Sỹ

*






Sunday, 30 January 2022

Luận án Tiến sĩ - PhD Thesis (1981)

 Đại học Murdoch (Murdoch University), Perth, Western Australia, báo cho biết sau 40 năm, họ vừa scan và số hóa Luận án Tiến sĩ của tôi -- hoàn tất năm 1981, và đưa vào trang web của Đại học. Ngày xưa, các luận án được đánh máy trên giấy thành 4 bản, đóng tập và trình lên Hội đồng Thẩm duyệt Luận án của trường Đại học.

Anson, Binh (1981). Neutralisation of acid wastewater by limestone-bearing sand. PhD thesis, Murdoch University.
(Sự trung hòa nước thải axít bằng cát có đá vôi).

Link: https://researchrepository.murdoch.edu.au/id/eprint/52400/ 

Bản PDF (71 MB):
1) https://tinyurl.com/yfh7wv79
2) https://mega.nz/file/i4BAhbrD#ryAEBoQ4dL1gQyuZGgUdag8NiARA0OKMO0wBOeKsVtM

*




Tuesday, 18 January 2022

Về già, chúng ta dựa vào ai?

VỀ GIÀ, CHÚNG TA DỰA VÀO AI?

Huỳnh Mai
 05/01/2022

*

Khoảng chục năm nay chúng tôi bắt đầu nghĩ về cuộc sống khi về già. Ở cùng con là lựa chọn truyền thống và phổ biến nhất từ trước tới nay ở Việt Nam. Nhưng ở  thế hệ chúng tôi, lựa chọn này đã không còn dễ dàng như với các thế hệ trước.

Chúng tôi đi học xa nhà từ 18 tuổi rồi tự lập luôn ở thành phố lớn, hầu như không có bà con họ hàng, quê hương… bên cạnh. Rồi con cái cũng vậy, chúng hầu hết đều đi học ở nước ngoài và không muốn về Việt Nam. Thế hệ chúng tôi lại ít con, mỗi nhà hai đứa là nhiều nhất, và cũng không ít người không lập gia đình hay không có con. Cho nên khi bọn nhỏ muốn định cư ở nước ngoài thì cha mẹ hầu như đều được khuyên rằng về già thì theo con sang đó sống.

ĐỊNH CƯ THEO CON RỒI NGỒI TRONG BỐN BỨC TƯỜNG

Nhưng, thế hệ chúng tôi hiểu rõ sự quý báu của cuộc sống có tự do cá nhân. Cha mẹ chúng tôi thường sống với những người con khác ở quê hương-những đứa con không đi xa và có nhiều thời gian hơn để chăm sóc cha mẹ. Khoảng cách thế hệ vốn đã lớn thì còn lớn hơn với những đứa con trưởng thành và sống xa cha mẹ, do không sống chung nên cũng khó hiểu nhau và thiếu thốn những ký ức chung.

Thế thì con cái chúng tôi-những đứa trẻ trưởng thành ở Anh, Mỹ, Úc… thực chất hầu như đều đã trở thành những quả chuối (da vàng nhưng bên trong thì “trắng”) làm sao chúng có thể chăm sóc cha mẹ già Việt Nam trăm phần trăm? Mà lại là Việt Nam đã bị bứng ra khỏi hoàn cảnh và môi trường sống quen thuộc từ tấm bé, với bạn bè, họ hàng, đồng nghiệp cũ…, để sang sống ở một môi trường hoàn toàn lạ lẫm, thậm chí ngôn ngữ cũng không thông thạo? Nhiều đứa sẽ lấy vợ, lấy chồng Tây, khoảng cách thế hệ, văn hóa và dân tộc tính ngày càng lớn nhưng thời gian dành cho gia đình ngày càng ít, liệu cha mẹ già có thể sống vui với chúng những ngày cuối đời? Những người chúng tôi quen biết thân quý thì chúng không biết, và ngược lại. Những gì đã tạo nên ký ức của chúng tôi không có giá trị tương tự với chúng, và ngược lại

Có thể nói, khi sang nước ngoài sống cùng với con thì chúng tôi là cái cây bị bứt hết gốc rễ. chỉ còn phụ thuộc vào mỗi một mình con cái. Nếu chúng “trở mặt”, không dành đủ thời gian hay không chăm sóc được như ý, cha mẹ sẽ tủi thân vô cùng vì không có ai khác để chia sẻ. Cô đơn trong bốn bức tường thôi.

Rất nhiều đứa bé được cho đi học xa nhà từ tuổi thiếu niên hầu như đều cảm thấy Việt Nam không còn là nhà của nó nữa. Mọi thứ đều xa lạ, trừ cha mẹ. Bạn bè, thầy cô, khí hậu, thời tiết, thức ăn, văn hóa, lối sống… những gì nó quen thuộc và thích nhất đều ở bên kia đại dương cả rồi.

Cha mẹ nài nỉ: Con đi đâu thì cứ đi nhưng mai mốt ba mẹ già rồi thì về Việt Nam ở với ba mẹ. Ba mẹ có một mình con!

Nó trả lời: Con xin lỗi nhưng con  cũng không lựa chọn làm con một của cha mẹ (tức là việc cha mẹ do chỉ có một đứa con nên suy luận rằng nó phải có nghĩa vụ tuân theo cha mẹ là không hợp lý).

Sợ cha mẹ buồn, nó nói rõ: Sẽ chăm lo cha mẹ khi về già, nhưng nó không ở Việt Nam như ý cha mẹ muốn.

Không đi theo con thì về già sống ra sao? Rất nhiều người trong chúng tôi tính sẽ vào nhà dưỡng lão. Ngay cả những gia đình con cái đều ở Việt Nam thì hầu hết cũng nghĩ sẽ vào nhà dưỡng lão khi già yếu, cũng với những lý do đó.

NHÀ DƯỠNG LÃO Ở VIỆT NAM

Mô hình nhà dưỡng lão đã được đặt ra từ hai, ba mươi năm nay, nhất là khi dân số già ở Việt Nam ngày càng tăng. Nhưng vì nhiều lý do nên nó vẫn chưa phổ biến.

Tôi cho rằng tài chính là lý do lớn nhất. Phần đông người Việt Nam vẫn sống dưới mức trung lưu. Người bình dân thường thường sẽ sống như tập quán là sống cùng con cháu khi về già. Những người giàu có, chủ doanh nghiệp hay có nhiều tài sản cũng vậy, con cháu họ sẽ chăm sóc.

Số đông là tầng lớp công chức và trí thức trung lưu mong muốn cuộc sống độc lập, tự do không phụ thuộc con cháu thì lương hưu quá thấp. Nếu chỉ dựa vào lương hưu thì không đủ trả chi phí cho nhà dưỡng lão (lương hưu thấp nhất khoảng 4 triệu đồng, cao là khoảng 6-7 triệu đồng/tháng, trong khi phí trả cho nhà dưỡng lão thấp nhất khoảng 7 triệu đồng/tháng (nhu cầu cơ bản, thường phải cộng thêm các phí khác, tổng khoảng 10 triệu cho gói thấp nhất), trung bình khoảng 12-15 triệu/tháng). Hoặc phải bán nhà cửa đi (thường tầng lớp này cũng chỉ có một tài sản lớn nhất nhà cửa), nhưng thế thì con cháu sinh sống chỗ nào? Văn hóa làm cha mẹ của người Việt là phải để lại tài sản cho con, thế cho nên dù chật chội, thiếu thốn thì nhiều người già vẫn không bán tài sản để hưởng thụ cá nhân mà chọn cách ở với con cháu cho đến khi nhắm mắt xuôi tay.

Thứ hai, chưa có niềm tin vào nhà dưỡng lão. Tôi có người bạn đã gửi ba của nó vào một nhà dưỡng lão tư nhân ở Củ Chi, ven Sài Gòn. Chi phí thấp nhất (phòng năm giường) là 10 triệu đồng/tháng. Cao nhất (phòng riêng) là 18 triệu đồng/tháng, chưa kể phụ phí đồng phục, chăm sóc khi bị bệnh và trong các ngày lễ tết.

Bạn tôi là con gái một. Mẹ bị tâm thần đã vài chục năm, không hung dữ phá phách nhưng suốt ngày đi lang thang rồi ghé tiệm của con xin tiền. Khi bạn tôi có bầu đồng thời ba nó bị đột quỵ, không còn cách nào khác, nó phải gởi ba vào nhà dưỡng lão. Hai ngày đi cùng nó lên thăm cha, tôi đã đủ ngậm ngùi.

Nhà dưỡng lão chia làm bốn loại khách hàng: Thứ nhất là các cụ ông/cụ bà còn tương đối khỏe mạnh và minh mẫn. Thứ hai là các cụ yếu hơn nhưng vẫn đi đứng được, có người lúc tỉnh lúc lẫn. Thứ ba, các cụ phải chăm sóc gần như toàn bộ, ăn phải có người đút, hầu hết không tự di chuyển được hoặc khá yếu nên phải ngồi xe lăn. Thứ tư là các cụ gần như chỉ còn sống thực vật, cho ăn qua ống.

Các ông bà cụ trong nhà dưỡng lão này không được mặc áo quần riêng, cũng không được dùng đồ cá nhân. Vào đây, họ đều được phát mấy bộ đồ đồng phục bằng thun dày màu cam, cổ tròn, cả ống tay áo và ống quần đều được may ngắn hơn bình thường để đỡ vướng. Tóc thì húi cua sạch cả cụ ông lẫn cụ bà, nên nhìn vào gần như chẳng phân biệt được bà hay ông. Bát chén riêng không được dùng mà ăn bằng cái tô inox của Nhà dưỡng lão.

Mỗi tuần, con cháu được lên thăm các cụ vào thứ bảy và chủ nhật. Đó là những ngày rộn ràng, vui tươi nhất của các cụ. Khi người thân đến nơi, bảo vệ sẽ báo vào bên trong (người thân không được vào khu lưu trú). Bảo mẫu sẽ săn sóc, chải tóc, thay quần áo cho các cụ nếu cần, rồi đẩy xe lăn ra sảnh tiếp đón. Khu này rộng, có mái che, nhiều bàn ghế, lại gần một hồ sen, có cây cảnh, tượng Phật nên thoáng mát và có thiên nhiên để ngắm nhìn. Thường các gia đình mang rất nhiều thức ăn đủ loại lên để “thăm nuôi” ông bà cha mẹ. Vô số thức ăn bày trên bàn, người này mở, người kia giục, người nọ xúc… ông bà vừa ăn chưa hết miếng này thì con cháu đã mở hộp thức ăn khác, xúc miếng khác..

Đến xế chiều, con cháu lần lượt ra về. Các cụ trở vào khu lưu trú. Khi hai cánh cửa mắt cáo ngăn cách hai khu khép lại cũng là lúc các cụ thầm đếm xem còn bao nhiêu buổi sáng, buổi chiều và buổi tối thì đến ngày được gặp con cháu lần nữa.

Tôi may mắn được chứng kiến bữa cơm của họ. Bữa cơm gồm hai món: canh rau và một món mặn.  Tất cả đều được nhân viên nấu nóng trong bếp, nhưng tất cả đều mang một cái màu: màu … cháo lòng, và một cái mùi: mùi thức ăn ít gia vị, nhạt nhẽo và được nấu lâu trên bếp.

Cơm trong nhà dưỡng lão đều từ nhão đến rất nhão, để các cụ già dễ nuốt. Canh cũng quanh đi quẩn lại  bí đỏ, bí xanh, bắp cải… tất cả đều lõng bõng và chín nhừ. Thức ăn mặn thường là cá, trứng chiên hoặc ít thịt nạc kho nhạt. Các cụ khỏe còn tự xúc ăn được. Các cụ còn lại thì nhân viên sẽ đổ hết tất cả thức ăn, cả canh lẫn thịt vào một cái tô và xúc cho họ. Nhiều ông bà cụ nhai móm mém chưa xong miếng trước đã phải há miệng ra để nhận tiếp miếng sau.

Nhà dưỡng lão cho biết do lo ngại bụng dạ các cụ yếu nên thức ăn nấu rất nhạt và hầu như không có gia vị. Thành ra nhìn các cụ sau khi vào trại thì đều hồng hào, tăng cân (có lẽ một phần do ít vận động chăng), nhưng không cụ nào tỏ vẻ thích bữa ăn của trại. Họ đều mong chờ những ngày con cháu đến thăm, mang thức ăn hợp khẩu vị. Có cụ có tiền thì có thể mua thêm ít thức ăn vặt, nhưng rất hãn hữu.

Vài cụ ông còn khỏe mạnh thì nghe radio (tự mang vào), hoặc đọc báo. Nhưng báo cũng có rất ít loại. Sách không thấy cuốn nào. Không có thư viện mặc dù số người còn đọc được cũng khá đông. Nhà dưỡng lão có các hoạt động văn nghệ nhưng tôi không gặp.

Phòng ngủ thường có 4 giường sắt cỡ 80 cm, đệm bọc simili thường gặp ở bệnh viện. Toilet chung nằm ở bên ngoài. Tuần hai hoặc ba lần, các cụ được tắm. Nhà tắm là một phòng chung rất đơn giản chia làm hai phần, bên trong là khu vực tắm với mấy vòi nước, thông thống không có gì che chắn. Nhân viên sẽ đẩy ba cụ vào một lần, xối nước tắm rồi đẩy ra ngoài, lau khô, mặc áo quần. Không còn gì là riêng tư nữa. Tôi cho rằng điều đó gây tổn thương nhân phẩm của các cụ và nó làm tôi đau lòng.

Với 18 triệu đồng, các cụ sẽ được một phòng riêng, rất nhỏ nhưng có máy lạnh và toilet trong phòng.

Ở một nhà dưỡng lão khác quảng cáo là do Nhật đầu tư, tình hình vui vẻ hơn rất nhiều. Các cụ được mặc dùng tư trang cá nhân như áo quần riêng, bát chén, chăn gối…, tất cả. Chất lượng bữa ăn phong phú và ngon hơn, được đổi bữa thường xuyên, lượng trái cây và sữa cũng nhiều hơn. Các cụ ở trong phòng riêng một hoặc hai người, đầy đủ tiện nghi. Giờ ăn, họ ngồi quanh một bàn ăn ấm cúng giống như ở nhà. Nhân viên vẫn tắm cho các cụ nhưng tắm riêng từng người một, trong phòng tắm kín. Sự riêng tư được tôn trọng. Chất lượng cuộc sống và phục vụ ở đây tốt hơn hẳn so với nhà dưỡng lão Việt Nam, nhưng tất nhiên giá tiền cũng cao hơn. Và do họ không có cơ sở rộng nên nhà dưỡng lão chỉ nhận rất ít người.

Tất cả là nhà dưỡng lão tư nhân. Ở thành phố Sài Gòn có một nhà dưỡng lão của nhà nước, gọi là Nhà dưỡng lão Thị Nghè. Vào đây, ngoài tiền còn phải đáp ứng một số yêu cầu như là cán bộ có quá trình cống hiến cho nhà nước.

NGƯỜI GIÀ DỰA AI?

Có những nhóm bạn thấy rõ thực tế của cuộc sống xa con sau này, đồng thời cũng sợ hãi sự cô độc và thiếu thốn ở nhà dưỡng lão nên bàn nhau xây dựng các nhóm dưỡng lão gia đình. Chung tiền thuê một ngôi nhà có vườn gần biển hoặc gần núi tùy thích, sống chung với nhau và thuê người chăm sóc. Chi phí tất nhiên là cao, nhưng lúc ấy bán hết tài sản đi để lấy tiền sống những ngày cuối đời thì chẳng cần phải băn khoăn. Đó có lẽ là mô hình tốt nhất.

Hoặc cũng có thể thuê người giúp việc sống với mình, nhưng như vậy sẽ rất buồn bã và cô đơn vì không có bạn bè; các nhu cầu tối quan trọng như dinh dưỡng, y tế cũng không đảm bảo.

Ở Việt Nam không có chế độ phúc lợi thuê người giúp việc chăm sóc người già yếu neo đơn, cho nên chỗ dựa cho người già hầu như chỉ có một cái gậy duy nhất: TIỀN.

Nếu con cháu có hiếu và có đủ điều kiện (thời gian, tiền bạc, tâm trí) để người già sống quây quần cùng con cháu đến cuối đời thì đó là cuộc sống hạnh phúc nhất. Tứ đại đồng đường, cha mẹ con cháu đều được nương tựa vào nhau cả về tinh thần và vật chất.

Có lần trong bệnh viện tôi gặp một đôi vợ chồng già không có con. Ông bệnh, bà vào chăm sóc nhưng chủ yếu động viên tinh thần. Hai cụ già đều trên 80 tuổi không thể chạy đi mua thức ăn hay các việc lặt vặt khác được. Có một anh con trai là cháu của ông bà hàng ngày mua thức ăn vào, nhưng anh cũng không sốt sắng gì lắm, chỉ làm theo trách nhiệm rồi về.

Bà cười nhạt nói với tôi: “Già dựa ai? Dựa tiền. Ai nuôi? Tiền nuôi. Mình có tiền còn sai nó làm được, chớ không thì nó cũng bỏ thôi, con à.”

*

Chúng ta rồi ai cũng già đi, không chừa một ai, rồi ai cũng sẽ đến ngày mắt mờ, tai điếc, chân run và tè dầm ra tã. Bạn đời, bạn bè, đồng nghiệp, người hâm mộ đều đã mất đi hoặc đều run rẩy như ta cả.

Nhưng có ai nghĩ đến điều đó? Khi chúng ta còn trẻ như lũ con cháu bây giờ, chúng ta cũng y như chúng, không có lấy một giây nghĩ rằng sẽ có ngày bản thân già đi.

HUỲNH MAI
05/01/2022

*---------*



Monday, 17 January 2022

Bước đầu tập hành thiền - Hòa thượng Gunaratana

 BƯỚC ĐẦU TẬP HÀNH THIỀN

Hòa thượng Gunaratana (2014)
Bình Anson lược dịch (2022)

Trích: Bhante Gunaratana (2014), Meditation on Perception (Hành thiền quán tưởng).

*

Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:

…”Ở đây, vị tỳ-khưu đi đến khu rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến nơi thanh vắng, ngồi xuống, chân xếp chéo, giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Có niệm vị ấy thở vào, có niệm vị ấy thở ra.

Trong khi thở vào dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào dài.’
Trong khi thở ra dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở ra dài.’
Trong khi thở vào ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào ngắn.’
Trong khi thở ra ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở ra ngắn.’ …”

Dựa vào những lời dạy đó, chúng ta có thể bắt đầu tập hành thiền như sau:

* ĐI ĐẾN MỘT NƠI YÊN LẶNG. Mặc dù Đức Phật đề nghị một khu rừng, gốc cây hay một nơi thanh vắng, trong hoàn cảnh hiện tại của đa số chúng ta, nơi hành thiền đơn giản là nơi chúng ta có thể ngồi thực hành một mình, tránh xa những bận rộn hằng ngày. Rất khó phát triển định tâm nếu chúng ta ngồi cạnh máy điện thoại di động hay máy tính cá nhân! Để tập trung tâm ý, ta cần phải tránh mọi náo động, bên trong lẫn bên ngoài.

* CHỌN TƯ THẾ NGỒI THOẢI MÁI VÀ VỮNG VÀNG. Đức Phật dạy chúng ta ngồi xuống, chân xếp chéo, giữ lưng thẳng. Tuy nhiên, ngày nay có nhiều người ngồi dưới đất, chân xếp chéo với một cái gối nhỏ kê mông. Cũng có thể ngồi trên ghế, giữ lưng thẳng để hành thiền, hoặc trong những trường hợp bất khả kháng, có thể hành thiền trong tư thế đứng, trong lúc đi, hay khi nằm xuống. Mục đích là giữ thân nhẹ nhàng, thoải mái trong một tư thế nào có thể giúp ta chịu đựng trong một thời gian dài mà không di chuyển hay điều chỉnh.

* CHÚ TÂM VÀO THỜI KHẮC HIỆN TẠI. Như Đức Phật dạy trong đoạn kinh trên, hành giả phải giữ niệm luôn hiện diện, hay giữ niệm trước mặt. Chúng ta thực hành theo lời dạy này bằng cách ghi nhớ rằng quá khứ đã qua rồi, còn tương lai thì chưa đến. Thời khắc thực sự hiện hữu là ở ngay trước mặt, thời khắc của những gì đang xảy ra ngay bây giờ.

* ĐEM TÂM CHÚ Ý VÀO HƠI THỞ, HƠI THỞ ĐI VÀO VÀ ĐI RA. Chọn một điểm duy nhất để ta chú ý vào đó giúp tâm được an định. Thông thường, nơi dễ theo dõi sự chuyển động ra vào của hơi thở là ở chóp mũi, nơi luồng không khí chạm vào ống mũi khi thở vào và thở ra.

* ĐỂ TÂM GHI NHẬN HƠI THỞ CÓ KHI DÀI, CÓ KHI NGẮN. Lời dạy này không có nghĩa là ta phải kiểm soát hơi thở, ép hơi thở vào ra phải là hơi dài hay hơi ngắn. Ở đây, hành giả chỉ đơn thuần ghi nhận hơi thở ra vào tự nhiên, có khi dài, có khi ngắn. Quán niệm hơi thở trong Phật giáo không phải là bài tập thể dục huấn luyện hơi thở. Ở đây, chúng ta dùng hơi thở, lúc nào cũng có mặt với chúng ta, như là một điểm chú tâm để giúp chúng ta phát triển tâm định và niệm.

* NHẸ NHÀNG VÀ NHẤT QUÁN. Thiền là phải thực hành. Không nên mong đợi kết quả nhanh chóng sau một buổi tập đầu tiên, hay ngay cả sau hai, ba, hay mười buổi tập. Nếu có thể, nên chọn thời gian hành thiền mỗi ngày khi vắng lặng, không có những xáo trộn. Nhiều người chọn hành thiền vào buổi sáng sớm, trước khi bận rộn vào những công việc ban ngày, hay vào buổi tối, nếu đó là khoảng thời gian mà họ cảm thấy vẫn còn tỉnh táo, nhanh nhẹn. Thiết lập một thời gian nhất định tại một nơi cố định để hành thiền đều đặn mỗi ngày là một đường lối nhẹ nhàng để khuyến khích và trợ giúp công phu hành thiền của mỗi người.

* LINH ĐỘNG VÀ LẠC QUAN. Điều chỉnh buổi hành thiền để giúp tâm có đủ thời gian để lắng động. Nhiều người thấy rằng dành ra hai mươi đến ba mươi phút mỗi ngày để hành thiền mang đến kết quả tốt, nhưng ngay cả khi hành thiền trong năm hoặc mười phút cũng là điều tốt trong những ngày ta có nhiều việc bận rộn. Ta phải cảm thấy thư giãn và thoải mái khi ngồi theo dõi hơi thở, càng lâu càng tốt. Nhưng không nên xem hành thiền là một công việc lặt vặt hay một sự bó buộc. Cần phải xem đó như là một sinh hoạt tốt, đáng ưa thích để giúp thư giãn và đem niềm vui đến thân và tâm, và từ đó giúp ta tăng trưởng tâm linh.

-- Hòa thượng GUNARATANA (2014)

*-----*