Thursday 14 March 2024

Tâm lý mua vé số

 TÂM LÝ MUA VÉ SỐ

Khi mua vé số, người ta thường chỉ nghĩ đến và nói nhiều đến những người thành công, có vận may trúng được giải độc đắc hay các giải thưởng lớn, mà quên đi sự kiện thực tế là đại đa số những người mua vé số không bao giờ trúng giải hay trúng những giải rất nhỏ.

Khi nói đến tuổi già và bệnh tật, người ta thường chỉ đề cập, trích dẫn vài trường hợp cá biệt của ai đó sống lâu trăm tuổi, khỏe mạnh, không uống một viên thuốc nào. Rồi quảng cáo thêm, đó là nhờ ăn uống theo một chế độ dinh dưỡng nào đó, nhờ dùng một loại linh dược nào đó, nhờ tập luyện một lối thể dục yoga hay một lối tu tập hành thiền nào đó. Người ta cố quên đi cảnh đa số những người già lụm khụm bên giường, mang đủ thứ bệnh, uống đủ loại thuốc - đông y lẫn tây y.

Sinh, già, bệnh, chết là hiện tượng tự nhiên của chúng sinh. Hễ có sinh là phải già. Hễ có già là có bệnh, rồi sẽ chết. Đơn giản chỉ vậy thôi.

Chắc chắn là rồi ai cũng sẽ chết. Nhưng không biết chắc chắn là chết lúc nào, chết cách nào, chết ở đâu. Tùy theo duyên nghiệp của mỗi người.

Bình Anson
Perth, tháng 8-2020

*-----*



Friday 8 March 2024

Giới bổn Tỳ-khưu (Bhikkhu Pātimokkha)

 Sách:

GIỚI BỔN TỲ-KHƯU
BHIKKHU PĀTIMOKKHA

Tải về máy bản PDF:

1) Bản Pāli-Việt (vn287.pdf): 
https://tinyurl.com/bdeh5apc

2) Bản Anh dịch (en305.pdf)
https://tinyurl.com/3ss9pmud

*-----*



Saturday 2 March 2024

Vài kinh nghiệm trong các sinh hoạt trên Facebook

 VÀI KINH NGHIỆM TRONG CÁC SINH HOẠT TRÊN FACEBOOK 
Bình Anson

*

1) Tôi bắt đầu tham gia mạng xã hội Facebook vào cuối năm 2007 nhưng chỉ để tìm hiểu, không có nhiều đóng góp. Từ năm 2013, tôi mới bắt đầu đóng góp, chia sẻ nhiều hơn, sau khi nghỉ hưu và dọn về nhà mới, ở gần chùa Dhammaloka trong vùng Nollamara, Tây Úc, có nhiều thì giờ rảnh rỗi hơn. 

2) Tôi giới hạn các trao đổi trong phạm vi sinh hoạt, tu học trong đạo Phật. Thỉnh thoảng, tôi có thêm vài chia sẻ về sinh hoạt đời sống cá nhân, như là một cư sĩ Phật tử bình thường đã nghỉ hưu, không có chức vụ, không tham gia vào bất cứ tổ chức, phe nhóm nào. Đôi khi nổi hứng, tôi chia sẻ vài cảm nghĩ về một chuyện thời sự nào đó, rồi thôi, không đeo đuổi kéo dài.

Tôi không quan tâm đến các chuyện khác như chuyện chính trị, chuyện thời sự lăng nhăng, chuyện ruồi bu kiến đậu, chuyện tào lao thiên địa, chuyện buôn bán kinh doanh, chuyện tranh đua và khoe khoang thành tích cá nhân, chuyện ăn chơi giải trí, du hý, v.v.

3) Trong phạm vi tu học trong đạo Phật, mặc dù không có ý phân biệt tông phái, tôi dành ưu tiên chú tâm trao đổi, chia sẻ, thảo luận về các đề tài sinh hoạt trong truyền thống Phật giáo Theravāda (Nam tông) và kinh điển Phật giáo Sơ kỳ (kinh điển Pāli và A-hàm).

4) Ban đầu, tôi không giới hạn số người kết bạn với mình. Vào khoảng tháng 5-2016, tôi đọc một bài viết đăng trên kênh truyền thông ABC Úc châu, khảo sát hoạt động của các mạng xã hội và có kết luận rằng mỗi người chúng ta chỉ cần có tối đa 150 bạn là đủ. Đây là một ý kiến hay, nhưng lúc ấy, tôi có khoảng 500 bạn Facebook, nên ngần ngại, không muốn hủy kết bạn quá nhiều. Bèn tự đặt cho mình số bạn tối đa là 300, gấp đôi con số trong bài viết ấy.

5) Từ đó, 300 là tiêu chuẩn của riêng tôi. Thỉnh thoảng, tôi duyệt lại danh sách bạn, lọc bỏ những ai không thường xuyên tương tác, hay có những chia sẻ, những bình luận có nội dung không hợp duyên với mình để giữ con số 300 ấy.

6) Bây giờ, mỗi khi có ai xin kết bạn, trước khi nhận kết bạn, tôi đến đọc trang Facebook của người ấy, xem nội dung có hợp duyên với mình hay không? Thêm một tiêu chuẩn phụ là người ấy phải có ít nhất là 10 người bạn Facebook chung với tôi – ngoại trừ trường hợp người ấy gửi tin nhắn riêng để xin kết bạn với lý do chính đáng. Nhờ đó mà trang Facebook của tôi có nội dung trao đổi tương đối hài hòa, thuần nhất trong giới hạn phạm vi mình đã đặt ra.

7) Phần lớn tôi dùng máy tính ở nhà (máy để bàn và laptop) để chia sẻ và tham gia các thảo luận, trao đổi trong Facebook. Tôi chỉ dùng điện thoại di động (iPhone) để đọc các bình luận và tin nhắn khi đi ra ngoài – ngồi chờ đợi bác sĩ hay ngồi chờ đợi ở các quán café, nhưng không trực tiếp trả lời, trao đổi, đóng góp chia sẻ. Tôi không trả lời tin nhắn của người lạ, cũng không tò mò bấm theo các đường link mà người nào đó đề nghị. Có lẽ nhờ vậy mà cho đến nay, trang Facebook của tôi tương đối an toàn, không bị kẻ gian đến quậy phá.

8) Tôi thấy tài khoản Faceboook có cho phép sử dụng 2 lớp bảo mật nên cũng tương đối khá an toàn. Trong 15 năm qua, tôi chưa từng bị ai đánh cắp tài khoản. Có một lần, hắc-ke (hacker, tin tặc) nào đó cướp lấy tài khoản của một bạn đạo rồi giả danh gửi tin nhắn đến tôi, xin số điện thoại, mật khẩu và vài thông tin cá nhân. Tôi nghi ngờ, hỏi vặn lại vài câu. Thấy trả lời quanh co là biết ngay đó là kẻ gian. Tôi chặn ngay tên đó và báo cáo đến Facebook. 

9) Nhìn lại, tôi thấy nếu biết sử dụng Facebook khôn khéo thì sẽ có nhiều ích lợi cho mình. Qua  Facebook, tôi đã lập được một sự liên lạc tốt đẹp và trao đổi thông tin tu học với chư Tăng Ni và các bạn Phật tử người Việt ở Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới (Thái Lan, Myanmar, Sri Lanka, Ấn Độ, Pháp, Thụy Sĩ, Đức, Đan Mạch, Na Uy, Anh quốc, Canada, Hoa Kỳ). Qua Facebook, tôi biết được thông tin sinh hoạt của nhiều đạo tràng, các khóa giáo lý, các khóa tu thiền, hình ảnh các chuyến hành hương Phật tích, hình ảnh các chùa, các lễ hội Phật giáo, các công tác cứu trợ từ thiện, v.v. 

Qua Facebook, tôi thành lập được một nhóm ấn tống kinh sách, giúp dò soát và chỉnh sửa bản thảo các sách Phật giáo do tôi biên dịch, xúc tiến xin giấy phép in ấn ở Việt Nam, rồi gửi sách quảng bá khắp nơi. Thêm vào đó, bạn bè trên Facebook đã giúp tôi tổ chức được các buổi gặp gỡ thân mật với bạn đạo ở cả ba miền Nam, Trung, Bắc trong những lần tôi về thăm viếng Việt Nam để giới thiệu các cuốn sách đó.

10) Cũng xin ghi thêm ở đây là ngoài Facebook – và Messenger, tôi không có kinh nghiệm và không có ý định tham gia mạng xã hội nào khác. Đối với tôi, chỉ một mạng xã hội thôi là đủ.

Bình Anson
Perth, Tây Úc
01/03/2024

*-----*




Saturday 24 February 2024

Một cõi đi về - Bình Anson

MỘT CÕI ĐI VỀ 
Bình Anson

*

Trưa nay trời nắng nóng như thiêu đốt, bên ngoài nhiệt độ là 40 độ C. Bên kia đường, các toán thợ đang xây những căn nhà mới, chuyện trò râm ran pha lẫn tiếng máy trộn hồ xi măng ồn ào. Tôi vào phòng riêng, đóng cửa, mở máy điều hòa, điều chỉnh nhiệt độ là 20 độ C. Đóng cửa phòng thì trở nên lặng yên, không còn nghe gì cả, không khí trong phòng trở nên mát mẻ dễ chịu.

Tôi ngồi hành thiền, thư giãn theo dõi hơi thở và các cảm thọ toàn thân. Chỉ chú tâm ghi nhận, thở vào thở ra, cảm thọ sinh lên rồi tàn diệt. Có khi thọ lạc, nhẹ nhàng, lâng lâng, dễ chịu. Có khi thọ khổ, đau nhức bắp thịt, khớp xương, khó chịu. Tôi chỉ ghi nhận rồi trở về với hơi thở, buông xả, không bám theo, không xua đuổi, không đánh giá hay bình luận. Cứ thế mà thời gian trôi qua rất nhanh.

Rồi chuyển sang quán tâm Từ. Nguyện cho thân tâm này luôn được an vui. Rải lòng yêu thương khắp toàn thân, từ đỉnh đầu xuống mặt, thân, tay, chân, gót chân rồi đi ngược trở lên. Cứ như thế mà rải lên rải xuống vài lần. Rồi rải lòng yêu thương rộng ra theo mọi phương hướng, từ gần đến xa, đến mọi loài chúng sinh trong cõi ta-bà. Nguyện cho tất cả đều được an vui. 

Mở mắt, xả thiền. Xoa bóp tay, chân, đầu, mặt, toàn thân. Nhìn đồng hồ thì thấy ngồi hành thiền được gần 60 phút. Cảm thấy an vui, nhẹ nhàng, thanh thản. Chỉ vậy thôi. Không mong cầu gì hơn.

Rồi suy nghĩ thêm. Mình có được những điều kiện để sống như thế này quả thật là may mắn, nhiều phước duyên lắm rồi. Còn đòi hỏi, tìm kiếm gì nữa? Xem như đã chu toàn các bổn phận làm con, làm chồng, làm cha trong gia đình, đã chu toàn các bổn phận trong xã hội – 30 năm làm việc cho chính phủ Tây Úc, đóng góp bảo vệ môi trường và quản lý các nguồn nước, tham gia đóng góp các sinh hoạt của hội Phật giáo địa phương. Về mặt đạo, đã xây dựng được một trang web Phật học với thông tin, tài liệu kinh sách tương đối tạm đầy đủ để những ai hữu duyên tìm đến tham khảo và tu học. Đã thỏa nguyện đi hành hương viếng thăm bốn nơi động tâm ở Ấn Độ và sáu địa điểm kết tập và trùng tuyên kinh điển Pāli ở Ấn Độ, Sri Lanka và Myanmar. Về mặt đời, đã thỏa nguyện đi viếng thăm thị thành, làng mạc dọc theo bờ biển hình chữ S của Việt Nam, từ Cà Mau đến Móng Cái. Đã từng ngồi máy bay đi vòng quanh trái đất hai lần trong mấy năm qua. 

Cho nên, đối với tôi bây giờ là không còn mơ ước đi đâu xa xôi. Không còn thấy hứng thú đi du lịch chỗ này, chỗ kia. Đã từng tham dự các khóa thiền tích cực do các thiền sư nổi tiếng hướng dẫn, đã từng đến tịnh tu tại Tu viện Bodhinyana của ngài Ajahn Brahm. Cho nên tôi không còn thấy cần thiết, háo hức đến những nơi đó. Điều quan trọng là bây giờ mình biết sống an vui tại nơi này, ngay trong hiện tại. Thu xếp tịnh tu tại nhà riêng, giảm thiểu mọi giao tiếp xã hội, tìm đọc các kinh sách căn bản và quan trọng, rồi suy tư để thẩm thấu những lời Phật dạy, và dành thì giờ để hành thiền, chú tâm quán sát mọi hiện tượng trên đời, bên trong lẫn bên ngoài, để nhận thức được bản chất thật sự của chúng. 

Chỉ nhiêu đó thôi là đủ cho năm tháng còn lại của cuộc đời. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt?

“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng.
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến.
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây,
Không động, không rung chuyển

“Biết vậy, nên tu tập,
Hôm nay nhiệt tâm làm,
Ai biết chết ngày mai?
Không ai điều đình được,
Với đại quân thần chết.

“Trú như vậy nhiệt tâm,
Đêm ngày không mệt mỏi,
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền,
Bậc an tịnh, trầm lặng.”

(Kinh Nhất dạ Hiền giả, MN 131)

– Bình Anson
Nollamara, Tây Úc 
23/02/2024

*-----*



Friday 9 February 2024

Hành trình từ đau buồn đến vui sống - Bình Anson lược dịch

 HÀNH TRÌNH TỪ ĐAU BUỒN ĐẾN VUI SỐNG

CRAIG NICHOLLS
Bình Anson lược dịch

Giới thiệu: Ông Craig Nicholls là một Phật tử người Úc, hội viên của Hội Phật giáo Tây Úc. Đây là bài chia  sẻ về hành trình đối diện với bệnh ung thư của ông, đăng trong bản tin tháng 2-2024 của Hội Phật giáo.

*

HÀNH TRÌNH CỦA BỆNH UNG THƯ 

Bây giờ đã bảy năm kể từ lần chẩn đoán đầu tiên về bệnh ung thư, và tôi đã trải qua một cuộc hành trình khá dài trong thời gian này. Sau cú sốc trong quá trình chẩn đoán ban đầu, tiếp theo là cảm giác sợ hãi lẫn hy vọng qua từng cuộc phẫu thuật và kết quả xét nghiệm. Có lúc tôi nghĩ mình có thể khỏi bệnh, có lúc lại nghĩ mọi chuyện đều vô vọng, chỉ chờ chết. Tâm tôi và những ước mơ về tương lai đã tan vỡ hết lần này đến lần khác. Nhưng qua cuộc hành trình này, tôi đã thấy rõ ràng về điều gì thực sự quan trọng, cũng như niềm vui và lòng biết ơn đối với nhiều món quà mà tôi được trao tặng trong cuộc sống này. Tôi muốn chia sẻ những điều này với các bạn, với hy vọng rằng các bạn cũng tìm được điều gì đó có giá trị cho bản thân và những người mà bạn yêu thương. 

TRƯỚC KHI CHẨN ĐOÁN 

Trước khi được chẩn đoán, tôi hài lòng với cuộc sống của mình và có lẽ hơi tự mãn. Tôi cảm thấy khỏe mạnh, khoản nợ thế chấp đã được trả hết, công việc và cuộc sống gia đình diễn ra một cách thoải mái. Tôi có thể thấy cuộc sống hiện tại và tương lai của mình được bày ra trước mắt, thật tốt đẹp. Tuy nhiên, vào năm 2016, kết quả nội soi định kỳ cho thấy tôi bị ung thư ruột ở giai đoạn IV. Ung thư di căn thoát ra khỏi ruột, lây nhiễm vào nhiều hạch bạch huyết và một nửa lá gan của tôi. Đối với những người có chẩn đoán này, khoảng 90% sẽ chết trong vòng 5 năm. Đó là một thông tin suy sụp.

ĐIỀU TRỊ SỚM

Trong năm đầu tiên, tôi bị sốc và tập trung vào nhiều phương pháp điều trị cũng như những thay đổi mà tôi phải thực hiện trong đời mình. Tôi nghỉ làm việc và được hóa trị. Việc điều trị ban đầu này rất khó khăn vì thuốc đã tấn công các dây thần kinh, dẫn đến tê tay và tê chân, cũng như cảm giác mệt mỏi và buồn nôn thường gặp khi dùng thuốc. Tôi còn nhớ sau ba tháng điều trị, tôi đến gặp bác sĩ chuyên khoa ung thư và ông ấy nói rằng tôi cần ít nhất ba tháng nữa trước khi phẫu thuật. Tôi đã khóc trong phòng mạch của ông ấy – ý nghĩ về thêm ba tháng hóa trị nữa khiến tôi cảm thấy không thể chịu đựng được. Lúc ấy tôi không hề biết rằng bảy năm sau tôi vẫn phải tiếp tục hóa trị!

Sau vài đợt hóa trị, tôi trải qua vài cuộc phẫu thuật – đầu tiên, một nửa lá gan được cắt bỏ và sau đó là một phần ruột. Tôi đã phải cúi gập người nhiều tháng trời vì những vết khâu ở bụng và tôi phải ngủ trên ghế vì không thể nằm thẳng trên giường. Đó là những ngày khó khăn. Tuy nhiên, các phẫu thuật đã thành công. Khoảng một năm rưỡi sau khi chẩn đoán, tôi không có dấu hiệu nào nữa của bệnh ung thư, và ung thư của tôi xem như đã chính thức thuyên giảm!

HY VỌNG CÓ CÁCH CHỮA TRỊ 

Tôi ngừng điều trị một thời gian – không phẫu thuật, không hóa trị. Chỉ cần chụp quét để theo dõi, đầu tiên là ba tháng một lần và sau đó là sáu tháng một lần. Sau chấn thương tâm lý do chẩn đoán bệnh ung thư và các phẫu thuật, tôi bắt đầu cảm thấy có hy vọng rằng có lẽ tôi có thể là một trong những người may mắn được chữa khỏi bệnh. Có lẽ tôi sẽ được lành bệnh và lúc ấy trong tương lai tôi sẽ tạ ơn những ngôi sao may mắn của tôi vì tôi đã thoát khỏi nanh vuốt của căn bệnh ung thư. Mỗi lần đi chụp quét để xem liệu ung thư đã quay trở lại hay chưa đều là một cực hình – tôi đến gặp bác sĩ chuyên khoa ung thư mà không biết liệu mình sẽ được báo cho biết rằng mọi việc vẫn ổn hay bị tuyên án tử hình. Và trong gần hai năm mọi chuyện vẫn ổn. Nhưng rồi sau đó thì không còn ổn nữa.

Tôi được báo cho biết rằng bác sĩ đã tìm thấy thêm một số đốm trong hạch bạch huyết và một số đốm ở lá phổi bên phải của tôi. Hóa trị không giải quyết được vấn đề này nên tôi phải qua một cuộc phẫu thuật. Phần trên cùng của lá phổi bên phải bị cắt bỏ cùng với các hạch bạch huyết bị ảnh hưởng. May mắn thay, con người được cấu tạo với một số phần dư thừa nên tôi không nhận thấy bất kỳ sự khác biệt nào khi thiếu phần phổi này. Điều đáng sợ là căn bệnh ung thư đã quay trở lại và đã lan rộng.

HY VỌNG VÀ SỢ HÃI

Trải qua thêm nhiều tháng nữa với những chụp quét CT mệt mỏi và những cuộc hẹn gặp bác sĩ. Lần chụp quét đầu tiên sau phẫu thuật cho kết quả tốt. Đúng thế! Nhưng liệu tình trạng khả quan có kéo dài không? Tâm tôi tiếp tục dao động giữa hy vọng và sợ hãi. Gần một năm sau cuộc phẫu thuật này, cuối cùng tôi nhận được kết quả giải tỏa được thắc mắc này. Bệnh ung thư đã quay trở lại, di căn đến nhiều nơi - có những đốm ở hạch bạch huyết, ruột, phổi, gan. Bác sĩ chuyên khoa cho biết ung thư đang lan rộng khắp cơ thể tôi. Phương pháp phẫu thuật để cắt bỏ khối ung thư không còn khả thi. Không thể kiểm soát và chặn đứng nó được nữa.

Khối u bây giờ còn nhỏ nhưng nó sẽ phát triển. Hóa trị sẽ làm chậm quá trình tiến triển nhưng không thể ngăn chặn được. Căn bệnh ung thư cuối cùng sẽ giết chết tôi. Bà bác sĩ chuyên khoa ung thư nói rằng sức khỏe của tôi vẫn còn khá tốt, vì vậy tôi nên duyệt lại danh sách những việc cần phải làm cho mình. Tôi còn sống được bao lâu? Bà ấy không thể nói chắc chắn – có thể thêm vài năm nữa, nhưng có lẽ không quá nhiều.

Nhận được tin bệnh ung thư đã đến giai đoạn cuối là một cú sốc lớn khác. Tất nhiên, tôi biết điều này có thể xảy ra, nhưng một phần trong tâm tôi luôn nuôi hy vọng rằng mình sẽ khỏi bệnh. Tất cả chúng ta đều có xu hướng hành động như thể cuộc sống sẽ tiếp diễn mãi mãi, có lẽ ngoại trừ những khoảnh khắc đau buồn nho nhỏ khi cái chết của một người thân yêu làm chúng ta xúc động. Nhưng ngay cả khi đó, chúng ta vẫn bướng bỉnh, nghĩ rằng điều đó sẽ không xảy đến cho mình. Và tôi đã phải mất một thời gian để hiểu và chấp nhận thực tế là tuổi thọ của tôi có giới hạn. Hiểu biết và chấp nhận đó dần dần thấm sâu; thấm vào xương, vào từng tế bào của cơ thể và làm thay đổi tâm tư tôi. Tôi từ bỏ hy vọng sẽ khỏi bệnh và sẵn sàng đối diện với sự thật rằng thời gian dành cho những gì tôi yêu thích là có hạn, không còn nhiều nữa.

KHÔNG BAO GIỜ CÓ HẠNH PHÚC MÃI MÃI 

Khi còn bé, chúng ta học được rất nhiều điều về thế giới thông qua những câu chuyện và truyện cổ tích. Chúng ta biết rằng trên thế giới có sự xấu ác, nhưng qua thử thách và đau khổ, có thể vượt qua được sự xấu ác ấy và rồi, những người tốt sẽ sống hạnh phúc mãi mãi. Ngay cả khi trưởng thành, chúng ta vẫn tiếp tục sống với những câu chuyện này và tiếp tục tìm kiếm “niềm hạnh phúc mãi mãi” cho riêng mình. Chúng ta được hứa hẹn như thế nhiều lần. Nếu ta có được thân hình đẹp, việc làm hoàn hảo, ngôi nhà mơ ước, có được mối quan hệ đúng đắn thì có lẽ chúng ta sẽ được hạnh phúc mãi mãi. Nhưng bất chấp những nỗ lực mãnh liệt và mong muốn của chúng ta để có hạnh phúc, mọi chuyện dường như không bao giờ diễn ra như vậy.

Có lẽ trong một lúc nào đó, có được tài sản của cải mang lại cho chúng ta đôi chút hạnh phúc, chúng ta tìm thấy tình yêu, có việc làm thích hợp, hoặc có được những đứa con mang lại niềm vui. Nhưng ngay cả khi có được cuộc sống tốt đẹp, chúng ta cũng không thể giữ được nó mãi mãi. Sắc đẹp tàn phai, của cải dần dần tiêu mòn, thú cưng yêu quý rồi cũng chết đi, con cái trưởng thành rồi rời gia đình để sống tự lập. Dù bạn có yêu thích cái gì đó thật là mãnh liệt rồi thì đến một lúc nào đó bạn cũng sẽ phải xa lìa và nói lời chia tay với những gì mình yêu thích. Tất cả chúng ta đều sẽ bị bệnh, già đi, rồi chết. Tôi biết điều này nghe có vẻ khắc nghiệt và nó làm tan nát trái tim chúng ta, nhưng đó là sự thật. Trên thế gian này không có gì là hạnh phúc mãi mãi.

HÃY ĐỂ TRÁI TIM BẠN TAN VỠ

Mặc dù ý tưởng “không bao giờ có hạnh phúc mãi mãi” nghe có vẻ chán nản, nhưng tôi thực sự nhận thấy việc chấp nhận sự thật này đã khiến tôi an vui hơn và gắn bó với cuộc sống hơn bao giờ hết. Nhưng cũng giống như các câu chuyện cổ tích, tôi phải trải qua những thử thách và đau khổ trước khi đến với cái mà đối với tôi là một dạng hạnh phúc thực sự và đáng tin cậy hơn.

Đầu tiên, bạn cần thấy rằng những gì bạn yêu thích chỉ ở với bạn trong một thời gian ngắn. Nói cách khác, trái tim bạn sẽ phải tan vỡ. Hầu hết chúng ta trải qua tâm trạng này lúc đau buồn, khi ai đó qua đời hoặc rời bỏ chúng ta. Chúng ta nhận ra rằng không phải lúc nào họ cũng ở với mình và chúng ta trải qua nỗi đau khi phải đối diện với thực tế này. Chúng ta cảm thấy thiếu vắng, thương nhớ họ và dần dần học cách sống trong một thế giới không có họ. Nhưng chúng ta cũng có thể tập sống như thế trước khi chuyện đó xảy ra, chúng ta có thể sống khi biết rằng mình chỉ có khoảng thời gian ngắn ấy. Nhưng đối với hầu hết chúng ta, ta không muốn nghĩ đến chuyện đó và thích sống trong ảo tưởng êm ấm rằng họ sẽ luôn ở với ta. Tất nhiên là êm ấm, cho đến khi ảo tưởng đó tan vỡ.

NỖI ĐAU BUỒN

Nỗi đau buồn này đã tác động mạnh đến tôi. Nó bất chợt hiện ra vài lần trong ngày. Một cơn sóng thần đau buồn quét qua thân, cổ họng và mặt tôi. Tôi không thể tránh được. Buồn bã và đau khổ tột độ dâng tràn, những tiếng nức nở sâu thẳm, hoặc tiếng than khóc dâng lên trong cổ họng tôi và nước mắt tôi dâng trào và rơi xuống má. Nó choáng ngợp, nhưng tôi để nó lấn át mình. Nó đi xuyên qua cơ thể tôi như một cơn bão – có lẽ 5 hoặc 10 phút rồi biến mất. Mắt tôi sưng húp và mệt mỏi. Trong một thời gian dài, tôi cảm thấy như có cả một đại dương của buồn bã ở bên trong mình, nhưng tôi chỉ có thể khóc từng chút một. Tôi cảm thấy nỗi buồn là vô tận. Nó thật mạnh mẽ và đau đớn, nhưng tôi dùng toàn bộ cơ thể để lắng nghe những gì nó nói với tôi.

Điều khởi động nỗi đau buồn đó là những suy nghĩ về con gái tôi – Belle, và vợ tôi – Gaye. Trái tim tôi tan vỡ khi nghĩ rằng tôi sẽ rời xa họ. Tôi đau buồn về thời gian tôi sẽ mất đi. Tôi sẽ không sống trong tuổi già với Gaye, rất có thể tôi sẽ không còn sống để thấy Belle kết hôn, sinh con, hay tốt nghiệp trở thành một chuyên gia tâm lý học. Điều này thật là khó nghĩ, nhưng ý tưởng tồi tệ hơn đối với tôi là tôi sẽ không ở bên họ khi họ đau khổ. Tôi dành một tình thương mãnh liệt và sẵn sàng che chở cho cả hai người thân yêu đó, và ý tưởng rằng tôi sẽ không ở bên họ trong lúc họ đau khổ khiến trái tim tôi tan nát. Vào thời điểm họ cần tôi nhất, sau khi tôi qua đời, tôi sẽ không ở đó để chăm sóc họ, nói với họ rằng mọi việc rồi sẽ ổn thôi, để chia sẻ gánh nặng với họ. Thật khó để diễn tả bằng ngôn từ về mức độ tàn khốc của cảm giác này.

NỖI ĐAU VƠI DẦN NHƯNG THƯƠNG YÊU VẪN CÒN ĐÓ

Nghe có vẻ lạ lùng, nhưng tôi đau buồn khi tôi còn sống, trong khi những người khác sẽ đau buồn khi tôi qua đời. Nhưng đó là điều cần thiết. Tôi đã đau buồn theo cách này trong một thời gian dài, nhưng dần dần nỗi đau buồn này đã dạy cho tôi nhiều bài học. Nó đã dạy tôi về mức độ sâu kín của tình yêu và sự quan tâm dành cho gia đình tôi. Gia đình đối với tôi thật là quý báu, chúng tôi thật lòng yêu thương nhau và tôi thật là may mắn khi có được một gia đình như thế. Nó đã dạy tôi rằng cho dù có được tình thương yêu mãnh liệt như thế, cuộc sống không trao tặng cho ta niềm hạnh phúc kéo dài mãi mãi – nó chỉ ở đây trong một thời gian. Tôi đã tưởng rằng mình sẽ có nhiều năm sống bên cạnh Gaye và Belle. Nhưng đây chỉ là một giả định, một ảo tưởng. Cuộc sống chưa bao giờ hứa hẹn có một hạnh phúc mãi mãi với hai người thân yêu đó.

Tôi bắt đầu nhận ra rằng tôi đang đau buồn vì mất đi những tương lai chưa bao giờ được trao cho tôi. Trong sự tự mãn, tôi đã cho rằng mình sẽ già đi cùng Gaye và tôi sẽ thấy Belle có nhiều bước tiến vào thế giới người lớn. Nhưng điều đó không có thật. Muốn có được những tương lai này là không có thật. Từng chút một, tôi dần dần buông bỏ những giấc mơ đau đớn này. Tôi xem chúng chỉ như là những biểu hiện của lòng thương yêu. Và theo thời gian, nỗi đau vơi dần nhưng lòng thương yêu vẫn còn đó.

TỪ BỎ HY VỌNG VÀ TÌM KIẾM THỜI GIAN QUÝ GIÁ

Khi tôi buông bỏ những giấc mơ đau đớn đó, định hướng cuộc sống của tôi bắt đầu thay đổi. Tôi chấp nhận sự thật rằng ở một khía cạnh nào đó, tôi không thể sống lâu với tình trạng bệnh ung thư này. Vì vậy, tôi đã từ bỏ hy vọng đó. Thật là nhẹ nhõm! Cuộc sống của tôi bây giờ rõ ràng là tất cả những gì tôi đang có, và không còn kéo dài bao lâu nữa. Đúng, trái tim tôi vẫn tan vỡ, nhưng quan trọng hơn, nó đã rộng mở. Tôi nhận ra rằng mình chỉ có bấy nhiêu thời gian bên Gaye và Belle, và tôi chỉ có thể làm những việc mình yêu thích trong vài năm nữa thôi. Chỉ còn có rất ít thời gian bên gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Thời gian có hạn. Tôi bắt đầu bước vào cái mà mọi người trong lĩnh vực chăm sóc giảm nhẹ gọi là “thời gian quý giá”.

Thời gian quý giá xảy ra với con người vào cuối cuộc đời khi họ cuối cùng chấp nhận sự thật rằng mình sẽ chết và họ chỉ còn có bấy nhiêu thời gian đó thôi. Họ nhận ra rằng thời gian rất quý giá và điều này giúp họ tập trung vào những gì thực sự quan trọng đối với họ. Như Barbara Karnes, tác giả nhiều sách nổi tiếng về chăm sóc giảm nhẹ, đã viết rất hay: “Đây là lúc để làm và nói những gì cần làm và cần nói. Đây là lúc bạn phải sống tốt nhất có thể, để mỗi khoảnh khắc trở nên có ý nghĩa với bạn.”

Trong khi bệnh ung thư là một người thầy khắc nghiệt và tàn nhẫn, tôi vô cùng biết ơn những gì nó đã dạy tôi về cuộc sống, cái chết, nỗi đau buồn và quan trọng nhất là tình yêu thương. Trái tim tôi tan vỡ, nhưng nó phải như vậy. Tất cả tài sản của chúng ta, chúng ta đã thu thập và cẩn thận gìn giữ, mọi thứ, ngay cả thân tâm của chúng ta, cuối cùng chúng ta cũng phải buông bỏ. Chúng ta chỉ có bấy nhiêu thời gian để ở bên cạnh những người thân yêu của mình. Dù có giữ chặt đến đâu thì đến một lúc nào đó chúng ta cũng phải nói lời chia tay. Điều này có thể khiến trái tim chúng ta tan nát, nhưng cũng nhờ đó mà nó có thể giúp mở rộng trái tim chúng ta.

MỞ RỘNG TRÁI TIM 

Cuộc sống hiện nay của tôi xét về mọi mặt, thực sự trở nên đơn giản và nhẹ nhàng. Khi thực hành phát triển niệm và hành thiền, tôi chỉ đơn giản mở rộng trái tim mình, đón nhận bất cứ cái gì hiện có ở đây, ngay bây giờ. Công việc của tôi với tư cách là một nhà trị liệu cũng giống như vậy. Ngày qua ngày, từng khoảnh khắc, ý định của tôi là sống theo sự thật của mình theo cách cho phép mọi người sống theo sự thật của họ. Tôi trở nên ít quan tâm đến việc “chỉnh sửa” con người hoặc tình huống. Chúng ta thường vội vàng phóng đến tương lai đến mức không nhìn thấy rõ ràng những gì gần gũi nhất với mình. Tuy nhiên, khi biết mình đang ở đâu, chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn về nơi mình cần đi tiếp theo. Buông bỏ mọi kết quả ngóng trông là một sự giải phóng kỳ diệu. Cuộc sống (và công việc) trở nên nhẹ nhàng, thong thả.

BA CÂU HỎI CỦA NHÀ VUA

Thiền sư Ajahn Brahm có kể một câu chuyện tuyệt vời của Lev Tolstoy về “Ba câu hỏi của nhà vua”. Một ngày nọ, nhà vua tác ý tìm câu trả lời cho ba câu hỏi quan trọng nhất trên đời: Lúc nào là thời điểm quan trọng nhất? Ai là người quan trọng nhất để ta quan tâm đến? Việc nào là quan trọng nhất cần phải làm? Nhà vua du hành khắp nơi trong vương quốc để tìm câu trả lời, được nghe từ nhiều người thông thái và uyên bác, nhưng ngài không cảm thấy thỏa mãn, hài lòng.

Sau hàng loạt các cuộc phiêu lưu, nhà vua cuối cùng nhận được câu trả lời thỏa đáng từ một vị ẩn sĩ già. Thời điểm nào là quan trọng nhất? Đó là ngay bây giờ, thời điểm ngay trong hiện tại là lúc duy nhất ta ở đây và có thể hành động. Người quan trọng nhất để ta quan tâm đến là người đang ở trước mặt ta ngay trong lúc này. Điều quan trọng nhất cần phải làm là đối xử tử tế với người ấy. Rất đúng! Căn bệnh ung thư đã tước đoạt những hy vọng viển vông của tôi về tương lai, nhưng nó cho tôi thấy rằng sống trọn vẹn ngay trong hiện tại là điều quan trọng nhất. 

MỖI NGÀY LÀ MỘT MÓN QUÀ

Tương lai vô cùng bất định, nhưng đối với tôi bây giờ mỗi ngày là một món quà. Mỗi khoảnh khắc đều quý giá. Tôi trân quý thời gian tôi có với mọi người chung quanh. Tôi không còn nghĩ đến mọi việc sẽ diễn ra như thế nào trong tương lai. Tôi sống tự do theo cách mà trước đây tôi không thể tưởng tượng được. Cuộc sống là một niềm vui. Tôi biết ơn, tôi sống với lòng biết ơn từng khoảnh khắc.

Như một món quà cuối cùng dành cho bạn, tôi xin chia sẻ một bài thơ hay của một thiền sư Nhật Bản trong thế kỷ 18, tên là Ryōkan Taigu (Lương Khoan Đại Ngu). Sư được nhiều người yêu mến vì cuộc sống ẩn dật an vui và giản dị. Đối với tôi, Sư là hiện thân vẻ đẹp của một con người có trái tim hoàn toàn rộng mở, tấm lòng nhân hậu tỏa sáng trên vạn vật một cách bình đẳng, như ánh nắng ban trưa. Chỉ là một tâm hồn đẹp, thật xinh đẹp.

NGÀY ĐẦU XUÂN 
Thiền sư Ryōkan Taigu (1758-1831)

Những ngày đầu xuân – bầu trời
có màu xanh sáng, mặt trời to lớn và ấm áp. 
Mọi thứ đang chuyển sang màu xanh.
Tôi mang bình bát đi bộ đến làng
để nhận thức ăn hàng ngày.
Lũ trẻ nhận ra tôi ở đầu làng
Vui vẻ vây quanh, nắm kéo tay tôi cho đến khi tôi đứng lại.

Tôi đặt bát lên tảng đá trắng, treo túi xách lên cành cây.
Đầu tiên chúng tôi bện cỏ và chơi kéo co,
Sau đó lần lượt hát và đá bóng:
Tôi đá bóng thì chúng hát, 
Chúng đá bóng thì tôi hát. 
Tôi quên cả thời gian trôi qua.

Người ta đi ngang qua, chỉ vào tôi và cười:
“Tại sao Sư lại chơi đùa như thế?” 
Tôi gật đầu mà không trả lời.
Tôi có thể giải thích, nhưng tại sao phải làm thế?
Bạn có muốn biết những gì trong tâm tôi?
Ngay từ lúc ban đầu: Chỉ vậy thôi! Chỉ vậy thôi!

– Bình Anson lược dịch 
Perth, Tây Úc, tháng 2-2024

*-----*




Wednesday 24 January 2024

ĐẠI KINH THIẾT LẬP NIỆM (DN 22)

ĐẠI KINH THIẾT LẬP NIỆM (DN 22) 
MAHĀSATIPAṬṬHĀNA SUTTA 
Tỳ-khưu Indacanda dịch Việt

*

1. Tôi đã nghe như vầy: Một thời, đức Thế Tôn ngụ ở xứ sở của những người Kuru; có một thị trấn của những người Kuru tên là Kammāsadamma. Tại nơi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu.” “Thưa đức Ngài,” các vị tỳ khưu ấy đã đáp lại đức Thế Tôn như thế. Đức Thế Tôn đã nói điều này:

2. “Này các tỳ khưu, đây là con đường độc đạo [1] đưa đến sự thanh tịnh cho các chúng sinh, đưa đến sự vượt qua hẳn sầu và bi, đưa đến sự biến mất của khổ ưu, [2] đưa đến việc đạt được phương pháp, [3] đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn, tức là bốn sự thiết lập niệm. Bốn (sự thiết lập niệm) là những gì? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu—

- sống [4] có sự quan sát thân ở thân, [5] có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ [6] tham đắm và ưu phiền ở thế gian.[7]

- sống có sự quan sát thọ ở các thọ, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian.

- sống có sự quan sát tâm ở tâm, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian.

- sống có sự quan sát pháp ở các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian.

Phần Nhập Đề được kết thúc.

*

I. VIỆC QUAN SÁT THÂN

3. Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là thế nào? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu đi đến khu rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến ngôi nhà trống, ngồi xuống, xếp chân thế kiết già, giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Trú niệm, vị ấy thở vào; trú niệm, vị ấy thở ra.[8] Trong khi thở vào dài, vị ấy biết rõ: Tôi thở vào dài,” hoặc [9] trong khi thở ra dài, vị ấy biết rõ: Tôi thở ra dài,” hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy biết rõ: Tôi thở vào ngắn,” hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy biết rõ: Tôi thở ra ngắn.” “Cảm giác toàn thân, [10] tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập, “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập. “Làm cho an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập, “Làm cho an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập.

4. Này các tỳ khưu, cũng giống như người thợ tiện hoặc học trò của người thợ tiện lành nghề, trong khi kéo (dây quay) dài, vị ấy biết rõ: “Tôi kéo (dây quay) dài,” hoặc trong khi kéo (dây quay) ngắn, vị ấy biết rõ: “Tôi kéo (dây quay) ngắn,” tương tự y như vậy, vị tỳ khưu trong khi thở vào dài, vị ấy biết rõ: “Tôi thở vào dài,” hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy biết rõ: “Tôi thở ra dài,” hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy biết rõ: “Tôi thở vào ngắn,” hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy biết rõ: “Tôi thở ra ngắn.” “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập, “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập. “Làm cho an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở vào” vị ấy thực tập, “Làm cho an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở ra” vị ấy thực tập.

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần,[11] hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.[12]

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

Phần Hơi Thở Vào - Hơi Thở Ra được kết thúc.

5. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu trong khi đi biết rõ: “Tôi đi;” hoặc khi đứng, biết rõ: “Tôi đứng;” hoặc khi ngồi xuống, biết rõ: “Tôi ngồi xuống;” hoặc trong khi nằm, biết rõ: “Tôi đang nằm;” hoặc thân của vị này được vận hành như thế nào thì biết rõ nó như thế ấy.

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

Phần Oai Nghi được kết thúc.

6. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu có sự thực hành việc nhận biết rõ trong khi đi tới đi lui; có sự thực hành việc nhận biết rõ khi nhìn qua nhìn lại; có sự thực hành việc nhận biết rõ khi co khi duỗi (tay chân); có sự thực hành việc nhận biết rõ trong việc mang y hai lớp, bình bát, và y phục; có sự thực hành việc nhận biết rõ khi ăn, khi uống, khi nhai, khi nếm; có sự thực hành việc nhận biết rõ ở hành động đại tiện tiểu tiện; có sự thực hành việc nhận biết rõ khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi ngủ, khi thức, khi nói, khi im lặng.

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

Phần Nhận Biết Rõ được kết thúc.

7. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu xem xét chính thân này từ lòng bàn chân trở lên, từ đỉnh ngọn tóc trở xuống, được bao bọc bởi da, chứa đầy các thành phần bất tịnh khác nhau:

“Ở thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy xương, thận, tim, gan, cơ hoành, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, thực phẩm chưa tiêu, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước mỡ (huyết tương), nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu.”

Này các tỳ khưu, cũng giống như cái bao có miệng ở cả hai đầu chứa đầy các loại hạt khác nhau, như là: gạo sāli, lúa mì, đậu xanh, đậu māsa, hạt mè, gạo trắng. Một người có mắt mở túi ấy ra và xem xét rằng: “Các hạt này là gạo sāli, các hạt này là lúa mì, các hạt này là đậu xanh, các hạt này là đậu māsa, các hạt này là hạt mè, các hạt này là gạo trắng,” tương tự y như vậy, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xem xét chính thân này từ lòng bàn chân trở lên, từ đỉnh ngọn tóc trở xuống, được bao bọc bởi da, chứa đầy các thành phần bất tịnh khác nhau: “Ở thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy xương, thận, tim, gan, cơ hoành, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, thực phẩm chưa tiêu, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước mỡ (huyết tương), nước miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước tiểu.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

Phần Tác Ý Vật Ghê Tởm được kết thúc.

8. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu xem xét chính thân này theo cách được bố trí, theo cách được vận hành về khía cạnh nguyên tố [13]: “Ở thân này có nguyên tố đất, nguyên tố nước, nguyên tố lửa, nguyên tố gió.”

Này các tỳ khưu, cũng giống như người đồ tể hoặc học trò của người đồ tể lành nghề sau khi giết chết con bò cái rồi ngồi ở ngã tư đường lớn phân chia thành từng phần, tương tự y như vậy, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xem xét chính thân này theo cách được bố trí, theo cách được vận hành về khía cạnh nguyên tố: “Ở thân này có nguyên tố đất, nguyên tố nước, nguyên tố lửa, nguyên tố gió.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

Phần Tác Ý Nguyên Tố được kết thúc.

9. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị tỳ khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma đã chết một ngày, hoặc đã chết hai ngày, hoặc đã chết ba ngày, tử thi đã bị trương sình, đã đổi màu xanh, đã trạng thái chảy nước vàng. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

(Bãi Tha Ma - thứ nhất)

10. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị tỳ khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma đang bị các chim quạ ăn, hoặc đang bị các chim diều hâu ăn, hoặc đang bị các chim kên kên ăn, hoặc đang bị các con chó ăn, hoặc đang bị các chó rừng ăn, hoặc đang bị nhiều loại côn trùng ăn. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

(Bãi Tha Ma - thứ nhì)

11. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị tỳ khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma là bộ xương với thịt và máu, được kết lại với nhau bằng những sợi gân. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

(Bãi Tha Ma - thứ ba)

12. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị tỳ khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma là bộ xương không còn thịt, bị lấm lem bởi máu, được kết lại với nhau bằng những sợi gân. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

(Bãi Tha Ma - thứ tư)

13. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị tỳ khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma là bộ xương, thịt và máu đã không còn, được kết lại với nhau bằng những sợi gân. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

(Bãi Tha Ma - thứ năm)

14. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị tỳ khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma là các mẩu xương không còn các sự gắn kết, bị vương vãi khắp các hướng, nơi này xương bàn tay, nơi nọ xương bàn chân, nơi kia xương cổ chân, nơi này xương ống chân, nơi nọ xương đùi, nơi kia xương sống, nơi này xương chậu, nơi nọ xương vai, nơi kia xương cổ, nơi này xương răng, nơi nọ xương đầu. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

(Bãi Tha Ma - thứ sáu)

15. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị tỳ khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma là các mẩu xương màu trắng tương tự màu vỏ sò. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

(Bãi Tha Ma - thứ bảy)

16. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị tỳ khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma là các mẩu xương được chất thành đống đã hơn một năm. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

(Bãi Tha Ma - thứ tám)

17. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, cũng giống như vị tỳ khưu nhìn thấy thân xác bị quăng bỏ ở bãi tha ma là các mẩu xương hôi thối, trở thành bột. Vị ấy so sánh chính thân này (với tử thi ấy): “Thân này cũng có tính chất như vậy, có bản chất như vậy, không vượt qua điều ấy.”

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thân ở thân thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở thân, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở thân.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thân” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân là như vậy.

(Bãi Tha Ma - thứ chín)

Mười bốn Việc Quan Sát Thân được kết thúc.

*

II. VIỆC QUAN SÁT THỌ

18. Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thọ ở các thọ là thế nào? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu trong khi cảm giác [14] thọ lạc, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ lạc.” Hoặc trong khi cảm giác thọ khổ, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ khổ.” Hoặc trong khi cảm giác thọ không khổ không lạc, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ không khổ không lạc.

Hoặc trong khi cảm giác thọ lạc có hệ lụy vật chất,[15] biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ lạc có hệ lụy vật chất.” Hoặc trong khi cảm giác thọ lạc không hệ lụy vật chất, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ lạc không hệ lụy vật chất.” Hoặc trong khi cảm giác thọ khổ có hệ lụy vật chất, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ khổ có hệ lụy vật chất.” Hoặc trong khi cảm giác thọ khổ không hệ lụy vật chất, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ khổ không hệ lụy vật chất.” Hoặc trong khi cảm giác thọ không khổ không lạc có hệ lụy vật chất, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ không khổ không lạc có hệ lụy vật chất.” Hoặc trong khi cảm giác thọ không khổ không lạc không hệ lụy vật chất, biết rõ (rằng): “Tôi cảm giác thọ không khổ không lạc không hệ lụy vật chất.

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát thọ ở các thọ thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát thọ ở các thọ thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát thọ ở các thọ thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở các thọ, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở các thọ, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở các thọ.

Hoặc hơn nữa, niệm “có thọ” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.[16]

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thọ ở các thọ là như vậy.

Việc Quan Sát Thọ được kết thúc.

*

III. VIỆC QUAN SÁT TÂM

19. Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát tâm tâm là thế nào? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu biết rõ tâm có luyến ái là: “Tâm có luyến ái,” hoặc biết rõ tâm đã xa lìa luyến ái là: “Tâm đã xa lìa luyến ái,” hoặc biết rõ tâm có sân hận là: “Tâm có sân hận,” hoặc biết rõ tâm đã xa lìa sân hận là: Tâm đã xa lìa sân hận,” hoặc biết rõ tâm có si mê là: Tâm có si mê,” hoặc biết rõ tâm đã xa lìa si mê là: “Tâm đã xa lìa si mê,” hoặc biết rõ tâm bị thâu hẹp [17] là: Tâm bị thâu hẹp,” hoặc biết rõ tâm bị tán loạn là: “Tâm bị tán loạn,” hoặc biết rõ tâm đại hành [18] là: Tâm đại hành,” hoặc biết rõ tâm không đại hành là: Tâm không đại hành,” hoặc biết rõ tâm hữu thượng [19] là: Tâm hữu thượng,” hoặc biết rõ tâm vô thượng là: “Tâm vô thượng,” hoặc biết rõ tâm định tĩnh là: “Tâm định tĩnh,” hoặc biết rõ tâm không định tĩnh là: “Tâm không định tĩnh,” hoặc biết rõ tâm được giải thoát là: “Tâm được giải thoát,” hoặc biết rõ tâm không được giải thoát là: “Tâm không được giải thoát.

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát tâm ở tâm thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát tâm ở tâm thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát tâm ở tâm thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở tâm, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở tâm, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở tâm.

Hoặc hơn nữa, niệm “có tâm” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát tâm ở tâm là như vậy.

Việc Quan Sát Tâm được kết thúc.

*

IV. VIỆC QUAN SÁT PHÁP

20. Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp là thế nào?

Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về năm pháp che lấp. Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về năm pháp che lấp là thế nào?

Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu, trong khi sự mong muốn về dục thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “sự mong muốn về dục thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi sự mong muốn về dục thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có sự mong muốn về dục thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh ra của sự mong muốn về dục chưa được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với sự mong muốn về dục đã được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh ra của sự mong muốn về dục đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi thù oán thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “Có thù oán thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi thù oán thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có thù oán thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh ra của thù oán chưa được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với thù oán đã được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh ra của thù oán đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi dã dượi và buồn ngủ thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “dã dượi và buồn ngủ thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi dã dượi và buồn ngủ thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có dã dượi và buồn ngủ thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh ra của dã dượi và buồn ngủ chưa được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với dã dượi và buồn ngủ đã được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh ra của dã dượi và buồn ngủ đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi phóng dật và hối hận thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “Có phóng dật và hối hận thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi phóng dật và hối hận thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có phóng dật và hối hận thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh ra của phóng dật và hối hận chưa được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với phóng dật và hối hận đã được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh ra của phóng dật và hối hận đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi hoài nghi thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “Có hoài nghi thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi hoài nghi thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có hoài nghi thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh ra của hoài nghi chưa được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với hoài nghi đã được sanh ra là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh ra của hoài nghi đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở các pháp.

Hoặc hơn nữa, niệm “có pháp” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về năm pháp che lấp là như vậy.

(Phần Pháp Che Lấp được kết thúc)

21. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về năm thủ uẩn.[20] Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về năm thủ uẩn là thế nào?

Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu (biết rõ [21]): Thế này là sắc, thế này là sự sanh khởi của sắc, thế này là sự biến mất của sắc. Thế này là thọ, thế này là sự sanh khởi của thọ, thế này là sự biến mất của thọ. Thế này là tưởng, thế này là sự sanh khởi của tưởng, thế này là sự biến mất của tưởng. Thế này là các hành, thế này là sự sanh khởi của các hành, thế này là sự biến mất của các hành. Thế này là thức, thế này là sự sanh khởi của thức, thế này là sự biến mất của thức.

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở các pháp.

Hoặc hơn nữa, niệm “có pháp” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về năm thủ uẩn là như vậy.

(Phần Uẩn được kết thúc)

22. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về sáu nội và ngoại xứ. Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về sáu nội và ngoại xứ là thế nào?

Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu biết rõ mắt, biết rõ các sắc, sự ràng buộc sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy (mắt và các sắc), vị ấy biết rõ điều ấy. Việc sanh lên của sự ràng buộc chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với sự ràng buộc đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh lên trong tương lai của sự ràng buộc đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Vị ấy biết rõ tai, biết rõ các thinh, và sự ràng buộc nào sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy (tai và các thinh), vị ấy biết rõ điều ấy. Việc sanh lên của sự ràng buộc chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với sự ràng buộc đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh lên trong tương lai của sự ràng buộc đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Vị ấy biết rõ mũi, biết rõ các hương, và sự ràng buộc nào sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy (mũi và các hương), vị ấy biết rõ điều ấy. Việc sanh lên của sự ràng buộc chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với sự ràng buộc đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh lên trong tương lai của sự ràng buộc đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Vị ấy biết rõ lưỡi, biết rõ các vị, và sự ràng buộc nào sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy (lưỡi và các vị), vị ấy biết rõ điều ấy. Việc sanh lên của sự ràng buộc chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với sự ràng buộc đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh lên trong tương lai của sự ràng buộc đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Vị ấy biết rõ thân, biết rõ các xúc, và sự ràng buộc nào sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy (thân và các xúc), vị ấy biết rõ điều ấy. Việc sanh lên của sự ràng buộc chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với sự ràng buộc đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh lên trong tương lai của sự ràng buộc đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Vị ấy biết rõ ý, biết rõ các pháp, và sự ràng buộc nào sanh lên tùy thuộc vào cả hai nơi ấy (ý và các pháp), vị ấy biết rõ điều ấy. Việc sanh lên của sự ràng buộc chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc dứt bỏ đối với sự ràng buộc đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc không sanh lên trong tương lai của sự ràng buộc đã được dứt bỏ là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi hoại diệt ở các pháp.

Hoặc hơn nữa, niệm “có pháp” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về sáu nội và ngoại xứ là như vậy.

(Phần Xứ được kết thúc)

23. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về bảy yếu tố đưa đến giác ngộ. Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về bảy yếu tố đưa đến giác ngộ là thế nào?

Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu, trong khi niệm giác chi [22] thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “niệm giác chi thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi niệm giác chi thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có niệm giác chi thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh lên của niệm giác chi chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; việc làm cho đầy đủ đối với việc tu tập niệm giác chi đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi trạch pháp giác chi thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “trạch pháp giác chi thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi trạch pháp giác chi thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có trạch pháp giác chi thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh lên của trạch pháp giác chi chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc làm cho đầy đủ đối với việc tu tập trạch pháp giác chi đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi tinh tấn giác chi thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “tinh tấn giác chi thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi tinh tấn giác chi thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có tinh tấn giác chi thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh lên của tinh tấn giác chi chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc làm cho đầy đủ đối với việc tu tập tinh tấn giác chi đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi hỷ giác chi thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “hỷ giác chi thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi hỷ giác chi thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): Không có hỷ giác chi thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh lên của hỷ giác chi chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc làm cho đầy đủ đối với việc tu tập hỷ giác chi đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi tịnh giác chi thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “tịnh giác chi thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi tịnh giác chi thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có tịnh giác chi thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh lên của tịnh giác chi chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc làm cho đầy đủ đối với việc tu tập tịnh giác chi đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi định giác chi thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “định giác chi thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi định giác chi thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có định giác chi thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh lên của định giác chi chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc làm cho đầy đủ đối với việc tu tập định giác chi đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Trong khi xả giác chi thuộc nội phần đang hiện hữu, biết rõ (rằng): “xả giác chi thuộc nội phần của tôi;” hoặc trong khi xả giác chi thuộc nội phần không hiện hữu, biết rõ (rằng): “Không có xả giác chi thuộc nội phần của tôi.” Việc sanh lên của xả giác chi chưa được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy; và việc làm cho đầy đủ đối với việc tu tập xả giác chi đã được sanh lên là như thế nào, vị ấy biết rõ điều ấy.

Như thế, vị ấy sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở các pháp.

Hoặc hơn nữa, niệm “có pháp” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về bảy yếu tố đưa đến giác ngộ là như vậy.

(Phần Yếu Tố Đưa Đến Giác Ngộ được kết thúc)

Tụng phẩm thứ nhất được kết thúc.

24. Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về bốn chân lý cao thượng. Và này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về bốn chân lý cao thượng là thế nào?

Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu biết rõ: “Đây là Khổ” đúng theo thực thể, biết rõ: “Đây là nhân sanh Khổ” đúng theo thực thể, biết rõ: “Đây là sự diệt tận Khổ” đúng theo thực thể, biết rõ: “Đây là lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ” đúng theo thực thể.

25. Và này các tỳ khưu, chân lý cao thượng về Khổ là ? Sanh là khổ, già cũng là khổ,[23] chết cũng là khổ, sầu-bi-khổ-ưu-não cũng là khổ, sự liên hệ với những gì không yêu thích là khổ, sự xa lìa với những gì yêu thích là khổ, ước muốn mà không đạt được cũng là khổ, tóm tắt lại năm thủ uẩn cũng là khổ.

Và này các tỳ khưu, sanh là gì? Là sự sanh ra, sự sanh khởi, sự hạ sanh, sự tái sanh, sự hiện khởi các uẩn, sự thành tựu các xứ của các hạng chúng sanh khác nhau ở từng tập thể chúng sanh khác nhau, này các tỳ khưu, sự việc này được gọi là sanh.

Và này các tỳ khưu, già là gì? Là sự già nua, hiện tượng lão hóa, sự rụng răng, tình trạng bạc tóc, da nhăn, sự rút ngắn tuổi thọ, sự suy nhược các căn của các hạng chúng sanh khác nhau ở từng tập thể chúng sanh khác nhau, này các tỳ khưu, sự việc này được gọi là già.

Và này các tỳ khưu, chết là gì? Là sự từ trần, sự tiêu hoại, sự phân rã, sự biến mất, sự tử vong, sự chết chóc, sự hết thời kỳ, sự tan rã các uẩn, sự bỏ lại xác thân, sự gián đoạn các quyền của các hạng chúng sanh khác nhau ở từng tập thể chúng sanh khác nhau, này các tỳ khưu, sự việc này được gọi là chết.

Và này các tỳ khưu, sầu là gì? Này các tỳ khưu, là sự sầu muộn, sự buồn rầu, trạng thái buồn phiền, sự sầu muộn ở nội tâm, sự buồn thảm ở nội tâm của người bị gặp phải sự rủi ro này nọ, của người bị tác động bởi sự khổ đau này nọ, này các tỳ khưu, đây được gọi là sầu.

Và này các tỳ khưu, bi là gì? Này các tỳ khưu, là sự phàn nàn, sự than vãn, sự kể lể, sự kêu gào, trạng thái kể lể, trạng thái than vãn của người bị gặp phải sự rủi ro này nọ, của người bị tác động bởi sự khổ đau này nọ, này các tỳ khưu, đây được gọi là bi.

Và này các tỳ khưu, khổ là gì? Này các tỳ khưu, khổ thuộc thân, sự không dễ chịu thuộc thân, khổ sanh lên do sự xúc chạm của thân được nhận biết là không dễ chịu, này các tỳ khưu, đây được gọi là khổ.

Và này các tỳ khưu, ưu là gì? Này các tỳ khưu, khổ thuộc tâm, sự không dễ chịu thuộc tâm, khổ sanh lên do sự xúc chạm của ý được nhận biết là không dễ chịu, này các tỳ khưu, đây được gọi là ưu.

Và này các tỳ khưu, não là gì? Này các tỳ khưu, là sự lo âu, sự thất vọng, trạng thái lo âu, trạng thái thất vọng của người bị gặp phải sự rủi ro này nọ, của người bị tác động bởi sự khổ đau này nọ, này các tỳ khưu, đây được gọi là não.

Và này các tỳ khưu, sự liên hệ với những gì không yêu thích là khổ (có ý nghĩa) là gì? Trong trường hợp này, là sự giao tiếp, sự kết hợp, sự liên kết, tình trạng sống chung của một người với các sắc, các thinh, các hương, các vị, các xúc, các pháp không thích, không yêu, không hợp ý, hoặc là với những người có sự mong muốn điều không hữu ích, có sự mong muốn điều không có lợi, sự mong muốn sự không an lạc, có sự mong muốn sự không yên ổn khỏi các vướng bận cho người ấy, này các tỳ khưu, đây được gọi là: sự liên hệ với những gì không yêu thích là khổ.

Và này các tỳ khưu, sự xa lìa với những gì yêu thích là khổ (có ý nghĩa) là gì? Trong trường hợp này, là sự không giao tiếp, sự không kết hợp, sự không liên kết, tình trạng không sống chung của một người với các sắc, các thinh, các hương, các vị, các xúc, các pháp được thích, được yêu, hợp ý, hoặc là với những người có sự mong muốn điều hữu ích, có sự mong muốn điều có lợi, sự mong muốn sự thoải mái, có sự mong muốn sự yên ổn khỏi các vướng bận, hoặc là với mẹ, với cha, với anh em trai, với chị em gái, với bạn bè, với thân hữu, hay là với thân quyến cùng huyết thống, này các tỳ khưu, đây được gọi là: sự xa lìa với những gì yêu thích là khổ.

Và này các tỳ khưu, ước muốn mà không đạt được cũng là khổ (có ý nghĩa) là gì? Này các tỳ khưu, ước muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của sanh (rằng): “Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của sanh! Và ước sao sanh không thể tác động đến chúng ta!” Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn; đây chính là: ước muốn mà không đạt được cũng là khổ.

Này các tỳ khưu, ước muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của già (rằng): “Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của già! Và ước sao già không thể tác động đến chúng ta!” Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn; đây chính là: ước muốn mà không đạt được cũng là khổ.

Này các tỳ khưu, ước muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của bệnh [24] (rằng): “Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của bệnh! Và ước sao bệnh không thể tác động đến chúng ta!” Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn; đây chính là: ước muốn mà không đạt được cũng là khổ.

Này các tỳ khưu, ước muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của chết (rằng): “Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của chết! Và ước sao chết không thể tác động đến chúng ta!” Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn; đây chính là: ước muốn mà không đạt được cũng là khổ.

[25] Này các tỳ khưu, ước muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của sầu (rằng): “Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của sầu! Và ước sao sầu không thể tác động đến chúng ta!” Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn; đây chính là: ước muốn mà không đạt được cũng là khổ.

Này các tỳ khưu, ước muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của bi (rằng): “Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của bi! Và ước sao bi không thể tác động đến chúng ta!” Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn; đây chính là: ước muốn mà không đạt được cũng là khổ.

Này các tỳ khưu, ước muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của khổ (rằng): “Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của khổ! Và ước sao khổ không thể tác động đến chúng ta!” Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn; đây chính là: ước muốn mà không đạt được cũng là khổ.

Này các tỳ khưu, ước muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của ưu (rằng): “Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của ưu! ước sao ưu không thể tác động đến chúng ta!” Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn; đây chính là: ước muốn mà không đạt được cũng là khổ.

Này các tỳ khưu, ước muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của não (rằng): “Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của não! Và ước sao não không thể tác động đến chúng ta!” Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do ước muốn; đây chính là: ước muốn mà không đạt được cũng là khổ.[25]

Và này các tỳ khưu, tóm tắt lại năm thủ uẩn [26] cũng là khổ (có ý nghĩa) là gì? Tức là: sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này các tỳ khưu, đây được gọi là: tóm tắt lại năm thủ uẩn cũng là khổ. Này các tỳ khưu, đây được gọi là: chân lý cao thượng về Khổ.

26. Và này các tỳ khưu, chân lý cao thượng về nhân sanh Khổ là gì? Điều này là tham ái liên quan đến tái sanh, đồng hành với sự vui thích và luyến ái, có sự thích thú nơi này nơi nọ, tức là: dục ái, hữu ái, phi hữu ái.[27]

Hơn nữa, này các tỳ khưu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở đâu, trong khi trụ lại thì trụ lại ở đâu? Ở đời vật nào có bản chất đáng yêu,[28] có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này. Và ở đời, cái gì là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu? Ở đời, mắt là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này. Ở đời, tai —nt— Ở đời, mũi —nt— Ở đời, lưỡi —nt— Ở đời, thân —nt— Ở đời, ý là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Ở đời, các sắc —nt— Ở đời, các thinh —nt— Ở đời, các hương —nt— Ở đời, các vị —nt— Ở đời, các xúc —nt— Ở đời, các pháp là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Ở đời, nhãn thức —nt— Ở đời, nhĩ thức —nt— Ở đời, tỷ thức —nt— Ở đời, thiệt thức —nt— Ở đời, thân thức —nt— Ở đời, ý thức là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Ở đời, nhãn xúc —nt— Ở đời, nhĩ xúc —nt— Ở đời, tỷ xúc —nt— Ở đời, thiệt xúc —nt— Ở đời, thân xúc —nt—Ở đời, ý xúc là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Ở đời, cảm thọ sanh lên do nhãn xúc —nt—Ở đời, cảm thọ sanh lên do nhĩ xúc nt— Ở đời, cảm thọ sanh lên do tỷ xúc —nt— Ở đời, cảm thọ sanh lên do thiệt xúc —nt— Ở đời, cảm thọ sanh lên do thân xúc —nt— Ở đời, cảm thọ sanh lên do ý xúc là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Ở đời, sắc tưởng —nt— Ở đời, thinh tưởng —nt— Ở đời, hương tưởng — nt— Ở đời, vị tưởng —nt— Ở đời, xúc tưởng —nt— Ở đời, pháp tưởng là vật bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Ở đời, sắc tư —nt— Ở đời, thinh tư —nt— Ở đời, hương tư —nt— Ở đời, vị tư —nt— Ở đời, xúc tư —nt— Ở đời, pháp tư là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Ở đời, sắc ái —nt— Ở đời, thinh ái —nt— Ở đời, hương ái —nt— Ở đời, vị ái nt— Ở đời, xúc ái —nt— Ở đời, pháp ái là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Ở đời, sắc tầm —nt— Ở đời, thinh tầm —nt— Ở đời, hương tầm —nt— Ở đời, vị tầm —nt— Ở đời, xúc tầm —nt— Ở đời, pháp tầm là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Ở đời, sắc tứ —nt— Ở đời, thinh tứ —nt— Ở đời, hương tứ —nt— Ở đời, vị tứ —nt— Ở đời, xúc tứ —nt— Ở đời, pháp tứ là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi sanh lên thì sanh lên ở nơi này, trong khi trụ lại thì trụ lại ở nơi này.

Này các tỳ khưu, đây được gọi là: chân lý cao thượng về nhân sanh Khổ.

27. Và này các tỳ khưu, chân lý cao thượng về sự diệt tận Khổ là gì? Là sự xa lìa luyến ái và sự diệt tận hoàn toàn, sự xả bỏ, sự buông bỏ, sự thoát khỏi, sự không dính líu đối với chính tham ái ấy. Hơn nữa, này các tỳ khưu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở đâu, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở đâu? Ở đời, vật nào có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Và ở đời, cái gì là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu? Ở đời, mắt là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này. Ở đời, tai —nt— Ở đời, mũi —nt— Ở đời, lưỡi —nt— Ở đời, thân —nt— Ở đời, ý là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Ở đời, các sắc —nt— Ở đời, các thinh —nt— Ở đời, các hương —nt— Ở đời, các vị —nt— Ở đời, các xúc —nt— Ở đời, các pháp là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Ở đời, nhãn thức —nt— Ở đời, nhĩ thức —nt— Ở đời, tỷ thức —nt— Ở đời, thiệt thức —nt— Ở đời, thân thức —nt— Ở đời, ý thức là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Ở đời, nhãn xúc —nt— Ở đời, nhĩ xúc —nt— Ở đời, tỷ xúc —nt— Ở đời, thiệt xúc —nt— Ở đời, thân xúc —nt—Ở đời, ý xúc là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Ở đời, cảm thọ sanh lên do nhãn xúc —nt— Ở đời, cảm thọ sanh lên do nhĩ xúc nt— Ở đời, cảm thọ sanh lên do tỷ xúc —nt— Ở đời, cảm thọ sanh lên do thiệt xúc —nt— Ở đời, cảm thọ sanh lên do thân xúc —nt— Ở đời, cảm thọ sanh lên do ý xúc là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Ở đời, sắc tưởng —nt— Ở đời, thinh tưởng —nt— Ở đời, hương tưởng — nt— Ở đời, vị tưởng —nt— Ở đời, xúc tưởng —nt— Ở đời, pháp tưởng là vật bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Ở đời, sắc tư —nt— Ở đời, thinh tư —nt— Ở đời, hương tư —nt— Ở đời, vị tư —nt— Ở đời, xúc tư —nt— Ở đời, pháp tư là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Ở đời, sắc ái —nt— Ở đời, thinh ái —nt— Ở đời, hương ái —nt— Ở đời, vị ái nt— Ở đời, xúc ái —nt— Ở đời, pháp ái là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Ở đời, sắc tầm —nt— Ở đời, thinh tầm —nt— Ở đời, hương tầm —nt— Ở đời, vị tầm —nt— Ở đời, xúc tầm —nt— Ở đời, pháp tầm là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Ở đời, sắc tứ —nt— Ở đời, thinh tứ —nt— Ở đời, hương tứ —nt— Ở đời, vị tứ —nt— Ở đời, xúc tứ —nt— Ở đời, pháp tứ là vật có bản chất đáng yêu, có bản chất dễ chịu, tham ái ấy trong khi được dứt bỏ thì được dứt bỏ ở nơi này, trong khi được diệt tận thì được diệt tận ở nơi này.

Này các tỳ khưu, đây được gọi là: chân lý cao thượng về sự diệt tận Khổ.

28. Và này các tỳ khưu, chân lý cao thượng về lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ là gì? Đây chính là Thánh Đạo tám chi phần, tức là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh cần, chánh niệm, chánh định.

Và này các tỳ khưu, chánh kiến là gì? Này các tỳ khưu, là sự biết về Khổ, sự biết về nhân sanh Khổ, sự biết về sự diệt tận Khổ, sự biết về lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ. Này các tỳ khưu, đây được gọi là chánh kiến.

Và này các tỳ khưu, chánh tư duy là gì? Là tư duy về xuất ly, tư duy về không thù oán, tư duy về không hãm hại. Này các tỳ khưu, đây được gọi là chánh tư duy.

Và này các tỳ khưu, chánh ngữ là gì? Là tránh xa việc nói dối, tránh xa việc nói đâm thọc, tránh xa việc nói thô lỗ, tránh xa việc nói nhảm nhí. Này các tỳ khưu, đây được gọi là chánh ngữ.

Và này các tỳ khưu, chánh nghiệp là gì? Là tránh xa việc giết hại sinh mạng, tránh xa việc lấy vật không được cho, tránh xa tà hạnh ở các dục. Này các tỳ khưu, đây được gọi là chánh nghiệp.

Và này các tỳ khưu, chánh mạng là gì? Ở đây, này các tỳ khưu, vị đệ tử của các bậc Thánh dứt bỏ sự nuôi mạng sai trái và duy trì mạng sống bằng sự nuôi mạng chân chánh. Này các tỳ khưu, đây được gọi là chánh mạng.

Và này các tỳ khưu, chánh cần là gì? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu làm sanh khởi sự mong muốn, rồi gắng sức, khởi sự tinh tấn, nắm chặt và xác định tâm về việc không sanh khởi của các ác bất thiện pháp chưa được sanh khởi; vị ấy làm sanh khởi sự mong muốn, rồi gắng sức, khởi sự tinh tấn, nắm chặt và xác định tâm về việc dứt bỏ các ác bất thiện pháp đã được sanh khởi; vị ấy làm sanh khởi sự mong muốn, rồi gắng sức, khởi sự tinh tấn, nắm chặt và xác định tâm về việc sanh khởi của các thiện pháp chưa được sanh khởi; vị ấy làm sanh khởi sự mong muốn, rồi gắng sức, khởi sự tinh tấn, nắm chặt và xác định tâm về việc duy trì, về việc không hủy hoại, về việc gia tăng, về việc lớn mạnh, về việc tu tập, về việc làm cho đầy đủ các thiện pháp đã được sanh khởi. Này các tỳ khưu, đây được gọi là chánh cần.

Và này các tỳ khưu, chánh niệm là gì? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian; sống có sự quan sát thọ ở các thọ, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian; sống có sự quan sát tâm ở tâm, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian; sống có sự quan sát pháp ở các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ, có niệm, sau khi đã loại trừ tham đắm và ưu phiền ở thế gian. Này các tỳ khưu, đây được gọi là chánh niệm.

Và này các tỳ khưu, chánh định là gì? Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ngay sau khi tách ly khỏi các dục, tách ly khỏi các bất thiện pháp, đạt đến và trú thiền thứ nhất, có tầm, có tứ, có hỷ lạc sanh lên do sự tách ly. Do sự vắng lặng của tầm và tứ, vị ấy đạt đến và trú thiền thứ nhì, có sự tĩnh lặng thuộc nội phần, có trạng thái chuyên nhất của tâm, không tầm không tứ, có hỷ lạc sanh lên do định. Do sự không còn luyến ái ở hỷ, vị ấy sống có sự hành xả, trú niệm, có sự nhận biết rõ, và cảm nghiệm sự an lạc bằng thân, đó là điều các bậc Thánh gọi là: “Có sự hành xả, có niệm, có sự trú vào lạc,” đạt đến và trú thiền thứ ba. Do sự dứt bỏ lạc, do sự dứt bỏ khổ (ở thân), do sự biến mất của hỷ ưu (đã có) ngay trước đó, vị ấy đạt đến và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, có sự hoàn toàn thanh tịnh của xả và niệm. Này các tỳ khưu, đây được gọi là chánh định.

Này các tỳ khưu, đây được gọi là: chân lý cao thượng về lối thực hành đưa đến sự diệt tận Khổ.

29. Như thế, vị ấy sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc ngoại phần, hoặc sống có sự quan sát pháp ở các pháp thuộc nội phần và ngoại phần.

Hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp hoại diệt ở các pháp, hoặc sống có sự quan sát pháp sanh khởi và hoại diệt ở các pháp.

Hoặc hơn nữa, niệm “có pháp” được hình thành cho vị này chỉ để đưa đến việc đạt được trí, đưa đến việc đạt được niệm. Vị ấy sống không nương tựa và không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở các pháp về bốn chân lý cao thượng là như vậy.

*

(KẾT LUẬN)

30. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào [29] tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong bảy năm, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát [30] ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua bảy năm. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong sáu năm, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua sáu năm. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong năm năm, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua năm năm. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong bốn năm, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua bốn năm. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong ba năm, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua ba năm. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong hai năm, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua hai năm. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong một năm, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

31. Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua một năm. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong bảy tháng, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua bảy tháng. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong sáu tháng, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua sáu tháng. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong năm tháng, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua năm tháng. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong bốn tháng, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua bốn tháng. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong ba tháng, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua ba tháng. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong hai tháng, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua hai tháng. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong một tháng, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua một tháng. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong nửa tháng, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

Này các tỳ khưu, hãy bỏ qua nửa tháng. Này các tỳ khưu, bất cứ người nào tu tập bốn sự thiết lập niệm này như vậy trong bảy ngày, một quả báo nào đó trong hai quả báo là điều chờ đợi dành cho vị ấy: trí giải thoát ngay trong đời hiện tại, hoặc nếu còn dư sót thì phẩm vị Bất Lai.

32. y các tỳ khưu, đây là con đường độc đạo đưa đến sự thanh tịnh cho các chúng sinh, đưa đến sự vượt qua hẳn sầu và bi, đưa đến sự biến mất của khổ và ưu, đưa đến việc đạt được phương pháp, đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn, tức là ‘bốn sự thiết lập niệm,’ điều được nói là như thế, và điều này được nói liên quan đến điều ấy.”

Đức Thế Tôn đã nói điều này. Được hoan hỷ, các vị tỳ khưu ấy đã tán thành lời dạy của đức Thế Tôn. [31]

Đại Kinh Thiết Lập Niệm được chấm dứt

 

*-----*

CHỮ VIẾT TẮT:

DA: Chú giải Trường bộ 
ND: Người dịch 
nt: như trên 
Sđd: sách đã dẫn 
VinA: Chú giải tạng Luật

GHI CHÚ:

[1] con đường độc đạo (ekāyanamaggo): eka (một) + ayana (lối đi, con đường) + magga (con đường): con đường chỉ có một lối đi, một đích đến, không rẽ làm hai nhánh (DA. iii, 743).

[2] khổ và ưu: khổ thuộc thân và ưu thuộc tâm (Sđd. 747).

[3] phương pháp: ở đây, phương pháp (ñāyo) nói đến Thánh Đạo tám chi phần (Sđd. 750).

[4] sống (viharati): sinh hoạt (Sđd. 758), nói đến bốn oai nghi: đi đứng nằm ngồi.

[5] ở thân (kāye): Chú Giải ghi nghĩa là “rūpakāye/tập thể các sắc/tập thể các phần của thân thể” (DA. iii, 756).

[6] sau khi đã loại trừ (vineyya): Chú Giải ghi như sau: “Tattha vineyyā ti tad-aṅga-vinayena vā vikkhambhana-vinayena vā vinayitvā” (Sđd. 758).

[7] ở thế gian: Chú Giải ghi: “Loke ti tasmiṃ yeva kāye” = ở chính thân ấy (Sđd. 758).

[8] Có sự không thống nhất về ý nghĩa của cặp động từ đối xứng assasati - passasati: “thở vào - thở ra” hay “thở ra - thở vào”? Chú Giải và Sớ Giải của bài Kinh không đề cập đến vấn đề này. Chúng tôi ghi nghĩa Việt của assasati: thở vào, passasati: thở ra theo định nghĩa: “Ānanti assāso, no passāso. Apānanti passāso, no assāso” (Paṭisambhidāmaggapāḷi - Phân Tích Đạo tập 1, TTPV 37, trang 324), nghĩa là sẽ trình bày theo trình tự “thở vào - thở ra” (ND).

[9] Hoặc (): Trong bốn mệnh đề đầu, động từ được sử dụng là pajānāti (biết rõ) và được kết nối với nhau bởi liên từ “” (hay là, hoặc là), tức là trong một khoảnh khắc chỉ có một trong bốn hiện tượng này xuất hiện tùy theo duyên tác động. Từ mệnh đề thứ năm trở đi, động từ là sikkhati (thực tập, thực hành, học tập) và không được kết nối với nhau bởi liên từ “,” nghĩa là sự thực tập của vị ấy được tiến hành và trải nghiệm theo tuần tự (ND).

[10] Chú Giải của bài Kinh này không giải thích “sabbakāya,” nên được dịch sát từ là “toàn thân;” tuy nhiên ở đoạn kế tiếp nói về “ajjhattaṃ/thuộc nội phần,” Chú Giải có gián tiếp giải thích “thân” là “hơi thở vào - ra” (DA. iii, 765). Còn ở Chú Giải của Tạng Luật, ngài Buddhaghosa giải thích sabbakāya nên được hiểu là phần đầu, phần giữa, và phần cuối của toàn bộ hơi thở ra mỗi khi thở ra, hoặc toàn bộ hơi thở vào mỗi khi thở vào (VinA. ii, 411).

[11] thuộc nội phần (ajjhattaṃ): của bản thân; thuộc ngoại phần (bahiddhā): của người khác (DA. iii, 765).

[12] không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian (na ca kiñci loke upādiyati): không chấp giữ bất cứ sắc nào, …, hoặc thức nào ở thế gian (rằng): ‘Cái này là tự ngã của ta hoặc thuộc về tự ngã của ta’ (Sđd. 766). Cần lưu ý rằng: “ở thế gian (loke)” là “ở chính thân ấy” (xem ghi chú [7]).

[13] nguyên tố (dhātu): ở ngữ cảnh bốn yếu tố chính, tứ đại, tứ đại hiển (ND).

[14] trong khi cảm giác: được dịch theo văn bản của Miến Điện, Thái Lan, và Cam Bốt, “vedayamāno” (thể chủ động), còn văn bản của Sri Lanka và PTS ghi là: “vediyamāno” (thể thụ động), nghĩa Việt tương ứng sẽ là: “trong khi được cảm giác” (ND).

[15] có hệ lụy vật chất (sāmisaṃ): liên hệ đời sống tại gia; không hệ lụy vật chất (nirāmisaṃ) liên hệ cuộc sống xuất ly (DA. iii, 775).

[16] không chấp thủ vào bất cứ điều gì ở thế gian (na ca kiñci loke upādiyati): xem ghi chú [12] ở trang 441. Các phần sau cũng tương tự như vậy (ND).

[17] Bị thâu hẹp: bị rơi vào trạng thái dã dượi và buồn ngủ. Trường hợp này còn được gọi là tâm bị co rút (DA. iii, 776).

[18] Đại hành: thuộc Sắc giới và Vô sắc giới. Không đại hành: thuộc Dục giới (Sđd.). [19] Hữu thượng (sa-uttaraṃ: có cái khác ở trên): thuộc Dục giới. Vô thượng: thuộc Sắc giới và Vô sắc giới (Sđd.).

[20] về năm thủ uẩn (upādānakkhandhesu): Chú Giải giải thích như sau: “upādānakkhandhā các uẩn đưa đến thủ; nghĩa là “năm khối pháp, năm đống pháp có tính chất là duyên đưa đến chấp thủ” (DA. iii, 783).

[21] biết rõ: được đặt trong ngoặc đơn () vì ở văn bản Pāli không ghi động từ cho đoạn trích dẫn này. Và các dịch giả đã có sự chọn lựa khác nhau, như là: suy tư, thinks, discerns, contemplates, knows, … chúng tôi sử dụng nghĩa “biết rõ” dựa theo các đoạn văn tương tự ở phía trước (ND).

[22] giác chi: thay vì “yếu tố đưa đến giác ngộ” để thuận tiện cho việc hành văn (ND).

[23] Không thấy đề cập đến “byādhi pi dukkhā = bệnh cũng là khổ” (ND).

[24] Ở đây “bệnh” được đề cập, trong khi định nghĩa “chân lý cao thượng về Khổ” ở Đoan 25 không thấy có (ND).

[25] Các văn bản của Miến Điện, Thái Lan, Khmer, và PTS viết gộp chung lại như sau: “Này các tỳ khưu, mong muốn như vầy khởi lên cho các chúng sanh là đối tượng của sầu-bi-khổ-ưu-não (rằng): ‘Ôi, ước sao chúng ta sẽ không là đối tượng của sầu-bi-khổ-ưu-não! Và ước sao sầu-bi- khổ-ưu-não không thể tác động đến chúng ta!’ Tuy nhiên, điều ấy không thể đạt được do mong muốn; đây chính là mong muốn mà không đạt được cũng là khổ.”

[26] Xem ghi chú [20].

[27] Dục ái (kāmataṇhā): tham ái về dục, sự ham thích về năm loại dục. Hữu ái (bhavataṇhā): tham ái về hữu của người có sự khao khát về thiền và có sự luyến ái về cõi sắc và cõi vô sắc đồng hành với thường kiến được sanh lên do tác động của nguyện vọng về hữu. Và Phi Hữu ái (vibhavataṇhā): tham ái về phi hữu của người có sự luyến ái đồng hành với đoạn kiến (DA. iii, 800).

[28] có bản chất đáng yêu (piyarūpaṃ): Chú Giải giải thích piyarūpaṃ piyasabhāvaṃ (Sđd.).

[29] bất cứ người nào (yo hi koci): bất cứ vị tỳ khưu, hoặc vị tỳ khưu ni, hoặc nam cư sĩ, hoặc nữ cư sĩ nào (DA. iii, 805).

[30] trí giải thoát (aññā): phẩm vị A-la-hán (Sđd.).

[31] Chú Giải ghi rằng: “Thêm nữa, vào lúc chấm dứt bài Kinh, ba mươi ngàn vị tỳ khưu đã chứng đạt phẩm vị A-la-hán” (DA. iii, 806).

* Ghi thêm (Bình Anson)So sánh với kinh Lập Niệm (Satipaṭṭhāna Sutta, MN 10), bài kinh này dài hơn vì có thêm phần chi tiết về Tứ thánh đế và Bát chi Thánh đạo (Đoạn 25 - 28).

*-----*