Friday, 15 March 2019

Nhạc Việt: Tiếng hát HỒNG NGỌC, Vết thương cuối cùng (2009)

Tôi mới nghe cô hát lần đầu. Giọng hát trầm khàn, mạnh mẽ, rất đặc biệt.

* Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

nviet66.zip (135 MB) – Tiếng hát Hồng Ngọc, Vết thương cuối cùng (2009)
https://mega.nz/#!z9wxwYhb!Q1F_Xn2pRaHYrAoeAREfCcpmfjaBlQtUQD5b6XqjKk0

Hồng Ngọc - Vết Thương Cuối Cùng (2009)

01 Vết Thương Cuối Cùng (Nguyễn Văn Đế)
02 Dĩ Vãng (Trịnh Nam Sơn)
03 Cỏ Úa (Lam Phương)
04 Khúc Thụy Du (Anh Bằng)
05 Kiếp Đam Mê (Duy Quang)
06 Định Mệnh (Song Ngọc)
07 Mắt Lệ Cho Người (Từ Công Phụng)
08 Xóm Đêm (Phạm Đình Chương)
09 Lặng Lẽ Nơi Này (Trịnh Công Sơn)
10 Phút Cuối (Lam Phương)
11 Mưa Hồng (Trịnh Công Sơn)
12 Bảy Ngày Đợi Mong (Trần Thiện Thanh)
 
---------------------

Tuesday, 19 February 2019

Chỉ cần biết dừng lại và ngắm nhìn

Bạn bè khen tặng tấm hình chùm hoa phượng tím trước nhà làm mình cũng thấy vui vui. Bắt đầu chỉ là sự tình cờ. Sáng Thứ Bảy như thường lệ, một số bạn đạo đến nhà cùng chung đặt bát cúng dường chư Tăng đi khất thực trong vùng. Sau khi mọi người từ giả ra về, tôi dọn dẹp và tưới cây. Trời nắng tốt, tôi thong thả bước vòng quanh nhà, lặng lẽ ngắm nhìn. Đường phố vắng tanh, yên lặng, không xe cộ ồn ào.

Nhìn lên cây phượng tím trước nhà, toàn là lá xanh biếc, ngoại trừ một chùm hoa nhỏ nở cuối mùa. Nếu không ngước nhìn chăm chú, có lẽ không ai để ý. Tôi thấy lạ và vui, vào nhà lấy máy ảnh ra chụp vài tấm hình. Chỉ là một máy ảnh tầm thường, loại bỏ túi với ống kính zoom. Không ngờ hình chụp xem ra cũng khá bắt mắt.

Cũng như nhiều chuyện khác trên đời, người ta thường bỏ công tốn sức tìm kiếm, mong cầu, ao ước những điều hay đẹp, lạ lùng, hấp dẫn ở nơi xa xôi nào đó, mà lại không chịu để ý đến những điều nhỏ nhặt, tầm thường chung quanh mình, tại nơi đây, ngay lúc này. Lăng xăng bận rộn chạy nhảy như khỉ chuyền cành, không bao giờ biết dừng lại, buông xả để ghi nhận, ngắm nhìn. Không dừng lại thì sẽ không bao giờ thấy.

*
  

Friday, 8 February 2019

Kinh giảng về Niệm Hơi Thở Vào Hơi Thở Ra

Lời Dẫn Nhập: 

Đây là bản dịch mới của bài Kinh Ānāpānasatisuttam thuộc Tạng Kinh, Trung Bộ, tập III, bài 118. Căn cứ theo văn tự, bản dịch này trình bày một số điểm xét ra có phần khác biệt so với các bản dịch trước đây. Những điểm này chủ yếu được trình bày ở phần cước chú. Hy vọng sẽ đóng góp được phần nào lợi ích về tri kiến cho người đọc cũng như sự tu tập của các hành giả. Văn bản song ngữ Pali - Việt được ghi lại ở dạng Pdf và có thể hạ tải ở đường dẫn sau: http://www.tamtangpaliviet.net/VHoc/15/15_118.pdf

Colombo, ngày 19 tháng 09 năm 2010 
Tỳ khưu Indacanda. 

*****

KINH GIẢNG VỀ NIỆM HƠI THỞ VÀO HƠI THỞ RA 
Ānāpānasatisuttam, MN 118
Tỳ khưu Indacanda dịch

(Phần Giới Thiệu)[1]

Tôi đã được nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngụ tại Sāvatthi, ở khu vườn phía Đông, nơi lâu đài của Migāramātu, cùng với nhiều vị Thinh Văn trưởng lão rất được biết tiếng như là đại đức Sāriputta, đại đức Mahāmoggallāna, đại đức Mahākassapa, đại đức Mahākaccāyana, đại đức Mahākotthita, đại đức Mahākappina, đại đức Mahācunda, đại đức Anuruddha, đại đức Revata, đại đức Ānanda, cùng với nhiều vị Thinh Văn trưởng lão rất được biết tiếng khác nữa.

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy các vị tân tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy mười tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy hai mươi tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy ba mươi tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy bốn mươi tỳ khưu. Và trong khi được giáo huấn, được chỉ dạy bởi các vị tỳ khưu trưởng lão, các vị tân tỳ khưu ấy nhận biết pháp đặc biệt cao quý khác so với trước đây.

Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày Uposatha, là ngày rằm, ngày lễ Pavāranā, vào đêm trăng tròn đầy, đức Thế Tôn ngồi ở ngoài trời, được hội chúng tỳ khưu vây quanh. Khi ấy, đức Thế Tôn, sau khi quan sát hội chúng tỳ khưu đang im lặng, đã bảo các tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu, Ta được hài lòng với lối thực hành này. Này các tỳ khưu, Ta có tâm hài lòng đối với lối thực hành này. Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, các ngươi hãy ra sức tinh tấn hơn nữa nhằm đạt được pháp chưa đạt được, nhằm chứng đắc pháp chưa được chứng đắc, nhằm chứng ngộ pháp chưa được chứng ngộ. Ta sẽ chờ đợi ở chính nơi đây, tại Sāvatthi, cho đến ngày rằm Komudī, thuộc tháng thứ tư (của mùa mưa).”

Các tỳ khưu trong xứ sở đã nghe rằng: “Nghe nói đức Thế Tôn sẽ chờ đợi ở chính nơi đó, tại Sāvatthi, cho đến ngày rằm Komudī, thuộc tháng thứ tư (của mùa mưa).” Và các tỳ khưu trong xứ sở ấy quy tụ về Sāvatthi để chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Và các vị tỳ khưu trưởng lão còn giáo huấn, chỉ dạy các tân tỳ khưu nhiều hơn nữa. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy mười tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy hai mươi tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy ba mươi tỳ khưu. Một số tỳ khưu trưởng lão giáo huấn, chỉ dạy bốn mươi tỳ khưu. Và trong khi được giáo huấn, được chỉ dạy bởi các vị tỳ khưu trưởng lão, các vị tân tỳ khưu ấy nhận biết pháp đặc biệt cao quý khác so với trước đây.

Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày Uposatha, là ngày rằm, ngày lễ Komudī, thuộc tháng thứ tư (của mùa mưa), vào đêm trăng tròn đầy, đức Thế Tôn ngồi ở ngoài trời, được hội chúng tỳ khưu vây quanh. Khi ấy, đức Thế Tôn, sau khi quan sát hội chúng tỳ khưu đang hoàn toàn im lặng, đã bảo các tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu, tập thể này không có việc nói chuyện nhảm. Này các tỳ khưu, tập thể này không còn việc nói chuyện nhảm, được thanh tịnh, đã vững vàng ở cốt lõi. Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là như thế. Này các tỳ khưu, tập thể này là như thế. Tập thể như thế này đáng được tiến cúng, đáng được hiến dâng, đáng được cúng dường, đáng được lễ bái, là nơi để gieo trồng phước báu của thế gian không gì hơn được. Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là như thế. Này các tỳ khưu, tập thể này là như thế. Ở tập thể như thế này, vật được bố thí ít trở thành nhiều, được bố thí nhiều thì trở thành nhiều hơn nữa. Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là như thế. Này các tỳ khưu, tập thể này là như thế. Tập thể như thế này là khó gặp ở thế gian. Này các tỳ khưu, hội chúng tỳ khưu này là như thế. Này các tỳ khưu, tập thể này là như thế. Tập thể như thế này là xứng đáng đi nhiều do-tuần để yết kiến dầu với vật thực đi đường ở vai.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu là bậc A-la-hán, có các lậu hoặc đã cạn kiệt, đã được hoàn mãn, có các việc cần làm đã làm, có các gánh nặng đã được đặt xuống, có mục đích của bản thân đã được đạt đến, có các sự trói buộc ở hữu đã được tiêu diệt, có trí hiểu biết chân chánh, đã được giải thoát. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu có sự diệt tận năm hạ phần kiết sử, là hạng hóa sanh, có sự viên tịch Niết Bàn tại nơi ấy, từ thế giới ấy không có việc quay trở lui. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu có sự diệt tận ba loại kiết sử, có sự giảm thiểu của luyến ái-sân hận-si mê, là bậc Nhất Lai, sẽ đi đến thế gian này chỉ một lần rồi sẽ chấm dứt khổ đau. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu có sự diệt tận ba loại kiết sử, là bậc Nhập Lưu, có pháp không bị thối đọa, có sự tiến đến giác ngộ đã được chắc chắn. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về bốn sự thiết lập niệm. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về bốn chánh tinh tấn. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về bốn nền tảng của thần thông. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về năm quyền. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về năm lực. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về bảy chi phần đưa đến giác ngộ. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về Thánh Đạo tám chi phần. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về từ. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về bi. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về hỷ. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về xả. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về tử thi. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này. Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về tưởng vô thường. Này các tỳ khưu, những tỳ khưu như thế có mặt ở hội chúng tỳ khưu này.

Này các tỳ khưu, ở hội chúng tỳ khưu này, có mặt những tỳ khưu sống gắn bó với việc rèn luyện và tu tập về niệm hơi thở vào hơi thở ra.[2] Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở ra được tu tập, được thực hành thường xuyên là có quả báu lớn, có lợi ích lớn. Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở ra được tu tập, được thực hành thường xuyên khiến cho bốn sự thiết lập niệm[3] được hoàn bị. Bốn sự thiết lập niệm được tu tập, được thực hành thường xuyên khiến cho bảy chi phần đưa đến giác ngộ[4] được hoàn bị. Bảy chi phần đưa đến giác ngộ được tu tập, được thực hành thường xuyên khiến cho minh và giải thoát được hoàn bị.

(Tu tập niệm hơi thở vào hơi thở ra)

Và này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở ra được tu tập như thế nào, được thực hành thường xuyên như thế nào là có quả báu lớn, có lợi ích lớn? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu đi đến khu rừng, hoặc đi đến gốc cây, hoặc đi đến nơi thanh vắng, ngồi xuống, xếp chân thế kiết già, giữ thân thẳng và thiết lập niệm luôn hiện diện. Có niệm vị ấy thở ra, có niệm vị ấy thở vào.

Hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy nhận biết:[5] ‘Tôi thở ra dài.’[6]
Hoặc trong khi thở vào dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào dài.’
Hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở ra ngắn.’
Hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào ngắn.’

Vị ấy tập luyện:[7] ‘Có cảm giác toàn thân,[8] tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vào;’[9]

vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở vào.’[10]

Vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm được thoát ra, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm được thoát ra, tôi sẽ thở vào.’

Vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát[11] về vô thường, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về vô thường, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về ly ái dục, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về ly ái dục, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về tịch diệt, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về tịch diệt, tôi sẽ thở vào;’

vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở ra;’
vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở vào.’

Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở ra được tu tập như vầy, được thực hành thường xuyên như vầy là có quả báu lớn, có lợi ích lớn.

(Bốn sự thiết lập niệm được hoàn bị)

Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở ra được tu tập như thế nào, được thực hành thường xuyên như thế nào khiến cho bốn sự thiết lập niệm được hoàn bị? Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO[12] vị tỳ khưu trong khi thở ra dài nhận biết: ‘Tôi thở ra dài;’ hoặc trong khi thở vào dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào dài;’ hoặc trong khi thở ra ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở ra ngắn;’ hoặc trong khi thở vào ngắn, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào ngắn;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của thân, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian.[13] Này các tỳ khưu, ta nói như vậy về một thân khác nữa trong số các thân, tức là sự thở ra sự thở vào. Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác hỷ, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác lạc, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm an tịnh sự tạo tác của tâm, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu sống có sự quan sát thọ ở trên các thọ, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian. Này các tỳ khưu, ta nói như vậy về một thọ khác nữa trong số các thọ, tức là sự chú tâm tốt đẹp đối với sự thở ra sự thở vào. Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sống có sự quan sát thọ ở trên các thọ, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu tập luyện: ‘Có cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có cảm giác tâm, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm hân hoan, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm được thoát ra, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Trong khi làm cho tâm được thoát ra, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu sống có sự quan sát tâm ở trên tâm, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian. Này các tỳ khưu, đối với kẻ có niệm bị quên lãng, không có sự nhận biết rõ rệt, ta không nói về sự tu tập niệm hơi thở vào hơi thở ra.[14] Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sống có sự quan sát tâm ở trên tâm, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu tập luyện: ‘Có sự quan sát về vô thường, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về vô thường, tôi sẽ thở vào;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về lìa ái dục, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về lìa ái dục, tôi sẽ thở vào,’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về diệt tận, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về diệt tận, tôi sẽ thở vào,’ vị ấy tập. ‘Có sự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở ra;’ vị ấy tập luyện: ‘Có sự quan sát về từ bỏ, tôi sẽ thở vào;’ này các tỳ khưu, VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian. Vị ấy sau khi nhìn thấy sự dứt bỏ tham và ưu phiền bằng tuệ là người có trạng thái xả tốt đẹp.[15] Này các tỳ khưu, vì thế, ở đây, VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu sống có sự quan sát pháp ở trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian. Này các tỳ khưu, niệm hơi thở vào hơi thở ra được tu tập như thế, được thực hành thường xuyên như thế khiến cho bốn sự thiết lập niệm được hoàn bị.

(Bảy chi phần đưa đến giác ngộ được hoàn bị)

Này các tỳ khưu, bốn sự thiết lập niệm được tu tập như thế nào, được thực hành thường xuyên như thế nào khiến cho bảy chi phần đưa đến giác ngộ được hoàn bị? Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian, VÀO LÚC ẤY niệm của vị ấy được thiết lập, không bị quên lãng. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO niệm của vị tỳ khưu được thiết lập, không bị quên lãng, VÀO LÚC ẤY niệm giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu tu tập niệm giác chi. VÀO LÚC ẤY, niệm giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Trong khi an trú với niệm như thế, vị ấy suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu, trong khi an trú với niệm như thế, suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, VÀO LÚC ẤY trạch pháp giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập trạch pháp giác chi. VÀO LÚC ẤY, trạch pháp giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị ấy, trong khi suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, thì sự tinh tấn được khởi sự, không bị trì trệ. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu, trong khi suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, mà sự tinh tấn được khởi sự, không bị trì trệ, VÀO LÚC ẤY tinh tấn giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập tinh tấn giác chi. VÀO LÚC ẤY, tinh tấn giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có sự tinh tấn đã được khởi sự, hỷ không liên hệ vật chất khởi lên. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO hỷ không liên hệ vật chất khởi lên đối với vị tỳ khưu có sự tinh tấn đã được khởi sự, VÀO LÚC ẤY hỷ giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập hỷ giác chi. VÀO LÚC ẤY, hỷ giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có tâm hỷ, thì thân cũng an tịnh, tâm cũng an tịnh. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu có tâm hỷ, thân cũng an tịnh, tâm cũng an tịnh, VÀO LÚC ẤY, tịnh giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập tịnh giác chi. VÀO LÚC ẤY, tịnh giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có thân được an tịnh, có sự an lạc, thì tâm được định. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu có thân được an tịnh, có sự an lạc, tâm được định, VÀO LÚC ẤY, định giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập định giác chi. VÀO LÚC ẤY, định giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Vị ấy, đối với tâm đã được định tĩnh như thế, là người có trạng thái xả tốt đẹp.[16] Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu là người có trạng thái xả tốt đẹp đối với tâm đã được định tĩnh như thế, VÀO LÚC ẤY, xả giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập xả giác chi. VÀO LÚC ẤY, xả giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu sống có sự quan sát thọ ở trên các thọ –(như trên)– tâm ở trên tâm –(như trên)– pháp ở trên các pháp, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian, VÀO LÚC ẤY niệm của vị này là đã được thiết lập, không bị quên lãng. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO niệm của vị tỳ khưu là đã được thiết lập, không bị quên lãng, VÀO LÚC ẤY niệm giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY vị tỳ khưu tu tập niệm giác chi. VÀO LÚC ẤY, niệm giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Trong khi an trú với niệm như thế, vị ấy suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu, trong khi an trú với niệm như thế, suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, VÀO LÚC ẤY trạch pháp giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập trạch pháp giác chi. VÀO LÚC ẤY, trạch pháp giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị ấy, trong khi suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, thì sự tinh tấn được khởi sự, không bị trì trệ. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu, trong khi suy xét, khảo sát, đạt đến sự nghiên cứu toàn diện về pháp ấy bằng tuệ, mà sự tinh tấn được khởi sự, không bị trì trệ, VÀO LÚC ẤY tinh tấn giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập tinh tấn giác chi. VÀO LÚC ẤY, tinh tấn giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có sự tinh tấn đã được khởi sự, hỷ không liên hệ vật chất khởi lên. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO hỷ không liên hệ vật chất khởi lên đối với vị tỳ khưu có sự tinh tấn đã được khởi sự, VÀO LÚC ẤY hỷ giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập hỷ giác chi. VÀO LÚC ẤY, hỷ giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có tâm hỷ, thì thân cũng an tịnh, tâm cũng an tịnh. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu có tâm hỷ, thân cũng an tịnh, tâm cũng an tịnh, VÀO LÚC ẤY, tịnh giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập tịnh giác chi. VÀO LÚC ẤY, tịnh giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Đối với vị có thân được an tịnh, có sự an lạc, thì tâm được định. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO đối với vị tỳ khưu có thân được an tịnh, có sự an lạc, tâm được định, VÀO LÚC ẤY, định giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập định giác chi. VÀO LÚC ẤY, định giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Vị ấy, đối với tâm đã được định tĩnh như thế, là người có trạng thái xả tốt đẹp. Này các tỳ khưu, VÀO LÚC NÀO vị tỳ khưu là người có trạng thái xả tốt đẹp đối với tâm đã được định tĩnh như thế, VÀO LÚC ẤY, xả giác chi được khởi sự đối với vị tỳ khưu. VÀO LÚC ẤY, vị tỳ khưu tu tập xả giác chi. VÀO LÚC ẤY, xả giác chi của vị tỳ khưu đi đến sự hoàn bị của việc tu tập.

Này các tỳ khưu, bốn sự thiết lập niệm được tu tập như thế, được thực hành thường xuyên như thế khiến cho bảy chi phần đưa đến giác ngộ được hoàn bị.

(Minh và giải thoát được hoàn bị)

Này các tỳ khưu, bảy chi phần đưa đến giác ngộ được tu tập như thế nào, được thực hành thường xuyên như thế nào khiến cho minh và giải thoát được hoàn bị? Này các tỳ khưu, ở đây vị tỳ khưu tu tập niệm giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ;[17] tu tập trạch pháp giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu tập tinh tấn giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu tập hỷ giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu tập tịnh giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu tập định giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ; tu tập xả giác chi nương tựa ở sự tách ly, nương tựa ở sự lìa ái dục, nương tựa ở sự tịch diệt, có đích đến là sự buông bỏ.

Bảy chi phần đưa đến giác ngộ được tu tập như thế, được thực hành thường xuyên như thế khiến cho minh và giải thoát được hoàn bị.

Đức Thế Tôn đã nói điều này. Được hoan hỷ, các vị tỳ khưu ấy thỏa thích lời dạy của đức Thế Tôn.

–ooOoo–

Chú thích:

[1] Phần trong ngoặc đơn () không có ở Chánh Kinh, được thêm vào để tiện việc theo dõi (ND).

[2] ānāpānasati = āna+apāna+sati, āna là hơi thở vào, apāna là hơi thở ra, sati là niệm, sự ghi nhớ.

[3] Từ thông dụng là ‘tứ niệm xứ.’

[4] Từ thông dụng là ‘bảy giác chi.’

[5] Chú ý đến từ “hoặc” (từ Pali là ‘vā’) ở đầu câu và động từ “nhận biết” (pajānāti) trong nhóm 4 câu này. Có thể hiểu là ở pháp thiền này, hành giả không điều khiển hơi thở theo ý mình mà để hơi thở tự nhiên rồi chú tâm nhận biết sự diễn biến của hơi thở khi dài khi ngắn khác nhau.

[6] assasanto và assasāmi là các biến thể của động từ assasati. Đa số các từ điển và các bản dịch tiếng Anh đều ghi nghĩa cho động từ này là “thở vào,” nên ở từng đôi như vậy trình bày “thở vào” trước rồi “thở ra” sau. Còn ở bản dịch này, chúng tôi ghi nhận nghĩa của động từ assasati là “thở ra” nên trình bày “thở ra” trước rồi “thở vào” sau. Sự chọn lựa này được căn cứ vào 2 chứng cớ:

- Ở Chú Giải Tạng Luật, ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Assāso ti bahi nikkhamanavāto. Passāso ti anto pavisanavāto = Hơi thở ra là gió đi ra bên ngoài. Hơi thở vào là gió đi vào bên trong” (Vinaya-atthakathā tập 2, trang 408, theo bản in của Pali Text Society - PTS).

- Tự Điển Pali - English Dictionary của PTS cũng ghi assasati là thở ra (trang 90), passasati là thở vào (trang 447).

Nếu là như vậy, phải chăng phương pháp Ānāpānassati hay “Niệm hơi thở” nên được trình bày và tu tập theo thứ tự hơi thở ra trước rồi mới đến hơi thở vào? Việc thử nghiệm xin dành cho các hành giả, ở đây chúng tôi chỉ trình bày theo sự nghiên cứu về văn tự.

[7] Trong bốn mệnh đề đầu, động từ được sử dụng là pajānāti (nhận biết) và có liên từ “vā” (hay là, hoặc là) xen vào giữa. Từ mệnh đề thứ năm trở đi, động từ là sikkhati (thực tập, thực hành, học tập). Theo thiển ý của cá nhân thì đến giai đoạn này, hành giả đã có sự tiến triển trong sự tu tập hơi thở và các chi thiền bắt đầu sanh khởi.

[8] Ngài Buddhaghosa giải thích là sabbakāya (toàn thân) nên được hiểu là phần đầu, phần giữa, và phần cuối của toàn bộ hơi thở ra mỗi khi thở ra, hoặc của toàn bộ hơi thở vào mỗi khi thở vào (Vinaya-atthakathā tập 2, trang 411, theo bản in của PTS).
Ngài Mahābhidhāna, ở tập Chú Giải Saddhammappakāsinī, ghi rằng: ‘Trong khi làm cho được biết rõ, trong khi làm cho rõ rệt phần đầu-giữa-cuối của toàn bộ hơi thở vào, tôi sẽ thở vào’ vị ấy tập (Patisambhidāmagga-atthakathā tập 2, trang 491, theo bản in của PTS).

[9] Ở nhóm 2 câu này, cụm từ sabbakāyapatisamvedī (có cảm giác toàn thân) nên được hiểu là ‘danh tính từ’ bổ nghĩa cho chủ từ là vị tỳ khưu, còn động từ chính (finite verb) vẫn là thở ra và thở vào.

[10] Tương tợ như trên, ở nhóm 2 câu này, từ passambhayam (trong khi làm an tịnh) nên được hiểu là ‘phân từ hiện tại, thể liên tiến (progressive)’ bổ nghĩa cho chủ từ là vị tỳ khưu, còn động từ chính (finite verb) vẫn là thở ra và thở vào. Cách giải thích này được áp dụng tương tợ cho các nhóm 2 câu ở bên dưới.

[11] anupassati (anu + passati): passati có nghĩa là ‘nhìn, xem, coi,’ còn anu là ‘dõi theo, lần theo’ nên từ anupassati được ghi nghĩa là ‘quan sát’ thay vì ‘quán’ hay ‘tùy quán,’ để dễ hiểu.

[12] Các mệnh đề điều kiện về thời gian “VÀO LÚC NÀO” và “VÀO LÚC ẤY” được viết dưới dạng in hoa để tiện phân biệt.

[13] Trong câu: “vị tỳ khưu sống có sự quan sát thân ở trên thân, có nhiệt tâm, có sự nhận biết rõ rệt, có niệm, thì có thể chế ngự tham và ưu phiền ở thế gian” thì hai động từ “sống” (viharati) và “có thể chế ngự” (vineyya) là động từ chính (finite verb), còn các cụm từ còn lại bổ nghĩa cho chủ từ là vị tỳ khưu.

[14] Các hành giả tu tập về hơi thở nên chú ý điều kiện này.

[15] ajjhupekkhitā (người có trạng thái xả) là trường hợp văn phạm tương tợ như các từ gantu, sotu, netu, vattu, jetu, v.v...

[16] Trong trường hợp này “tâm đã được định tĩnh” là túc từ, là đối tượng của danh động từ ajjhupekkhitā (người có trạng thái xả), nghĩa là hành giả có trạng thái xả đối với cái “tâm đã được định tĩnh.” Cấu trúc Pali ở câu này tương đối phức tạp về mặt văn phạm.

[17] bhāveti có nghĩa là “làm cho hiện hữu, tu tập, phát triển” là động từ chính (finite verb), túc từ là “niệm giác chi” và niệm giác chi này được đặt nền tảng ở sự tách ly, ở sự lìa ái dục, ở sự tịch diệt, và có đích đến là sự buông bỏ.

------------------------


Ānāpānasati Sutta (MN 118)
Mindfulness of Breathing
Translated by Bhikkhu Ñāṇamoli and Bhikkhu Bodhi

(INTRODUCTORY SECTION)
1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Sāvatthı in the Eastern Park, in the Palace of Migāra’s Mother, together with many very well known elder disciples–the venerable Sāriputta, the venerable Mahā Moggallāna, the venerable Mahā Kassapa, the venerable Mahā Kaccāna, the venerable Mahā Koṭṭhita, the venerable Mahā Kappina, the venerable Mahā Cunda, the venerable Anuruddha, the venerable Revata, the venerable finanda, and other very well known elder disciples.

2. Now on that occasion elder bhikkhus had been teaching and instructing new bhikkhus; some elder bhikkhus had been teaching and instructing ten bhikkhus, some elder bhikkhus had been teaching and instructing twenty...thirty...forty bhikkhus. And the new bhikkhus, taught and instructed by the elder bhikkhus, had achieved successive stages of high distinction.

3. On that occasion–the Uposatha day of the fifteenth, on the full-moon night of the Pavāraṇā ceremony[1]–the Blessed One was seated in the open surrounded by the Sangha of bhikkhus. Then, surveying the silent Sangha of bhikkhus, he addressed them thus:

4. “Bhikkhus, I am content with this progress. My mind is content with this progress. So arouse still more energy to attain the unattained, to achieve the unachieved, to realise the unrealised. I shall wait here at Sāvatthı for the Komudı full moon of the fourth month.”[2]

5. The bhikkhus of the countryside heard: “The Blessed One will wait there at Sāvatthı for the Komudı full moon of the fourth month.” And the bhikkhus of the countryside left in due course for Sāvatthı to see the Blessed One.

6. And elder bhikkhus still more intensively taught and instructed new bhikkhus; some elder bhikkhus taught and instructed ten bhikkhus, some elder bhikkhus taught and instructed twenty...thirty...forty bhikkhus. And the new bhikkhus, taught and instructed by the elder bhikkhus, achieved successive stages of high distinction.

7. On that occasion–the Uposatha day of the fifteenth, the full-moon night of the Komudı full moon of the fourth month– the Blessed One was seated in the open surrounded by the Sangha of bhikkhus. Then, surveying the silent Sangha of bhikkhus, he addressed them thus:

8. “Bhikkhus, this assembly is free from prattle, this assembly is free from chatter. It consists purely of heartwood. Such is this Sangha of bhikkhus, such is this assembly. Such an assembly as is worthy of gifts, worthy of hospitality, worthy of offerings, worthy of reverential salutation, an incomparable field of merit for the world–such is this Sangha of bhikkhus, such is this assembly. Such an assembly that a small gift given to it becomes great and a great gift greater–such is this Sangha of bhikkhus, such is this assembly. Such an assembly as is rare for the world to see–such is this Sangha of bhikkhus, such is this assembly. Such an assembly as would be worth journeying many leagues with a travel-bag to see–such is this Sangha of bhikkhus, such is this assembly.

9. “In this Sangha of bhikkhus there are bhikkhus who are arahants with taints destroyed, who have lived the holy life, done what had to be done, laid down the burden, reached their own goal, destroyed the fetters of being, and are completely liberated through final knowledge–such bhikkhus are there in this Sangha of bhikkhus.

10. “In this Sangha of bhikkhus there are bhikkhus who, with the destruction of the five lower fetters, are due to reappear spontaneously [in the Pure Abodes] and there attain final Nibbāna, without ever returning from that world–such bhikkhus are there in this Sangha of bhikkhus.

11. “In this Sangha of bhikkhus there are bhikkhus who, with the destruction of three fetters and with the attenuation of lust, hate, and delusion, are once-returners, returning once to this world to make an end of suffering–such bhikkhus are there in this Sangha of bhikkhus.

12. “In this Sangha of bhikkhus there are bhikkhus who, with the destruction of the three fetters, are stream-enterers, no longer subject to perdition, bound [for deliverance], headed for enlightenment–such bhikkhus are there in this Sangha of bhikkhus.

13. “In this Sangha of bhikkhus there are bhikkhus who abide devoted to the development of the four foundations of mindfulness–such bhikkhus are there in this Sangha of bhikkhus. In this Sangha of bhikkhus there are bhikkhus who abide devoted to the development of the four right kinds of striving...of the four bases for spiritual power...of the five faculties...of the five powers...of the seven enlightenment factors...of the Noble Eightfold Path– such bhikkhus are there in this Sangha of bhikkhus.

14. “In this Sangha of bhikkhus there are bhikkhus who abide devoted to the development of loving-kindness ...of compassion...of altruistic joy...of equanimity...of the meditation on foulness...of the perception of impermanence–such bhikkhus are there in this Sangha of bhikkhus. In this Sangha of bhikkhus there are bhikkhus who abide devoted to the development of mindfulness of breathing.

(MINDFULNESS OF BREATHING)
15. “Bhikkhus, when mindfulness of breathing is developed and cultivated, it is of great fruit and great benefit. When mindfulness of breathing is developed and cultivated, it fulfils the four foundations of mindfulness. When the four foundations of mindfulness are developed and cultivated, they fulfil the seven enlightenment factors. When the seven enlightenment factors are developed and cultivated, they fulfil true knowledge and deliverance.

16. “And how, bhikkhus, is mindfulness of breathing developed and cultivated, so that it is of great fruit and great benefit?

17. “Here a bhikkhu, gone to the forest or to the root of a tree or to an empty hut, sits down; having folded his legs crosswise, set his body erect, and established mindfulness in front of him, ever mindful he breathes in, mindful he breathes out.

18. “Breathing in long, he understands:[3] ‘I breathe in long’; or breathing out long, he understands: ‘I breathe out long.’ Breathing in short, he understands: ‘I breathe in short’; or breathing out short, he understands: ‘I breathe out short.’ He trains thus: ‘I shall breathe in experiencing the whole body [of breath]’; he trains thus: ‘I shall breathe out experiencing the whole body [of breath].’ He trains thus: ‘I shall breathe in tranquillising the bodily formation’; he trains thus: ‘I shall breathe out tranquillising the bodily formation.’

19. “He trains thus: ‘I shall breathe in experiencing rapture’; he trains thus: ‘I shall breathe out experiencing rapture.’[4]  He trains thus: ‘I shall breathe in experiencing pleasure’; he trains thus: ‘I shall breathe out experiencing pleasure.’ He trains thus: ‘I shall breathe in experiencing the mental formation’; he trains thus: ‘I shall breathe out experiencing the mental formation.’ He trains thus: ‘I shall breathe in tranquillising the mental formation’; he trains thus: ‘I shall breathe out tranquillising the mental formation.’[5]

20. “He trains thus: ‘I shall breathe in experiencing the mind’; he trains thus: ‘I shall breathe out experiencing the mind.’ He trains thus: ‘I shall breathe in gladdening the mind’; he trains thus: ‘I shall breathe out gladdening the mind.’ He trains thus: ‘I shall breathe in concentrating the mind’; he trains thus: ‘I shall breathe out concentrating the mind.’ He trains thus: ‘I shall breathe in liberating the mind’; he trains thus: ‘I shall breathe out liberating the mind.’[6]

21. “He trains thus: ‘I shall breathe in contemplating impermanence’; he trains thus: ‘I shall breathe out contemplating impermanence.’ He trains thus: ‘I shall breathe in contemplating fading away’; he trains thus: ‘I shall breathe out contemplating fading away.’ He trains thus: ‘I shall breathe in contemplating cessation’; he trains thus: ‘I shall breathe out contemplating cessation.’ He trains thus: ‘I shall breathe in contemplating relinquishment’; he trains thus: ‘I shall breathe out contemplating relinquishment.’[7]

22. “Bhikkhus, that is how mindfulness of breathing is developed and cultivated, so that it is of great fruit and great benefit.

(FULFILMENT OF THE FOUR FOUNDATIONS OF MINDFULNESS)
23. “And how, bhikkhus, does mindfulness of breathing, developed and cultivated, fulfil the four foundations of mindfulness?

24. “Bhikkhus, on whatever occasion a bhikkhu, breathing in long, understands: ‘I breathe in long,’ or breathing out long, understands: ‘I breathe out long’; breathing in short, understands: ‘I breathe in short,’ or breathing out short, understands:

‘I breathe out short’; trains thus: ‘I shall breathe in experiencing the whole body [of breath]’; trains thus: ‘I shall breathe out experiencing the whole body [of breath]’; trains thus: ‘I shall breathe in tranquillising the bodily formation’; trains thus: ‘I shall breathe out tranquillising the bodily formation’–on that occasion a bhikkhu abides contemplating the body as a body, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world. I say that this is a certain body among the bodies, namely, in-breathing and out-breathing.[8] That is why on that occasion a bhikkhu abides contemplating the body as a body, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world.

25. “Bhikkhus, on whatever occasion a bhikkhu trains thus: ‘I shall breathe in experiencing rapture’; trains thus: ‘I shall breathe out experiencing rapture’; trains thus: ‘I shall breathe in experiencing pleasure’; trains thus: ‘I shall breathe out experiencing pleasure’; trains thus: ‘I shall breathe in experiencing the mental formation’; trains thus: ‘I shall breathe out experiencing the mental formation’; trains thus: ‘I shall breathe in tranquillising the mental formation’; trains thus: ‘I shall breathe out tranquillising the mental formation’–on that occasion a bhikkhu abides contemplating feelings as feelings, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world. I say that this is a certain feeling among the feelings, namely, giving close attention to in-breathing and out-breathing.[9] That is why on that occasion a bhikkhu abides contemplating feelings as feelings, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world.

26. “Bhikkhus, on whatever occasion a bhikkhu trains thus: ‘I shall breathe in experiencing the mind’; trains thus: ‘I shall breathe out experiencing the mind’; trains thus: ‘I shall breathe in gladdening the mind’; trains thus: ‘I shall breathe out gladdening the mind’; trains thus: ‘I shall breathe in concentrating the mind’; trains thus: ‘I shall breathe out concentrating the mind’; trains thus: ‘I shall breathe in liberating the mind’; trains thus: ‘I shall breathe out liberating the mind’–on that occasion a bhikkhu abides contemplating mind as mind, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world. I do not say that there is the development of mindfulness of breathing for one who is forgetful, who is not fully aware. That is why on that occasion a bhikkhu abides contemplating mind as mind, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world.[10]

27. “Bhikkhus, on whatever occasion a bhikkhu trains thus: ‘I shall breathe in contemplating impermanence’; trains thus: ‘I shall breathe out contemplating impermanence’; trains thus: ‘I shall breathe in contemplating fading away’; trains thus: ‘I shall breathe out contemplating fading away’; trains thus: ‘I shall breathe in contemplating cessation’; trains thus: ‘I shall breathe out contemplating cessation’; trains thus: ‘I shall breathe in contemplating relinquishment’; trains thus: ‘I shall breathe out contemplating relinquishment’–on that occasion a bhikkhu abides contemplating mind-objects as mind-objects, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world. Having seen with wisdom the abandoning of covetousness and grief, he closely looks on with equanimity.[11]

That is why on that occasion a bhikkhu abides contemplating mind-objects as mind-objects, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world.

28. “Bhikkhus, that is how mindfulness of breathing, developed and cultivated, fulfils the four foundations of mindfulness.

(FULFILMENT OF THE SEVEN ENLIGHTENMENT FACTORS)
29. “And how, bhikkhus, do the four foundations of mindfulness, developed and cultivated, fulfil the seven enlightenment factors?

30. “Bhikkhus, on whatever occasion a bhikkhu abides contemplating the body as a body, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world–on that occasion unremitting mindfulness is established in him. On whatever occasion unremitting mindfulness is established in a bhikkhu–on that occasion the mindfulness enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development, it comes to fulfilment in him.

31. “Abiding thus mindful, he investigates and examines that state with wisdom and embarks upon a full inquiry into it. On whatever occasion, abiding thus mindful, a bhikkhu investigates and examines that state with wisdom and embarks upon a full inquiry into it–on that occasion the investigation-of-states enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development it comes to fulfilment in him.

32. “In one who investigates and examines that state with wisdom and embarks upon a full inquiry into it, tireless energy is aroused. On whatever occasion tireless energy is aroused in a bhikkhu who investigates and examines that state with wisdom and embarks upon a full inquiry into it–on that occasion the energy enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development it comes to fulfilment in him.

33. “In one who has aroused energy, unworldly rapture arises. On whatever occasion unworldly rapture arises in a bhikkhu who has aroused energy–on that occasion the rapture enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development it comes to fulfilment in him.

34. “In one who is rapturous, the body and the mind become tranquil. On whatever occasion the body and the mind become tranquil in a bhikkhu who is rapturous–on that occasion the tranquillity enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development it comes to fulfilment in him.

35. “In one whose body is tranquil and who feels pleasure, the mind becomes concentrated. On whatever occasion the mind becomes concentrated in a bhikkhu whose body is tranquil and who feels pleasure–on that occasion the concentration enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development it comes to fulfilment in him.

36. “He closely looks on with equanimity at the mind thus concentrated. On whatever occasion a bhikkhu closely looks on with equanimity at the mind thus concentrated–on that occasion the equanimity enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development it comes to fulfilment in him.

37. “Bhikkhus, on whatever occasion a bhikkhu abides contemplating feelings as feelings, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world...(repeat as at §§30–36)...the equanimity enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development it comes to fulfilment in him.

38. “Bhikkhus, on whatever occasion a bhikkhu abides contemplating mind as mind, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world...(repeat as at §§30–36)...the equanimity enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development it comes to fulfilment in him.

39. “Bhikkhus, on whatever occasion a bhikkhu abides contemplating mind-objects as mind-objects, ardent, fully aware, and mindful, having put away covetousness and grief for the world...(repeat as at §§30–36)...the equanimity enlightenment factor is aroused in him, and he develops it, and by development it comes to fulfilment in him.

40. “Bhikkhus, that is how the four foundations of mindfulness, developed and cultivated, fulfil the seven enlightenment factors.[12]

(FULFILMENT OF TRUE KNOWLEDGE AND DELIVERANCE)
41. “And how, bhikkhus, do the seven enlightenment factors, developed and cultivated, fulfil true knowledge and deliverance?

42. “Here, bhikkhus, a bhikkhu develops the mindfulness enlightenment factor, which is supported by seclusion, dispassion, and cessation, and ripens in relinquishment.[13] He develops the investigation-of-states enlightenment factor...the energy enlightenment factor...the rapture enlightenment factor...the tranquillity enlightenment factor...the concentration enlightenment factor...the equanimity enlightenment factor, which is supported by seclusion, dispassion, and cessation, and ripens in relinquishment.

43. “Bhikkhus, that is how the seven enlightenment factors, developed and cultivated, fulfil true knowledge and deliverance.”[14]

That is what the Blessed One said. The bhikkhus were satisfied and delighted in the Blessed One’s words.

*

NOTES:
[1] The Pavāraṇā is the ceremony that concludes the rains residence, at which each bhikkhu invites all the others to admonish him for his transgressions.

[2] Komudı is the full-moon day of the month of Kattika, the fourth month of the rainy season; it is called by this name because the white water-lily (kumuda) is said to bloom at that time.

[3] Explanatory notes for the first tetrad will be found at nn.15-17. MN 10.4 differs from this passage only by the addition of the simile. Since ficariya Buddhaghosa has commented on the four tetrads on mindfulness of breathing in the Visuddhimagga, in MA he merely refers the reader to the latter work for explanation. Notes 3-6 are drawn from Vsm VIII, 226–37, also included by Bhikkhu Ñāṇamoli, in his Mindfulness of Breathing.

[4] One experiences rapture in two ways: by attaining one of the lower two jhānas in which rapture is present, one experiences rapture in the mode of serenity; by emerging from that jhāna and contemplating that rapture as subject to destruction, one experiences rapture in the mode of insight.

[5] The same method of explanation as in n.3 applies to the second and third clauses, except that the second comprises the three lower jhānas and the third all four jhānas. The mental formation is perception and feeling (see MN 44.14), which is tranquillised by the development of successively higher levels of serenity and insight.

[6] “Experiencing the mind” is to be understood by way of the four jhānas. “Gladdening the mind” is explained either as the attainment of the two jhānas containing rapture or as the penetration of those jhānas with insight as subject to destruction, etc. “Concentrating the mind” refers either to the concentration pertaining to the jhāna or to the momentary concentration that arises along with insight. “Liberating the mind” means liberating it from hindrances and grosser jhānic factors by successively higher levels of concentration, and from the cognitive distortions by way of insight knowledge.

[7] This tetrad deals entirely with insight, unlike the previous three, which deal with both serenity and insight. “Contemplating fading away” and “contemplating cessation” can be understood both as the insight into the impermanence of formations and as the supramundane path realising Nibbāna, called the fading away of lust (i.e., dispassion, virāga) and the cessation of suffering. “Contemplating relinquishment” is the giving up of defilements through insight and the entering into Nibbāna by attainment of the path.

[8] MA: In-and-out breathing is to be counted as the air element among the four elements making up the body. It should also be included in the base of tangibles among bodily phenomena (since the object of attention is the touch sensation of the breath entering and leaving the nostrils).

[9] MA explains that close attention (sādhuka manasikāra) is not itself actually feeling, but is spoken of as such only figuratively. In the second tetrad the actual feeling is the pleasure mentioned in the second clause and also the feeling comprised by the expression “mental formation” in the third and fourth clauses.

[10] MA: Although the meditating bhikkhu takes as his object the sign of in-and-out breathing, he is said to be “contemplating mind as mind” because he maintains his mind on the object by arousing mindfulness and full awareness, two factors of mind.

[11] MA: Covetousness and grief signify the first two hindrances, sensual desire and ill will, and thus represent the contemplation of mind-objects, which begins with the five hindrances. The bhikkhu sees the abandoning of the hindrances effected by the contemplations of impermanence, fading away, cessation, and relinquishment, and thus comes to look upon the object with equanimity.

[12] MA says that the above passage shows the enlightenment factors existing together in each mind-moment in the practice of insight meditation.

[13] See n.18.

[14] MA: The mindfulness that comprehends breathing is mundane; the mundane mindfulness of breathing perfects

ADDITIONAL NOTES:
[15] The practice of mindfulness of breathing (ānāpānasati) involves no deliberate attempt to regulate the breath, as in hatha yoga, but a sustained effort to fix awareness on the breath as it moves in and out in its natural rhythm. Mindfulness is set up at the nostrils or the upper lip, wherever the impact of the breath is felt most distinctly; the length of the breath is noted but not consciously controlled. The complete development of this meditation method is expounded in MN 118. For a collection of texts on this subject, see Bhikkhu Ñāṇamoli, Mindfulness of Breathing. See too Vsm VIII, 145–244.

[16] MA explains “experiencing the whole body” (sabbakāya paṭisaṁvedī) as signifying that the meditator becomes aware of each in-breath and out-breath through its three phases of beginning, middle, and end. In the first edition I followed this explanation and added in brackets “of breath” after “the whole body.” In retrospect, however, this interpretation seems forced, and I now prefer to take the phrase quite literally. It is also difficult to see how paṭisaṁvedī could mean “is aware of,” as it is based on a verb meaning “to experience.”

[17] The “bodily formation” (kāyasankhāra) is defined at MN 44.13 as in-and-out breathing itself. Thus, as MA explains, with the successful development of the practice, the meditator’s breathing becomes increasingly quiet, tranquil, and peaceful.

[18] These are the seven enlightenment factors (satta bojjhangā) included among the thirty-seven requisites of enlightenment, and treated more extensively below at MN 10.42 and MN 118.29–40. The present section explains the seven enlightenment factors specifically as aids for developing the three higher supramundane paths, by which the taints that escaped eradication by the first path will be eradicated. The terms “seclusion” (viveka), “dispassion” (virāga), and “cessation” (nirodha) may all be understood as referring to Nibbāna. Their use in this context signifies that the development of the enlightenment factors is directed to Nibbāna as its goal during the preparatory stages of the path, and as its object with the attainment of the supramundane paths. MA explains that the word vossagga, rendered as “relinquishment,” has the two meanings of “giving up” (pariccāga), i.e., the abandonment of defilements, and “entering into” (pakkhandana), i.e., culminating in Nibbāna.

*

Thursday, 7 February 2019

Trưởng lão Anuruddha và pháp Lập niệm (Satipaṭṭhāna)


Trưởng lão Anuruddha và pháp Lập niệm (Satipaṭṭhāna)
Trích: Đại đệ tử Phật, Hellmut Hecker, Ban biên tập Thích Ca Thiền Viện soạn dịch (2016)

Một khía cạnh quan trọng trên đường tu tập tâm linh của Trưởng lão Anuruddha (A-na-luật) là quá trình thực hành miên mật pháp thiền Lập niệm (Satipaṭṭhāna), tức quán niệm trên bốn lĩnh vực thân, thọ, tâm, và pháp, với lời hướng dẫn của Đức Bổn Sư: “Nơi đây, vị tỳ-khưu sống quán thân trên thân… quán thọ trên thọ… quán tâm trên tâm… quán các pháp trên các pháp, tinh cần, tỉnh giác, niệm, chế ngự tham ưu ở đời.”

Thực hành thiền quán Satipaṭṭhāna đôi khi được xem là một con đường tiến đến giác ngộ ngắn, nhanh, nhưng lại “khô khan” vì không qua các tầng thiền-na (jhāna) và các năng lực thần thông. Nhưng rõ ràng đối với Trưởng lão Anuruddha, và các đệ tử của ngài, pháp thiền Satipaṭṭhāna là một phương tiện hữu hiệu để đạt các thần lực và thánh trí cùng với quả vị giải thoát tối thượng. Mỗi khi được hỏi do đâu Trưởng lão tinh thông về năng lực trí tuệ vĩ đại (mahābhiññatā), gồm ngũ thông (phàm) cùng với trí tuệ giải thoát a-la-hán (thánh) là sáu, ngài luôn luôn khẳng định do nhờ công phu phát triển và vun bồi pháp Lập niệm. Nhờ pháp thiền này mà ngài mới có thể nhớ lại được hàng ngàn kiếp quá khứ, sử dụng các thần lực, và trực tiếp thấy biết hàng ngàn hệ thống thế giới (SN 47:28, 52:11).

Trưởng lão Anuruddha cũng nhấn mạnh rằng Satipaṭṭhāna giúp cho hành giả thành tựu khả năng kiểm soát các phản ứng tâm thuộc cảm xúc được gọi là “thần lực của bậc thánh” (ariya-iddhi), nhờ đó hành giả có thể xem một đối tượng đáng nhàm chán như không đáng nhàm chán, hoặc ngược lại, và có thể từ bỏ cả hai – nhàm chán và không nhàm chán – với tâm quân bình, buông xả (SN 52:1).

Trưởng lão nhấn mạnh thêm rằng những ai chểnh mảng, thối thất bốn pháp Lập niệm sẽ sớm rời xa thánh đạo dẫn đến chấm dứt khổ đau. Trong khi đó, những ai tinh cần tu tập bốn pháp Lập niệm chắc chắn đang bước trên thánh đạo tiến tới giác ngộ giải thoát (SN 52:2). Ngài còn nói rằng pháp hành cao thượng này đưa đến đoạn tận tham ái (SN 52:7). Giống như dòng nước sông Hằng xuôi chảy về đại dương sẽ không bị người làm chệch khỏi thiên hướng, một tỳ khưu chuyên tâm hành trì bốn pháp Lập niệm sẽ không bị lung lạc chệch khỏi cuộc sống xuất ly và trở lui hoàn tục (SN 52:8).

Lần nọ, khi Anuruddha lâm trọng bịnh, chư tăng rất ngạc nhiên thấy ngài vẫn điềm nhiên tự tại lúc bị cơn đau hành hạ. Họ hỏi ngài trú tâm như thế nào khiến thân đau mà tâm không khổ. Ngài trả lời đó là do ngài hành trì Satipaṭṭhāna (SN 52:10). Lần khác, vào một buổi chiều ngài Sāriputta đến viếng ngài Anuruddha và hỏi bạn đang thường xuyên tu tập pháp hành nào mà vẻ mặt lúc nào cũng trong sáng, an lành, và thanh tịnh. Trưởng lão Anuruddha nói rằng ngài hành trì Satipaṭṭhāna đều đặn, và đó cũng là cách các vị a-la-hán sống và hành trì thường nhật. Ngài Sāriputta vô cùng hoan hỷ với câu trả lời của ngài Anuruddha (SN 52:9).

Một lần nữa, khi hai vị Trưởng lão Sāriputta và Moggallāna hỏi ngài về sự khác biệt giữa một vị hữu học (sekha, còn đang tu tập trên thánh đạo) và vị a-la-hán (asekha, bậc vô học đã thành tựu thánh quả cao nhất), ngài Anuruddha trả lời rằng hai vị ấy khác biệt về sự thực hành Satipaṭṭhāna: vị hữu học hoàn thành chỉ một phần, còn vị a-la-hán đã viên mãn pháp hành này (SN 52:4-5).

Trường lão Anuruddha cũng khẳng định rằng, qua quá trình thực hành chánh niệm, ngài sở hữu được mười phẩm chất cao quý được gọi là “mười lực của Đức Như Lai” (dasatathāgatabala). Đó là:

1. Trí biết được việc gì có thể xảy đến và không thể xảy đến, do thấy rõ tương quan nhân quả.
2. Trí biết nghiệp báo trong cả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai.
3. Trí biết con đường đưa đến các cõi tái sinh khác nhau.
4. Trí biết các yếu tố tạo thành thế gian.
5. Trí biết thiên hướng khác nhau của các chúng sinh hữu tình.
6. Trí biết mức độ căn cơ của chúng sinh.
7. Trí biết về các tầng thiền và các thiền chứng.
8. Túc mạng trí: biết tất cả kiếp quá khứ của bản thân và chúng sinh.
9. Thiên nhãn trí hay sinh tử trí: biết sự lưu chuyển sinh tử của chúng sinh tùy theo duyên nghiệp.
10. Lậu tận trí: biết thật tướng của phiền não, đoạn trừ mọi nhiễm ô. (SN 52:15-24)

Chú giải ghi rằng ngài Anuruddha sở hữu một phần các phẩm tính này; chỉ có bậc Toàn Giác mới sở hữu trọn vẹn mười sự hiểu biết cao tột này mà thôi.

*




Wednesday, 6 February 2019

Buổi thiền đầu năm.

Buổi thiền đầu năm.

Sáng mồng 2 Tết tôi đi hành thiền. Vào thiền đường ngồi khép mắt, niệm hơi thở, quán cảm thọ, đợi thiền sư gọi vào trình pháp. Thiền đường ở đây là phòng khám bệnh ở khu thương mại Nollamara gần nhà. Thiền sư là một bác sĩ y khoa, khám bệnh tổng quát. Không có gì trầm trọng, chỉ vài vấn đề thông thường của người già, để tạo dịp quen biết với các bác sĩ ở phòng mạch mới mở cửa hoạt động từ năm ngoái.

Trong khi chờ đợi, thay vì đọc báo, xem TV hay bấm quẹt iPhone, tôi nhẹ nhàng khép mắt, buông thỏng hai tay, ngồi thoải mái, theo dõi hơi thở, chú tâm ghi nhận các điểm đau nhức trên cơ thể mà không phản ứng hay phán đoán, mong cầu. Cường độ đau nhức thay đổi liên tục, lúc mạnh lúc yếu. Nó như thế nào thì nó là như thế ấy. Chỉ vậy thôi.

Nhờ thế mà không nóng nảy sốt ruột, bình thản kiên nhẫn chờ đợi. Cảm thấy an vui.

*

Wednesday, 23 January 2019

Hình tượng Đức Phật - Kỷ niệm

Trong hơn 40 năm qua, gia đình chúng tôi được quý Tăng Ni và bạn đạo thương mến, tặng cho nhiều tượng Phật với những hình dạng và kích thước khác nhau. Một số chúng tôi giữ để tôn thờ tại phòng thờ phượng và hành thiền chung cho gia đình, một số chúng tôi tặng lại cho các bạn Phật tử khác. Tôi cũng giữ lại bốn hình tượng như trong ảnh nầy, tôn trí trên kệ trong phòng riêng để tri ân và để nhắc nhở mình phải cố gắng tiếp tục tu học.

Tấm hình đen trắng có lẽ quen thuộc với các bạn Phật tử bốn phương. Hình do bác Phạm Kim Khánh chụp một tượng mẫu để tôn tạo tượng Phật ở Thích-ca Phật Đài, Vũng Tàu, trong thập niên 1960. Hình nầy được chùa Đức Viên ở Đức in lại và gửi cho các Phật tử ở hải ngoại trong cuối thập niên 1970. Một anh bạn ở Perth tặng cho tôi để thờ trong những ngày đầu tiên khi chúng tôi đến định cư tại đây. Tôi trân quý kỷ niệm đó và gìn giữ cho đến ngày nay, đã hơn 40 năm.

Tượng Đức Phật với thủ ấn xúc địa hay chiến thắng ma vương là do một vị cao tăng ở chùa Cẩm Thạch (Wat Benchamabophitr), Bangkok, tặng trong chuyến chúng tôi đi viếng thăm các chùa ở Thái Lan vào đầu thập niên 1980.

Tấm ảnh bên phải là hình tượng Phật tại chánh điện Trung tâm Phật giáo Dhammāloka, Tây Úc. Ảnh và khung ảnh là quà sinh nhật của Hòa thượng Giác Toàn (hệ phái Khất Sĩ) tặng cho tôi khi ngài Hòa thượng sang Perth dưỡng bệnh trong ba tháng. Nhân dịp sinh nhật, chúng tôi thỉnh ngài và bạn đạo đến nhà dùng cơm trưa, và Hòa thượng đã nhờ một chị Phật tử chụp và gắn vào khung ảnh để làm quà cho tôi.

Tượng Phật nhỏ với bánh xe Pháp là của Hòa thượng trụ trì chùa Sri Devram Maha Viharaya, Pannipitiya, Sri Lanka, tặng khi tôi đến thăm ngài và viếng chùa vào năm 2006.

Tôi rất quý các kỷ vật nầy, từ những vị tôn túc của các hệ phái Nam tông, Bắc tông, Khất sĩ ở các quốc độ khác nhau – Đức, Úc, Thái Lan, Sri Lanka, Việt Nam. Qua một góc nhìn, đối với riêng tôi, đây là biểu tượng của sự hòa hợp trong đạo Phật.

* * *

Friday, 11 January 2019

Lúc nào, giúp ai, phải làm gì?

Lúc nào, giúp ai, phải làm gì?

Hôm nay, nhân đọc vài câu trích dẫn của một bạn đạo trên Facebook về việc giúp đỡ người khác, tôi chợt nhớ đến câu chuyện ngụ ngôn “Ba câu hỏi của nhà vua” của văn hào Lev Tolstoy. Lần đầu tiên tôi biết được câu chuyện nầy là đọc trong tập sách “Phép lạ của sự tỉnh thức” của Thầy Nhất Hạnh hơn 40 năm trước. Xin trích ra chia sẻ ở đây.

Tóm tắt.
Hỏi:
1) Làm sao để biết được khi nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?
2) Làm sao để biết được ai là người quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?
3) Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?

Trả lời:
1) Thời gian quan trọng nhất là bây giờ. Thời điểm hiện tại là thời điểm duy nhất mà ta có thể làm chủ được.
2) Người quan trọng nhất là người đang sống bên ta.
3) Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người sống bên ta hạnh phúc.

* * *

BA CÂU TRẢ LỜI MẦU NHIỆM
Thích Nhất Hạnh, “Phép lạ của sự tỉnh thức” (1975)

… Để kết thúc thư này, tôi xin kể tặng Thiều và các bạn một câu chuyện mà văn hào Lev Tolstoy đã kể và tôi tin là Thiều và các bạn trong trường sẽ thích lắm. Đó là câu chuyện “Ba câu hỏi khó của nhà vua”.

Nhà vua ấy Tolstoy không biết tên. Một hôm vua nghĩ rằng: “Giá mà vua trả lời được ba câu hỏi thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào. Ba câu hỏi ấy là:

1/ Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?
2/ Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?
3/ Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?”

Nghĩ thế vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được ba câu hỏi đó. Các bậc hiền thần đọc chiếu liền tìm đến kinh đô. Nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả lời khác nhau.

Về câu hỏi thứ nhất, có người trả lời rằng: Muốn biết thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc thì phải làm thời biểu cho đàng hoàng. Có ngày, giờ, năm, tháng và phải thi hành cho thật đúng thời biểu ấy, như vậy mới mong công việc làm đúng lúc. Kẻ khác thì lại nói không thể nào dự tính trước được những gì phải làm và thời gian để làm những việc ấy. Rằng ta không nên ham vui mà nên chú ý đến mọi sự khi chúng xảy tới để có làm bất cứ gì xét ra cần thiết. Có kẻ lại nói rằng dù vua có chú ý tình hình mấy đi chăng nữa thì một mình vua cũng không đủ để định đoạt thời gian làm việc một cách sáng suốt. Do đó nhà vua phải thành lập một hội đồng nhân sĩ và hành động theo lời khuyến cáo của họ. Lại có kẻ nói rằng có những công việc cần phải quyết định tức khắc không thể nào có thì giờ tham khảo xem đã đến lúc phải làm hay chưa đến lúc phải làm. Mà muốn lấy thời điểm cho đúng thì phải biết trước những gì sẽ xảy ra, do đó nhà vua phải cần đến những nhà cố vấn tiên tri và bốc phệ.

Về câu hỏi thứ hai cũng có nhiều tấu trình không giống nhau. Có người nói những nhân vật vua cần chú ý nhất là những đại thần và những người trong triều đình. Có người nói là mấy ông giám mục thượng tọa là quan hệ hơn hết. Có người nói là mấy ông tướng lĩnh trong quân đội là quan trọng hơn hết.

Về câu hỏi thứ ba các nhà thức giả cũng trả lời khác nhau. Có người nói khoa học là quan trọng nhất. Có người nói chỉnh trang quân đội là quan trọng nhất, v.v.

Vì các câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không đồng ý với vị nào cả và chẳng ban thưởng cho ai hết. Sau nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định chất vấn một ông đạo tu trên núi. Ông đạo này nổi tiếng là người có giác ngộ. Vua muốn tìm lén trên núi gặp ông đạo và hỏi ba câu hỏi kia vì vị đạo sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân nghèo. Chẳng bao giờ ông chịu tiếp những người quyền quý. Nhà vua cải trang làm thường dân, khi đi đến chân núi vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới và một mình vua trong y phục một thường dân trèo lên am của ông đạo.

Nhà vua gặp ông đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ ông đạo gật đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông đạo đã già yếu. Mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì ông lại thở hổn hển. Nhà vua tới gần ông đạo và nói: “Tôi tới đây để xin ông đạo trả lời giúp ba câu hỏi: Làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả, và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước?”.

Ông đạo lắng nghe nhà vua, nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cuối cùng tiếp tục cuốc đất. Nhà vua nói: “Ông đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát”. Vị đạo sĩ cám ơn, trao cuốc cho vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt.

Cuốc xong được hai vòng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông đạo vẫn không trả lời, chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: “Bây giờ bác phải nghỉ, đến phiên tôi cuốc”, nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại tiếp tục cúi xuống cuốc đất.

Một giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua, rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc và nói với ông đạo: “Tôi tới để xin ông đạo trả lời cho mấy câu hỏi, nếu ông đạo không trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho tôi biết để tôi còn về nhà.”

Chợt lúc đó, ông đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: “Bác thử xem có ai chạy lên kìa”, nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng máu chảy ướt đẫm cả hai tay, ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất dộng, miệng rên rỉ. Vua và ông đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương. Nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngưng chảy. Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước.

Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống, khi đó mặt trời đã khuất núi và bắt đầu lạnh. Nhờ sự tiếp tay của ông đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường của ông đạo. Ông ta nhắm mắt nằm im. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa mà ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi nhà vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc lâu sau vua mới nhớ được là mình đang ở đâu và đang làm gì. Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng.

Người đó thấy vua tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì cất giọng rất yếu: “Xin bệ hạ tha tội cho thần!”, vua đáp: “Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha?”, “Bệ hạ không biết hạ thần nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ. Hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được, bởi vì ngày xưa trong chinh chiến bệ hạ đã giết mấy người anh và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa. Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường xuống núi. Nhưng đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ. Hạ thần lại gặp bọn vệ sĩ. Bọn này nhận mặt được hạ thần cho nên đã xúm lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được, chạy lên đây, nhưng nếu không có bệ hạ thì chắc hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần, hạ thần hối hận quá. Giờ đây nếu hạ thần còn sống được thì hạ thần nguyện làm tôi mọi cho bệ hạ suốt đời và hạ thần cũng sẽ bắt các con hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho thần”.

Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng, nhà vua rất vui mừng. Vua không những hứa tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta và gởi ngay thầy thuốc cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.

Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về, nhà vua trở lên tìm ông đạo để chào. Trước khi ra về vua còn lập lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông đạo đang quỳ gối xuống đất mà gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua. Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua đáp: “Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà!”. Vua nói: “Trả lời bao giờ, đâu nào?”. Vị đạo sĩ đáp:

“Hôm qua nếu vua không thương hại bần đạo già nua mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi và nhà vua sẽ tiếc là đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian vua đang cuốc đất, nhân vật quan trọng nhất là bần đạo đây và công việc quan trọng nhất la công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho ông ta thì ông ta sẽ chết và vua không có dịp hoà giải với ông ấy. Cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất và công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất. Xin vua hãy nhớ kỹ điều này nhé: Chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại, giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc. Bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống.”

Thiều ơi! Câu chuyện của Lev Tolstoy giống như là một câu chuyện trong kinh Phật và không thua gì một cuốn kinh Phật. Chúng ta nói phụng sự xã hội, phụng sự dân tộc, phụng sự nhân loại… phụng sự những ai và ai ở đâu xa lạ, nhưng nhiều khi ta quên mất rằng chính ta phải sống cho những người thân của ta trước tiên. Nếu Thiều không phụng sự cho Mười và bé Hải Triều Âm sung sướng thì Thiều có thể làm cho ai sung sướng? Nếu các bạn trong đoàn Thanh niên Phụng sự Xã hội không thương được nhau, không giúp đỡ được nhau thì chúng ta giúp đỡ được cho ai? Chúng ta làm việc cho con người hay chúng ta làm việc cho uy tín của một tổ chức?

Danh từ “phụng sự” to tát quá! Phụng sự xã hội. Danh từ “xã hội” to tát quá! Ta hãy trở về với cộng đồng bé nhỏ của ta trước đã. Gia đình ta, đồng sự của ta, bè bạn của ta, đoàn thể của ta… Ta phải sống vì họ. Nếu không sống vì họ được, ta có thể sống vì ai nữa?

Tolstoy là một vị bồ-tát trong câu chuyện trên. Nhà văn hào này thấy được ý nghĩa của cuộc sống và phương thức sống. Làm thế nào để ta sống giờ phút hiện tại, sống ngang với người mà ta chung đụng hàng ngày, làm ngay điều có thể giúp cho họ bớt khổ đau, thêm hạnh phúc. Làm thế nào? Câu trả lời là phải thực tập chánh niệm. Nguyên tắc của Tolstoy nêu ra đó xem là dễ, nhưng muốn thực nghiệm chúng ta phải nhờ những phương pháp quán niệm cụ thể mà ta tìm thấy nơi Đạo Phật.

Thiều ơi! Tôi viết những trang này để cho các bạn sử dụng, có những kẻ viết về những điều mà họ thực sự không biết rõ. Tôi chỉ viết những điều mà tôi đã và đang thực nghiệm. Tôi mong những điều tôi viết có thể giúp em và các bạn một phần nào.

–Thích Nhất Hạnh (1975).

*

Nhạc Việt: Tiếng hát MỸ THỂ (1940-2000), Những buổi chiều vàng.

Nhạc Việt: Tiếng hát MỸ THỂ (1940-2000)
Những buổi chiều vàng.

Đây là một trong những albums khó tìm. Mời tải về nghe để nhớ lại một trong các giọng ca miền Nam trước 1975.

* Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

nviet65.zip (140 MB) – Tiếng hát Mỹ Thể, Những buổi chiều vàng
https://mega.nz/#!e05X3CYC!exl53HXN4I-7SUPn71sU3pUNktJCAiImg2o9Runu3sk

Tiểu sử:

Mỹ Thể (1940-2000) tên thật là Công Huyền Tôn Nữ Mỹ Thể. Sinh quán tại Huế (quê nội), thân mẫu của bà có quê Phan Thiết. Ông nội bà là cụ Ưng Đồng, một trong tứ trụ triều đình Huế. Mỹ Thể vào Sài Gòn năm 1958 để theo học các trường Việt Nam Học Đường và Gia Long. Những năm từ 1968 đến 1970 tên tuổi Mỹ Thể bắt đầu nổi bật tại các vũ trường lớn ở Sài Gòn như Queen Bee, Maxim's, Palace và Đêm Màu Hồng.

Mỹ Thể cộng tác với các chương trình ca nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết, bà kết hôn với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Sáng, em ruột của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết. Năm 1980, Mỹ Thể được sum họp với gia đình ở thành phố Lancaster, tiểu bang Pennsylvania. Năm 1989, Mỹ Thể lập gia đình lần thứ hai với Philippe, một người Việt Nam mang quốc tịch Pháp, du học tại Paris từ năm 1956.

Bà giã từ cuộc đời vào ngày 08 tháng 10 năm 2000 tại Paris vì căn bệnh ung thư.

* Nguồn: duongtr46, http://www.hdvietnam.com/threads/my-the-nhung-buoi-chieu-vang-wav.1384947/

*


Saturday, 29 December 2018

Tông và Thừa - Vài cảm nghĩ vụn vặt.

Có người hỏi tôi theo tông phái nào? Nam tông, Bắc tông, Mật tông, Phật tông, …? Xin trả lời: Tôi không theo tông phái nào cả, và lúc nào cũng cố gắng tránh bị xe tông.

Rồi có người hỏi tôi theo truyền thống nào? Đại thừa, Tiểu thừa, Bồ-tát thừa, Thanh văn thừa, …? Xin trả lời: Tôi không theo một truyền thống đặc biệt nào cả, và lúc nào cũng cố gắng tránh chuyện đổ thừa.

*
Bây giờ mới nhớ thêm (13-01-2019):

Có lần ngài Ajahn Brahm nói nếu lấy chữ H của Hinayana (Tiểu thừa), chữ AHA của Mahayana (Đại thừa) và chữ YANA của Vajrayana (Kim cương thừa) kết hợp lại, ta sẽ được chữ HAHAYANA. Tôi xin tạm dịch là TIẾU THỪA (tiếu: cười vui, như hàm tiếu, vi tiếu, tiếu lâm). Ngài nói đó là tông phái của ngài. Tôi thấy rất hay và cũng xin gia nhập tông phái đó.

*

Friday, 28 December 2018

Nhạc Việt: Tiếng hát LÊ HIẾU, Tình khúc cho em (2007)

Nhạc Việt: Tiếng hát LÊ HIẾU, Tình khúc cho em (2007)

* Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

nviet64.zip (101 MB) – Tiếng hát Lê Hiếu, Tình khúc cho em (2007)
https://mega.nz/#!TgggnQIK!c-qXZLloauiDseD29h_p5-oRIYYf6Gxb10wmQzrgN-k

*
Lê Hiếu - Tình khúc cho em (Vafaco, 2007)

01 Cây Đàn Bỏ Quên, Phạm Duy
02 Một Lời Cuối Cho Em, Nguyễn Ánh 9
03 Tim Anh Trôi Về Em, Quốc Bảo
04 Tình Khúc Cho Em, Lê Uyên Phương
05 Và Tôi Cũng Yêu Em, Đức Huy
06 Thêm Một Lần Nữa, Đức Huy
07 Về Đây Em, Trịnh Nam Sơn
08 Bài Tango Cho Em, Lam Phương
09 Con Đường Màu Xanh, Trịnh Nam Sơn
10 Như Đã Dấu Yêu, Đức Huy
---------------------

Wednesday, 26 December 2018

Nhạc Việt: Tiếng hát MAI HƯƠNG và những tuyệt phẩm Đoàn Chuẩn Từ Linh

Nhạc Việt: Tiếng hát MAI HƯƠNG và những tuyệt phẩm Đoàn Chuẩn Từ Linh

Tên thật là Phạm Thị Mai Hương, sinh năm 1941 tại Đà Nẵng. Thân phụ của bà là ông Phạm Đình Sỹ, người anh cả của ban Hợp Ca Thăng Long (Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Hằng và Thái Thanh) và thân mẫu là nữ kịch sĩ Kiều Hạnh. Bà là một trong những nữ ca sĩ quen thuộc của Đài Phát thanh Sài Gòn xưa, trước 1975.

* Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

nviet63.zip (154 MB) – Tiếng hát Mai Hương và những tuyệt phẩm Đoàn Chuẩn Từ Linh
https://mega.nz/#!SxQUSCTT!gNLJzuIJOTWc3c55D5DXczeyiOd7eFWpYpD30x4nzgI

*
Mai Hương – Tuyệt phẩm Đoàn Chuẩn Từ Linh

01 Gởi Gió Cho Mây Ngàn Bay
02 Lá Thu
03 Thu Quyến Rũ
04 Dang Dở (Tà Áo Xanh)
05 Đường Về Miền Bắc
06 Gởi Người Em Gái
07 Tình Nghệ Sĩ
08 Cánh Hoa Duyên Kiếp
09 Lá Đổ Muôn Chiều
10 Chuyển Bến
-----------


Sunday, 23 December 2018

Lời khuyên cho ông làm vườn.

Lời khuyên cho ông làm vườn.

Sáng nay đi chùa cúng dường phẩm vật đến chư Tăng, sinh hoạt với các bạn đạo và làm vài việc tại thư viện. Tình cờ thấy mấy cái áo trắng bán gây quỹ điều hành thư viện, bèn mua một cái để mặc chơi trong mùa Giáng sinh và Tết Dương lịch.

Thế là trong năm 2019 tới đây được thêm một lời khuyên của ngài Ajahn Brahm, có lẽ dành cho mọi người nhưng lại thích hợp cho riêng mình:

WATER THE FLOWERS IN YOUR GARDEN, DON'T WATER THE WEEDS.
Hãy tưới các bông hoa trong vườn nhà bạn, đừng tưới các loài cỏ dại.

*

Saturday, 22 December 2018

Căn bản hành thiền - Tiến trình đọc sách

Căn bản hành thiền - Tiến trình đọc sách

Cách đây mấy tháng, một nhóm bạn đạo đề nghị tôi xúc tiến hiệu đính tập sách "Căn bản pháp hành thiền" của Thiền sư Ajahn Brahm,  tái bản ấn tống để tưởng niệm và tri ân Sư Thiện Minh, chùa Bửu Quang, Sài Gòn. Đây là tập sách đầu tiên của tôi mà Sư đã tận tình hỗ trợ, giúp xuất bản tại Việt Nam 15 năm trước.

Trong khi hiệu đính, tôi cảm thấy có vài bài dịch khác cần được thêm vào cho đầy đủ. Do đó, tập sách tái bản lần nầy (tháng 11-2018) gồm có bốn bài của Thiền sư Ajahn Brahm, bà Sarah Lim, Thiền sư Silananda và Tỳ-khưu Dhammika, theo thứ tự đó.

Sau khi sách xuất bản, tôi nhận được một số phản hồi và bình luận của bạn đọc, và cảm thấy để có nhiều lợi lạc, có lẽ các độc giả nên đọc tập sách theo thứ tự sau đây:

1. Vấn đáp về hành thiền - Tỳ khưu Dhammika
2. Bước đầu hành thiền - Sarah Lim
3. Căn bản pháp hành thiền - Thiền sư Ajahn Brahmavamso
4. Lợi ích của đi kinh hành - Thiền sư Silananda

Bài đầu của Sư Dhammika giúp có một cái nhìn tổng quát về hành thiền trong Phật giáo. Bài tiếp theo của bà Sarah Lim, chia sẻ những kinh nghiệm quý báu về hành thiền trong đời sống hằng ngày của một người cư sĩ tại gia, có gia đình và công ăn việc làm. Bài viết có những ý tưởng cụ thể và thực tế để áp dụng thực hành.

Sau đó, hai bài của Thiền Sư Ajahn Brahm và Silananda là dành cho những ai đã từng tham gia các khóa thiền và có nhiều kinh nghiệm về hành thiền.

Trong tương lai, khi đủ duyên, tập sách sẽ được tái bản với nội dung được sắp xếp theo thứ tự nêu trên.

*
Đọc online hay tải về máy:
=> https://tinyurl.com/2dj4x66w 

Friday, 21 December 2018

Nhạc Việt: THANH THÚY, tiếng hát liêu trai.

Nhạc Việt: Thanh Thúy (1943), tiếng hát liêu trai – Tình khúc Tiền chiến

Theo Wikipedia [*]:
Thanh Thúy, tên đầy đủ là Nguyễn Thị Thanh Thúy sinh năm 1943, là một trong 10 nữ ca sĩ có ảnh hưởng lớn nhất đến nền Tân nhạc Việt Nam trước năm 1975, cũng là Nữ hoàng của thể điệu Bolero và Rumba-Bolero. Tên tuổi của bà gắn liền với nhạc sĩ Trúc Phương - ông hoàng của thể điệu Bolero và và những tình khúc tiền chiến mà nổi bật hơn cả là bản "Giọt mưa thu" bất hủ của cố nhạc sĩ Đặng Thế Phong. Là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, bà được các nhạc sĩ, nhà thơ, nhà văn, đạo diễn truyền hình nổi tiếng... ca ngợi hết lòng với rất nhiều mỹ danh, trong đó nổi tiếng nhất là Tiếng Hát Liêu Trai và Tiếng Hát Lúc 0 Giờ.

* Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

nviet62.zip (129 MB) – Tiếng hát Thanh Thúy, Tình khúc Tiền chiến
https://mega.nz/#!KtRFCAyK!7USWUdU1FVL6n61aA8iSLCZ_EGnFy_yPIGhfZTFcZoo

--------------------
[*] Nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thanh_Th%C3%BAy_(sinh_1943)

*

Wednesday, 5 December 2018

HÀNH TRÌNH CỦA MỘT TẬP SÁCH NHỎ

HÀNH TRÌNH CỦA MỘT TẬP SÁCH NHỎ.

Bắt đầu từ những gợi ý, góp ý trong một nhóm bạn đạo. Có người đã từng gặp mặt, có người chỉ quen biết nhau qua Facebook. Từ đó, một tập sách nhỏ, sưu tập bốn bài soạn dịch trong 15 năm qua được thành hình. Từ Perth, Tây Úc, một bản thảo vi tính được gửi về Việt Nam để các thành viên trong nhóm đọc, thảo luận và góp ý chỉnh sửa. Bản chỉnh sửa được gửi ra Hà Nội để xin giấy phép xuất bản ấn tống rồi xúc tiến công việc in sách.

Sách in xong được gửi đi cúng dường khắp nơi trong nước theo yêu cầu, đồng thời cũng được gửi ra nước ngoài để tặng bạn đạo ở châu Âu và Bắc Mỹ. Hai mươi cuốn được một bạn đạo đem sang Úc rồi gửi đến Perth, trở về điểm xuất phát đầu tiên. Hoàn tất cuộc hành trình kéo dài ba tháng.

Tôi rất hoan hỷ và xin tán thán thiện tâm, lòng nhiệt tình của các thí chủ và bạn đạo khắp nơi đã hỗ trợ, khích lệ, đóng góp công sức để thực hiện tập sách nhỏ nầy. Hy vọng tập sách sẽ đem đến chút ít lợi lạc nào đó cho người đọc trên đường tu tập.

Chúng tôi xin chia phần phước báu tạo được đến quý thầy tổ, ông bà cha mẹ, thân nhân họ hàng, bạn bè bốn phương, chư thiên và mọi loài chúng sinh trong cõi ta-bà.

Sadhu sadhu sadhu! _()_


Bình Anson
Perth, Western Australia
01/12/2018

* GHI THÊM: 5000 bản in trên giấy đã được gửi đi cúng dường khắp nơi, tại VN cũng như hải ngoại. Bản PDF (ebook) cũng vừa được đưa vào trang web để đọc online hay tải về máy (04/12/2018):