Saturday, 31 December 2016

Nhạc Việt: ANH BẰNG (1926-2015)

Đây là một album sưu tập một số ca khúc quen thuộc của nhạc sĩ Anh Bằng. Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

* nviet28.zip (248 MB) – Ca khúc Anh Bằng
https://mega.nz/#!zs4VwZRD!C_J_zAuF5YVct6vLhysBj5bu02ObttCLsB557UuWDq4

Track list:
01. Dù Nắng Có Mong Manh ..... Don Hồ.
02. Bây Giờ Còn Nhớ Hay Không... Như Quỳnh & Lâm Nhật Tiến
03. Mai Tôi Đi ..... Nguyễn Hồng Nhung
04, Nỗi Lòng Người Đi ..... Ngọc Quy
05. Anh Còn Yêu Em ..... Lâm Thúy Vân
06. Bướm Trắng ..... Vũ Khanh
07. Ai Bảo Em Là Giai Nhân ..... Gia Huy
08. Anh Cứ Hẹn ..... Hà Thu Hiền
09. Từ Độ Ánh Trăng Tan ..... Nguyên Khang
10. Khúc Thụy Du ..... Hồ Hoàng Yến
11. Nếu Vắng Anh ..... Mỹ Linh
12. Nét Son Buồn ..... Tuấn Anh
13. Lời Tình Băng Giá ..... Lâm Thúy Vân
14. Nước Mắt Một Tâm Hồn ..... Elvis Phương
15. Sầu Lẻ Bóng ..... Lệ Quyên
16. Tango Dĩ Vãng ..... Ý Lan
17. Tango Tím ..... Hà Thanh Xuân
18. Tình Lẻ Loi ..... Như Quỳnh
19. Hạnh Phúc Lang Thang ..... Hồ Hoàng Yến
20. Kỳ Diệu ..... Nguyên Khang
21. Trúc Đào ..... Lệ Quyên
22. Anh Còn Nợ Em ..... Đức Thịnh
23. Anh Có Nghe Mưa Rơi ..... Thiên Kim

*

Friday, 30 December 2016

Thiền CHỈ & Thiền QUÁN

Đây là một trong những đề tài muôn thuở thường thấy trong các cộng đồng Phật giáo, thảo luận cả ngàn năm qua mà vẫn chưa kết thúc. Đã có nhiều sách, các bài tham luận, các buổi giảng luận về đề tài nầy.

Cho những ai muốn tìm hiểu một cách nghiêm túc, tôi đề nghị bắt đầu tìm đọc vài tài liệu sau đây:

1) “Những Lời Phật Dạy”, Bhikkhu Bodhi (Bình Anson dịch), Chương VIII và IX.
Tải về bản PDF (nếu không có bản in): http://budsas.net/sach/vn24nlpd_2017-10b.pdf 

2) Tôi có tóm tắt sơ lược: “Tu tập tâm: Chỉ và Quán”
http://budsas.blogspot.com.au/2016/06/tu-tap-tam-chi-va-quan_23.html

Cho những ai đọc được tiếng Anh:

3) Peter Harvey. “An Introduction to Buddhism: Teachings, History and Practices”, Chapter 11.
Tải về bản PDF (nếu không có bản in): http://budsas.net/sach/en47.zip

4) Rupert Gethin. “The Foundations of Buddhism”, Chapter 7.
Tải về bản PDF (nếu không có bản in): http://budsas.net/sach/en32.zip

*

Theo tôi, mình nên cố gắng đọc, suy ngẫm, rồi so sánh đối chiếu với lời giảng của những vị thiền sư mà mình có duyên theo học và so sánh đối chiếu với sự thực hành hằng ngày của mình. Rồi tự rút tỉa những kết luận, nhận định cho mình. Trao đổi trên Facebook hay các diễn đàn Internet chỉ là để cung cấp thông tin phiến diện, ngắn gọn nhưng không đầy đủ và không có chiều sâu.

Chỉ xin đóng góp như thế thôi. Không hứng thú mà cũng không có ý định đóng góp, chia sẻ thêm điều gì khác.

*

Thursday, 29 December 2016

Nhạc Việt: NGÔ THỤY MIÊN (1948-)


Đây là một album sưu tập một số ca khúc quen thuộc của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên. Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

* nviet25.zip (481 MB) – Tình khúc Ngô Thụy Miên
https://mega.nz/#!79IwASoL!AAVDNZ3mKwtu2Ufa2kngD9EVD01aZI1xBU6T72wn5FE

Track list - Tình khúc Ngô Thụy Miên, Acoustic Selection (2015)

01. Một Đời Quên Lãng ..... Khánh Hà
02. Chiều Nay Không Có Em ..... Sĩ Phú
03. Mùa Thu Cho Em ..... Phạm Thu Hà
04. Nỗi Đau Muộn Màng ..... Tuấn Ngọc
05. Giọt Nước Mắt Ngà ..... Diệu Hiền
06. Tình Khúc Mùa Xuân ..... Khánh Hà & Thúy Anh
07. Niệm Khúc Cuối ..... Thiên Kim
08. Bản Tình Cuối ..... Thái Hòa
09. Dấu Tình Sầu ..... Khánh Hà
10. Riêng Một Góc Trời ..... Tuấn Ngọc
11. Mắt Biếc ..... Lệ Quyên
12. Cần Thiết ..... Ngọc Quỳnh
13. Từ Giọng Hát Em. ..... Phương Linh
14. Giọt Nắng Hồng ..... Mai Khôi
15. Miên Khúc ..... Khánh Hà
16. Dốc Mơ ..... Khánh Ly
17. Ở Nơi Nào Em Có Nhớ ..... Tuấn Ngọc
18. Dáng Ngọc ..... Thái Thảo
19, Tuổi 13 ..... Bích Vân
20. Paris Có Gì Lạ Không Em ..... Ngọc Hạ
21. Áo Lụa Hà Đông ..... Thái Hòa
22. Bản Tình Ca Cho Em ..... Tuấn Ngọc
23. Em Còn Nhớ Mùa Xuân ..... Y Phương
24. Tình Khúc Buồn ..... Thái Hòa
25. Biết Bao Giờ Trở Lại ..... Trần Thái Hòa
26. Mùa Thu Xa Em ..... Khánh Ly
27. Nắng Paris, Nắng SàiGòn ..... Thái Hiền
28. Tình Cuối Chân Mây ..... Don Hồ
29. Tháng Giêng Và Anh ..... Ý Lan
30. Tháng Sáu Trời Mưa ..... Đức Tuấn
31. Thu Khóc Trên Ngàn ..... Lê Dung
32. Nỗi Đau Từ Đây .....Trần Thái Hòa
33. Em Về Mùa Thu ..... Ái Vân
34. Thu SàiGòn ..... Duy Quang
35. Mắt Thu ..... Trần Thái Hòa & Hương Giang
36. Một Cõi Tình Phai ..... Khánh Hà
37. Biển Và Em ..... Thiên Kim
38. Mây Bốn Phương Trời ..... Don Hồ
39. Gọi Tên Anh ..... Ý Lan
40. Từ Giọng Hát Em ..... Thiên Tôn
41. Riêng Một Góc Trời ..... Tuấn Ngọc

*

Wednesday, 28 December 2016

Các bậc thánh nhân và 5 căn, 5 lực


Nhân đọc và chỉnh sửa Chương 10 của cuốn Những Lời Phật Dạy, ngài Tỳ-khưu Bodhi trích nhiều đoạn kinh để giải thích các phân hạng thánh nhân, dựa theo sự tu tập và phát triển 5 căn và 5 lực (tín, tấn, niệm, định, tuệ) của mỗi hành giả, xin chia sẻ bản tóm tắt nầy cho những ai thích tìm hiểu.

Nhìn chung, 5 căn và 5 lực cần phải được phát triển đồng đều. Nhưng vì căn cơ, duyên nghiệp của mỗi người không giống nhau, cho nên có vài sự khác biệt trên con đường tu tập và kết quả tu tập.

- Vị có TUỆ căn, TUỆ lực tương đối nổi trội và mạnh hơn (tùy pháp hành, hữu hành niết-bàn, kiến đáo, tuệ giải thoát).

- Vị có ĐỊNH căn, ĐỊNH lực tương đối nổi trội và mạnh hơn (vô hành niết-bàn, câu phần giải thoát, thân chứng).

- Vị có TÍN căn, TÍN lực tương đối nổi trội và mạnh hơn (tùy tín hành, tín giải thoát).

Vì thế, điều quan trọng là mỗi người phải tự tìm hiểu, thực nghiệm, suy xét cá tính của chính mình để tìm một hướng đi thích hợp.

Và xin đừng vội tự hào, tự mãn vì đang đi theo một trường phái, pháp môn nào đó, cho rằng đó là con đường "duy nhất", rồi vội vàng, hời hợt đánh giá chê bai đường hướng tu tập của người khác.

Tôi chỉ có thể tóm lược như thế. Muốn biết thêm chi tiết, xin tìm đọc Chương 10, và các đoạn kinh văn trích lục của cuốn sách.

* Tải sách NHỮNG LỜI PHẬT DẠY về máy để đọc hay in trên giấy:

=> http://budsas.net/antong/@nlpd.htm

----------------
Ghi chú thêm:

1) DỰ LƯU (sotapanna):
- Tùy pháp hành: dhammānusārı̄, nhập dòng giải thoát bằng trí tuệ (tuệ căn mạnh)
- Tùy tín hành: saddhānusārı̄, nhập dòng giải thoát bằng niềm tin (tín căn mạnh)

- Thất sinh: sattakkhattu-parama, tái sinh 7 lần
- Gia gia: kolaṅkola, tái sinh 2 hoặc 3 lần trong các gia đình cao quý
- Nhất chủng: eka-bījī, tái sinh vào cõi người thêm một lần nữa

2) BẤT LAI (sakadāgāmī):
- Chánh trí trong hiện tại: đắc A-la-hán ngay trong đời đó
- Chánh trí lúc lâm chung: đắc A-la-hán trước khi chết.
- Trung ban Bát-niết-bàn: antarā-parinibbāyī, đắc A-la-hán trước khi tái sinh
- Sinh ban Bát-niết bàn: uphacca-parinibbāyī, đắc A-la-hán ngay khi tái sinh
- Vô hành Bát-niết-bàn: asasaṅkhāra-parinibbāyī, đắc A-la-hán qua bốn thiền-na
- Hữu hành Bát-niết-bàn: sasasaṅkhāra-parinibbāyī, đắc A-la-hán qua thiền quán các đề mục khắc khổ (quán bất tịnh, quán ly tham, quán vô thường, quán sự chết)
- Sắc cứu cánh thiên: tái sinh vào cõi trời Sắc cứu cánh (Akaniṭṭha) và đắc A-la-hán ở đó

3) A-LA-HÁN (arahat):
- Câu phần giải thoát: ubhatobhāgavimutta, vị đã giải thoát khỏi sắc giới qua chứng đắc thiền vô sắc và giải thoát khỏi các lậu hoặc qua việc đắc A-la-hán
- Tuệ giải thoát: paññāvimutta, vị tuy không đắc thiền vô sắc nhưng đạt được quả vị cuối cùng qua tuệ lực kết hợp với mức độ định tâm thấp hơn các trạng thái vô sắc

- Thân chứng: kāyasakkhı̄, vị đã thuần thục thiền vô sắc (định căn mạnh)
- Kiến đáo: diṭṭhippatta, vị chưa đắc thiền vô sắc nhưng có tuệ căn mạnh (liên hệ đến vị tùy pháp hành)
- Tín giải thoát: saddhāvimutta, vị chưa đắc thiền vô sắc nhưng có tín căn mạnh (liên hệ đến vị tùy tín hành)

*

Sách: Phục hồi hội chúng Tỳ-khưu-ni - Bhikkhu Bodhi

Xin giới thiệu một tập sách ngắn nhưng chứa những thông tin rõ ràng và những nhận định khách quan, cân bằng về vấn đề tái lập dòng tỳ-khưu-ni trong truyền thống Theravada:

*  Sự phục hồi của hội chúng Tỳ-khưu-ni trong truyền thống Nguyên thủy, Bhikkhu Bodhi (2010), Tỳ-khưu-ni Pháp Hỷ Dhammanandā dịch - http://budsas.net/sach/vn13.pdf 

*

Monday, 26 December 2016

Trang web BuddhaSasana: budsas.net

Mấy hôm nay có nhiều bạn nhắn tin không thể truy cập trang web budsas.org . Xin lưu ý là đã từ lâu, hơn 10 năm qua, tôi không điều hành quản lý trang web đó nữa.

Xin hoan hỷ truy cập trang web mà tôi đang điều hành với địa chỉ budsas.net :

=> budsas.net (thay đuôi ORG bằng đuôi NET)

=> http://budsas.net/index.htm

*

Sunday, 25 December 2016

Sách: Ajahn Brahm, Căn bản pháp hành thiền

 CĂN BẢN PHÁP HÀNH THIỀN
Ajahn Brahm - The Basic Method of Meditation 
(Thiện Nhựt & Bình Anson dịch)

Tôi vừa tải lên tập sách hướng dẫn các bước căn bản về hành thiền của ngài Ajahn Brahm, bản dịch tiếng Việt và có kèm nguyên tác tiếng Anh. Có thể tải về để đọc:


Nguyên tác tiếng Anh đã được tái bản nhiều lần trong hơn 10 năm qua, được dịch sang nhiều thứ tiếng, phổ biến khắp nơi trên thế giới. Tại Tây Úc, sau mỗi khóa thiền cho người bắt đầu, tôi thường phân phát tập sách nầy đến các bạn thiền sinh mới, như là một món quà, để đem về nhà đọc và tham khảo thêm. Trong buổi tập cuối cùng, trước khi chia tay, tôi thường nói đùa rằng tập sách nầy là “Chứng chỉ Tốt nghiệp khóa Thiền” của các bạn ấy.

Đây là các bước căn bản nhưng rất quan trọng, không nên xem thường, không nên vội vã đốt giai đoạn. Thà chậm mà chắc, dục tốc bất đạt (muốn nhanh là không thành). Nên đọc đi đọc lại nhiều lần, suy ngẫm và áp dụng vào công phu hành thiền của mình. Nếu có thắc mắc, xin đến hỏi trực tiếp các vị thiền sư có kinh nghiệm. Xin lưu ý là không nên vội tin vào các lời giải thích vu vơ trên Internet.

Cuối cùng, cũng xin đừng liên lạc hỏi tôi về các ấn chứng, các hiện tượng xảy ra khi các bạn hành thiền. Tôi chỉ là một thiền sinh tầm thường còn đang tu tập, còn nhiều trở ngại phải vượt qua. Tôi không có khả năng, không có kinh nghiệm, mà cũng không có hứng thú để chia sẻ, cố vấn, giải thích cho các bạn.


*

Saturday, 24 December 2016

The Jhānas and the Lay Disciple, Bhikkhu Bodhi

The Jhānas and the Lay Disciple 
According to the Pāli Suttas
Bhikkhu Bodhi

Bhikkhu Bodhi (2015). Investigating the Dhamma – A Collection of Papers. BPS, Kandy, Sri Lanka.

Extract:
... I will frame my study around three specific questions:

(1) Do the texts indicate that a worldling must attain jhāna before entering upon the "fixed course of rightness" (sammatta-niyāma), the irreversible path to stream-entry?

(2) Do the texts typically ascribe the jhānas to lay disciples who have attained stream-entry?

(3) If the texts do not normally attribute the jhānas to the stream-enterer, is there any stage in the maturation of the path where their attainment becomes essential?

(...)
Conclusions:
Our study has led us to the following conclusions regarding the relationship between lay noble disciples and the jhānas.

(1) Several suttas describe the process by which a worldling enters "the fixed course of rightness" in a way that emphasizes either faith or wisdom as the chief means of attainment. None of the texts, however, that deal with the two candidates for stream-entry – the faith-follower and the Dhamma-follower – show them as being proficient in the jhānas. Though some suttas include the jhānas in the analysis of the faculty of concentration, this may be done simply out of compliance with the formulaic style of definition employed by the Nikāyas and need not be seen as having categorical implications. The Commentaries treat these definitions as referring to the supramundane jhāna arisen within the supramundane path. Moreover, the analysis of the concentration faculty mentions another type of concentration, which is gained "by making release the object," and this may be interpreted broadly enough as including degrees of concentration short of the jhānas.

(2) All noble disciples acquire the right concentration of the Noble Eightfold Path, which is defined as the four jhānas. This need not be understood to mean that stream-enterers and once-returners already possess jhāna before they reach stream-entry. The formula for right concentration may imply only that they must eventually attain the jhānas in the course of developing the path to its culmination in arahantship. If we go along with the Commentaries in recognizing the Abhidhammic distinction between the preparatory path and the supramundane path, then we can maintain that the jhānas included in right concentration as a path factor pertain to the supramundane path and are thus of supramundane stature. This still leaves open the question whether aspirants for stream-entry must develop the mundane jhānas in the preliminary phase of their practice.

(3) A number of texts on stream-enterers and once-returners imply that they do not possess the jhānas as meditative attainments which they can enter at will. Though it is obvious that disciples at the lower two levels may have jhānic attainments, the latter are not declared to be an integral part of their spiritual equipment. 

(4) Several non-returners in the Nikāyas claim to possess all four jhānas, and according to the Mahāmāluṅkya Sutta, attainment of at least the first jhāna is part of the practice leading to the eradication of the five lower fetters. It thus seems likely that stream-enterers and once-returners desirous of advancing to non-returnership in that very same life must attain at least the first jhāna as a basis for developing insight. Those content with their status, prepared to let the "law of the Dhamma" take its course, generally will not strive to attain the jhānas. Instead, they settle for the assurance that they are bound to reach the final goal within a maximum of seven more lives passed in the human and celestial worlds.

(5) As non-returners have eliminated sensual lust and ill will, the main obstacles to jhānic attainment, they should face no major problems in entering the jhānas. The non-returner is similar to the ordinary jhāna-attainer in being bound for rebirth in the form realm. Unlike the latter, however, the non-returner is utterly free from sensual desire and ill will and thus can never fall back to the sensuous realm.

(6) Although in the Nikāyas the tie between the two attainments – the jhānas and non-returnership – is clear enough, it remains an open question whether the connection is absolutely binding. Several suttas speak of the achievements of non-returners without mentioning the jhānas, and at least one sutta contrasts the non-returner who gains all four jhānas with one who practises more austere types of meditation that do not typically lead to the jhānas.

*
- Read the full article online: http://budsas.net/ebud/ebdha267.htm
- Download a PDF copy of the full article: http://budsas.net/ebud/ebdha267.pdf 

*

Nhạc Việt – TỪ CÔNG PHỤNG (1942-)

Đây là một album sưu tập một số ca khúc quen thuộc của nhạc sĩ Từ Công Phụng. Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

* nviet24.zip (324 MB) – Tình ca Từ Công Phụng
https://mega.nz/#!WgolkRRa!CXzAD-_rpgCET6_c-08Hp2w86jCNmlI-wtRSr4r3_AQ

Track list  - Tình ca Từ Công Phụng, Acoustic Selection (2016)

01 Như chiếc que diêm ..... Ý Lan
02 Tình tự mùa xuân ..... Tuấn Ngọc
03 Giọt lệ cho ngàn sau ..... Mai Hương
04 Trên tháng ngày đã qua ..... Từ Công Phụng
05 Bây giờ tháng mấy ..... Sĩ Phú
06 Như ngọn buồn rơi ..... Tuấn Ngọc
07 Bây giờ tháng mấy (2) ..... Từ Công Phụng
08 Lời của thành phố ..... Từ Công Phụng
09 Bài cho em ..... Từ Công Phụng
10 Mùa thu mây ngàn ..... Tuấn Ngọc, Thái Hiền
11 Ngồi bên nhau ..... Từ Công Phụng
12 Mưa trên ngày tháng đó ..... Thanh Hà
13 Từ khúc ..... Từ Công Phụng
14 Kiếp dã tràng ..... Duy Quang
15 Mùa xuân trên đỉnh bình yên ..... Tuấn Ngọc
16 Mây hồng ..... Từ Công Phụng
17 Âm thầm mưa ..... Mai Hương
18 Đêm không cùng ..... Tuấn Ngọc
19 Đời bỗng phù du ..... Từ Công Phụng
20 Lời cuối ..... Khánh Hà
21 Trên ngọn tình sầu ..... Lê Dung
22 Người về trên mây ..... Từ Công Phụng
23 Mắt lệ cho người ..... Tuấn Ngọc
24 Xứ thâm trầm ..... Từ Công Phụng
25 Ơn em ..... Tuấn Ngọc
26 Trên ngọn tình sầu ..... Trần Thái Hòa
27 Trên ngọn tình sầu ..... Từ Công Phụng

*


Thursday, 22 December 2016

Nhạc Việt – VŨ THÀNH AN (1943-)

Đây là một album sưu tập một số ca khúc quen thuộc của nhạc sĩ Vũ Thành An. Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

* nviet23.zip (206 MB) – Tình khúc Vũ Thành An
https://mega.nz/#!D14jFCLa!FTuPX2LL9rHOCfBGiddxtD01HDYLN-GjvQxORKcGzxs

Tình khúc Vũ Thành An, Acoustic Selection

01- Lời Tình Buồn ..... Vũ Khanh
02- Bài KhôngTên Số 1 ..... Lệ Quyên
03- Đời Đá Vàng ..... Y Phương
04- Tình Khúc Thứ Nhất ..... Lệ Thu
05- Bài Không Tên Cuối Cùng ..... Elvis Phương
06- Bài Không Tên Cuối Cùng Trở Lại .... Tuấn Ngọc
07- Bài KhôngTên Số 7 ..... Hồ Hoàng Yến
08- Bài KhôngTên Số 2 ..... Xuân Phú
09- Bài KhôngTên Số 3 ..... Thiên Phượng
10- Bài KhôngTên Số 5 ..... Phương Nghi
11-Trong Tay Nhau ..... Anh Tú
12- Bài KhôngTên Số 8 ..... Nguyên Khang
13- Bài KhôngTên Số 4..... Khánh Hà
14- Bài KhôngTên Số 6 ..... Xuân Phú
15- Bài KhôngTên Số 9 ..... Lệ Quyên
16- Một Lần Nào Cho Tôi Gặp Lại Em ..... Thế Sơn
17- Đêm Say ..... Xuân Phú
18- Em Đến Thăm Anh Đêm 30..... Anh Dũng
19- Sầu Khúc..... Ngọc Anh
20- Đừng Yêu Tôi ..... Elvis Phương
*

Wednesday, 21 December 2016

Sách: Lợi ích của thiền hành

Lợi ích của thiền hành (The benefits of walking meditation)
Hòa thượng U Silananda (Bình Anson dịch).

Xin giới thiệu một tập sách nhỏ dạng song ngữ Anh-Việt tôi vừa mới hiệu đính lại, về pháp thiền đi kinh hành. Có thể đọc online hay tải về máy (dạng PDF):

=> http://budsas.net/sach/vn29.pdf

*

Monday, 19 December 2016

Bodhi-pakkhiyā dhammā - Các pháp (chi phần) đưa đến giác ngộ


Thường được gọi là "37 phần bồ-đề", nhưng thật ra, con số 37 chỉ được đề cập trong các chú giải, luận giải về sau nầy. Trong kinh tạng, Đức Phật chỉ đề cập đến 7 nhóm: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chi thánh đạo.

Về sau, các vị luận sư cộng tất cả các chi phần của 7 nhóm trên, tạo ra cụm từ "37 phần bồ-đề".

*

Tại Vesālī, Đức Phật dạy các tỳ-khưu:

- Này các tỳ-khưu, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các ngươi, các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài trời và loài người.

Này các tỳ-khưu, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài trời và loài người?

Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Như ý túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác chi, Tám chi Thánh đạo. Này các tỳ-khưu, các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài trời và loài người.

– Đại kinh Bát-niết-bàn, DN 16

*


Friday, 16 December 2016

Bát chi Thánh đạo là Pháp thừa (Dhammayāna), cỗ xe tối thượng.

Tương ưng bộ
45.Tương ưng Đạo
4. Bà-la-môn

Nhân duyên ở Savatthī. Tôn giả Ānanda, vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát, đi vào Savatthī để khất thực. Rồi Tôn giả Ānanda thấy bà-la-môn Jaṇussoṇi đi xe ra khỏi Savatthī, cỗ xe toàn ngựa trắng kéo. Trắng là những con ngựa kéo xe. Trắng là những đồ trang sức. Trắng là cỗ xe. Trắng là những bộ phận tùy thuộc (parivāro). Trắng là những sợi dây cương. Trắng là cây gậy thúc ngựa. Trắng là cái lọng. Trắng là cái khăn đội. Trắng là những quần áo. Trắng là giày mang. Và được quạt với cái quạt trắng. Quần chúng thấy vậy, liền nói: "Thật là cỗ xe thù thắng. Thật là cỗ xe thù thắng về dung sắc!"

Rồi Tôn giả Ānanda đi khất thực ở Savatthī xong, sau bữa ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:

– Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng, con đắp y, cầm y bát và đi vào Savatthī để khất thực. Bạch Thế Tôn, con thấy bà-la-môn Jaṇussoṇi đi xe ra khỏi Savatthī, cỗ xe toàn ngựa trắng kéo. Trắng là những con ngựa kéo xe ... “Thật là cỗ xe thù thắng. Thật là cỗ xe thù thắng về dung sắc!” Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể nói lên cỗ xe thù thắng trong Pháp và Luật này?

Thế Tôn nói:

– Có thể được, này Ānanda. Thánh đạo Tám ngành, này Ānanda, là đồng nghĩa với cỗ xe thù thắng, cỗ xe pháp này. Vô thượng là sự chinh phục trong chiến trận.

Chánh tri kiến, này Ānanda, được tu tập, được làm cho viên mãn, cuối cùng đưa đến nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si; Chánh tư duy … Chánh ngữ ... Chánh nghiệp ... Chánh mạng ... Chánh tinh tấn ... Chánh niệm ... Chánh định, này Ānanda, được tu tập, được làm cho viên mãn, cuối cùng đưa đến nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si.

Này Ānanda, chính với pháp môn này, các ông cần phải hiểu như sau: Cỗ xe thù thắng, cỗ xe Pháp (Dhammayāna, Pháp thừa), vô thượng là sự chinh phục trong chiến trận, là đồng nghĩa với Thánh đạo Tám ngành.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Bậc Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:

Ai được tín, trí tuệ,
Thường xuyên liên kết lại,
Lấy hổ thẹn làm cán,
Lấy ý làm ách xe.
Niệm là người đánh xe.

Biết hộ trì, phòng hộ,
Cỗ xe lấy giới luật
Làm vật dụng cho xe.
Thiền là trục bánh xe,
Tinh tấn là bánh xe,
Xả là định thường hằng,
Vô dục là nệm xe.

Vô sân và vô hại,
Viễn ly là binh khí,
Nhẫn nhục là áo giáp,
An ổn khỏi khổ ách,
Làm mục đích đạt đến,
Cỗ xe được chuyển vận.

Pháp này tự ngã làm,
Trở thành thuộc tự ngã,
Là cỗ xe thù thắng,
Vô thượng, không sánh bằng.
Ngồi trên cỗ xe ấy,
Bậc Trí thoát ly đời,
Chắc chắn, không sai chạy,
Họ đạt được chiến thắng.

– Hòa thượng Thích Minh Châu dịch 
(Bình Anson hiệu đính, 16/12/2016)

* * *

Saṃyutta Nikāya 45
Connected Discourses on the Path
4. The Brahmin

At Savatthī. Then, in the morning, the Venerable Ānanda dressed and, taking bowl and robe, entered Savatthī for alms. The Venerable Ānanda saw the brahmin Jaṇussoṇi departing from Savatthī in an all-white chariot drawn by mares. The horses yoked to it were white, its ornaments were white, the chariot was white, its upholstery was white, the reins, goad, and canopy were white, his turban, clothes, and sandals were white, and he was being fanned by a white chowry. People, having seen this, said: “Divine indeed, sir, is the vehicle! It appears to be a divine vehicle indeed, sir!”

Then, when the Venerable Ānanda had walked for alms in Savatthī and returned from his alms round, after his meal he approached the Blessed One, paid homage to him, sat down to one side, and said to him:

“Here, venerable sir, in the morning I dressed and, taking bowl and robe, entered Savatthī for alms. I saw the brahmin Jaṇussoṇi departing from Savatthī in an all-white chariot drawn by mares … People, having seen this, said: ‘Divine indeed, sir, is the vehicle! It appears to be a divine vehicle indeed, sir!’ Is it possible, venerable sir, to point out a divine vehicle in this Dhamma and Discipline?”

“It is possible, Ānanda,” the Blessed One said. “This is a designation for this Noble Eightfold Path: ‘the divine vehicle’ and ‘the vehicle of Dhamma’ and ‘the unsurpassed victory in battle.’

“Right view, Ānanda, when developed and cultivated, has as its final goal the removal of lust, the removal of hatred, the removal of delusion. Right intention … Right concentration, when developed and cultivated, has as its final goal the removal of lust, the removal of hatred, the removal of delusion.

“In this way, Ānanda, it may be understood how this is a designation for this Noble Eightfold Path: ‘the divine vehicle’ and ‘the vehicle of Dhamma’ and ‘the unsurpassed victory in battle.’”

This is what the Blessed One said. Having said this, the Fortunate One, the Teacher, further said this:

“Its qualities of faith and wisdom
Are always yoked evenly together.
Shame is its pole, mind its yoke-tie,
Mindfulness the watchful charioteer.

“The chariot’s ornament is virtue,
Its axle jhana, energy its wheels;
Equanimity keeps the burden balanced,
Desirelessness serves as upholstery.

“Good will, harmlessness, and seclusion:
These are the chariot’s weaponry,
Forbearance its armour and shield,
As it rolls towards security from bondage.

“This divine vehicle unsurpassed
Originates from within oneself.
The wise depart from the world in it,
Inevitably winning the victory.”

– Translated by Bhikkhu Bodhi

*

Thursday, 15 December 2016

Đại thử xứ Úc


Ngồi lướt web tìm thông tin, bản đồ, hướng dẫn du lịch ở những nơi tôi dự định viếng thăm trong chuyến du hành sắp tới, rồi nghĩ đến những nơi mình đã từng đi qua.

Mỗi người có một ý thích khác nhau, không ai giống ai. Riêng tôi, tôi chỉ thích đi thăm viếng các quốc gia trong vùng Đông Nam Á và Nam Á. Tôi đã từng đi viếng thăm bà con, bạn bè ở Mỹ một lần vào năm 1996 rồi thôi, cảm thấy đã đủ, không có ý định trở lại vùng đất ấy nữa. Gần đây có người rủ tôi đăng ký một tour du lịch Âu châu và một tour du lịch Trung Quốc và Nhật Bản vào năm tới, tôi từ chối vì không thấy hứng thú.

Mỗi lần đi viếng các nước trong vùng Đông Nam Á và Nam Á, tôi cảm thấy quen thuộc, gần gũi với người địa phương mặc dù không biết nói tiếng của họ, ngoại trừ tiếng Thái. Tôi viếng Sri Lanka hai lần, lần nào cũng hân hoan, vui thích. Nhất là khi đến Polonnaruwa, kinh đô của xứ nầy vào thế kỷ XI, tôi thấy như thể trở về quê xưa. Lần mới đây trên đường đi hành hương, tôi bị một tai nạn nhỏ và tài xế đưa tôi đến bệnh viện trung ương của thành phố đó. Trong phòng đợi có cả trăm bệnh nhân mà chỉ có tôi là người nước ngoài. Hầu như tất cả mọi người, từ các vị bác sĩ, y tá, nhân viên văn phòng, cho đến bệnh nhân đều rất thân thiện, tử tế. Sau khi được khám bệnh, cho thuốc, tôi không phải trả một khoản lệ phí nào. Họ xem tôi như thể là một người dân địa phương.

Trong hai chuyến hành hương Phật tích ở Ấn Độ, một lần đi viếng Campuchia, Lào và Myanmar, tôi đều có những cảm giác tương tự, không cảm thấy xa lạ, rất dễ hòa đồng với người dân tại các nước đó. Còn Thái Lan thì quá thân quen. Tôi đã từng đi học ở đó, nói được chút ít tiếng Thái đủ để chào hỏi, mua sắm, hỏi thăm đường đi, và có thể tự mình đi khắp nơi, sử dụng các phương tiện di chuyển công cộng như mọi người dân Thái.

Ngẫm nghĩ, có lẽ trong những kiếp trước mình đã từng là Phật tử sinh sống tại các quốc độ đó, cho nên mới có những cảm giác thân quen, gần gũi như thế.

Còn Việt Nam thì tôi sinh ra, lớn lên ở Sài Gòn, đã từng đi học ở Đà Lạt và Rạch Giá. Trong 25 năm qua, tôi đã trở về nhiều lần, thăm viếng các tỉnh thành và thôn quê từ nam ra bắc dọc theo bờ biển hình chữ S.

Riêng tại xứ Úc nầy, nơi tôi sinh sống gần 40 năm qua, tôi đã đi viếng nhiều nơi. Do tính chất của công việc, tôi đã từng đến làm việc ở các vùng nông trại miền quê, vùng khai thác quặng mỏ, cũng như các vùng bán sa mạc khô khan với vài cụm dân bản địa. Đi đến đâu cũng thấy thoải mái, hòa đồng. Có thể tôi đã từng là một trong những con kăng-ga-ru tung tăng chạy nhảy đó đây trong rừng núi, và có lẽ một ngày đẹp trời nào đó trong tương lai, cuộc đời tôi sẽ kết thúc tại xứ đại thử nầy.


– Bình Anson, 15/12/2016

---------------------
GHI THÊM: Có lẽ nhiều bạn thắc mắc về từ “đại thử”. Đại thử ở đây không có nghĩa là thử làm đại, hay thử làm mặt lớn. Đại 袋 là cái túi, bao, bị. Thử 鼠 là con chuột. “Đại thử” 袋鼠 là con chuột túi, con kăng-ga-ru.


*

Tuesday, 13 December 2016

Thư viện PHẬT HỌC BuddhaSasana

THƯ VIỆN PHẬT HỌC BUDDHASASANA
Phiên bản 2019-07

Thỉnh thoảng tôi nhận được email xin đĩa CD/DVD Phật Học mà tôi đã ấn tống từ năm 2001, quảng bá đến các nhóm Phật tử khắp nơi trên thế giới. Tuy nhiên, tôi đã ngưng công việc này vào cuối năm 2010, sau 10 năm liên tục cập nhật và phổ biến đĩa CD/DVD đó.

Quý vị có thể vào địa chỉ dưới đây, tải về một tập tin nén dạng ZIP, “budsas-dvd_201907.zip” dung lượng 382 MB. Sau khi giải nén bỏ vào ỗ đĩa cứng, ngăn chứa “budsas-dvd_201907” sẽ được tạo ra. Truy cập bằng cách khởi động tập tin start.htm (click, bấm vào đó).

Đây là một phiên bản thu gọn trích từ trang web Phật giáo BuddhaSasana (www.budsas.net), không có phần hình ảnh và âm thanh.

Địa chỉ tải file:
 


* * *





Friday, 9 December 2016

Nhạc hòa tấu - JAMES LAST (1929-2015)

Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

nht14.zip – James Last, Gold Greatest Hits (2 CDs, 2009), 371 MB
https://mega.nz/#!2pIlCBpY!FZr3_PKWqZ_Xs4THpxfm84ncr9370PYqO7IJdrMKCIE

*
CD1
01. The Lonely Shepherd
02. Petite Fleur
03. Verlorener Sommer
04. A Media Luz
05. Little Man
06. Les Mers Mortes
07. Concierto de Aranjuez
08. Tico Tico
09. Zwei Gitarren
10. Nabucco
11. Symphony №40
12. Games That Lovers Play
13. Copacabana
14. Barcarole
15. Hava Nagilah
16. Last Tango Of Paris
17. The House of The Rising Sun
18. Moonlight Sonata
19. Granada
20. Eine Kleine Nachtmusik
21. The Londonderry Air
22. Endless Jorney

CD2
01. Sacrifice
02. From A Distance
03. Nicht der Wind
04. El Condor Pasa
05. Fur Elise
06. (Everything I Do) I Do It For You
07. Yosaku
08. Quizas, Quizas, Quizas
09. Country Train
10. Andante Aus Simfonia Concertante KV 364
11. Hotel California
12. Les Oiseaux De La Meret Du Soleil
13. Moon River
14. Kosaken Patrouille
15. Happy Heart
16. Guantanamera
17. Yesterday
18. Abendglocken
19. March of The Toreadors
20. Spanish Eyes
21. Der Rote Sarafan
22. Moulin Rouge

*

Thursday, 8 December 2016

Cờ Phật giáo có 5 hay 6 màu?

Chúng ta thường nghe nói cờ Phật giáo là cờ ngũ sắc, gồm 5 màu: xanh dương (nila), vàng (pita), đỏ (lohita), trắng (odata), cam (manjestha). Có người bình giải rằng đó là tượng trưng cho ngũ căn và ngũ lực: tín, tấn, niệm, định, huệ. Có đúng thế không?

Thật ra, cờ Phật giáo có 6 màu, 5 màu đầu tiên được liệt kê như trên, và màu thứ sáu là màu sáng chói (prabhasvara), do 5 màu kia kết hợp lại. Do đó, cờ có 6 vạch đứng, vạch thứ sáu có 5 phần ngang tượng trưng cho sự kết hợp của 5 màu kia.

Cờ nầy do Ủy ban Bảo vệ Phật giáo (Buddhist Defence Committee) ở Colombo, Sri Lanka, cùng với ông H. S. Olcott (Phật tử Mỹ), thiết kế và dùng trong dịp lễ Vesak, vào năm 1885. Về sau, vào năm 1950, lá cờ này được các đại biểu tham dự hội nghị PG, do Hội Liên hữu Phật giáo Thế giới (WBF, World Buddhist Fellowship) tổ chức, chấp thuận sử dụng như là lá cờ Phật giáo chung cho các cộng đồng Phật tử trên toàn thế giới.

Sáu màu nầy là dựa theo truyền thuyết ghi lại trong quyển Atthasālīnī (Chú giải bộ Pháp tụ). Trong tuần lễ thứ tư sau ngày Thành Đạo, Đức Phật ngồi thiền, chiêm nghiệm về Vi diệu pháp (A-tỳ-đàm, Abhidhamma), toàn thân Ngài phát hào quang gồm 6 màu nêu trên. Vì thế, 6 màu đó tượng trưng cho Đức Phật của chúng ta.

*

*


Sách: Phật pháp vấn đáp

Bhikkhu Dhammika - GOOD QUESTION, GOOD ANSWER
Khéo vấn, khéo đáp (Phạm Kim Khánh dịch, Bình Anson hiệu đính & bổ sung)

Xin giới thiệu một tập sách Phật học căn bản, gồm những câu hỏi và trả lời về các vấn đề căn bản và phổ thông trong Đạo Phật, mà giới cư sĩ chúng ta cần nên biết.

Đọc online hay tải về máy, dạng PDF:

1) Bản Anh ngữ -
http://budsas.net/sach/en102_english.pdf

2) Bản Việt ngữ (ấn bản 2019) -
http://budsas.net/sach/en102_viet.pdf

*


*


Tuesday, 6 December 2016

Ngài Bồ-tát nhập sơ thiền ở gốc cây Mận hay cây Trâm?

Trong bài kinh Mahāsaccaka sutta (Ðại kinh Saccaka, MN 36) và Bodhirajākumāra sutta (Kinh Vương tử Bồ-đề, MN 85), Đức Phật kể lại lúc ngài Bồ-tát còn trẻ, ngài đã từng nhập sơ thiền khi ngồi dưới bóng mát của cây Jambu trong khi vua cha của bộ tộc Thích-ca làm việc. Như thế, cây Jambu là cây gì?

Đoạn kinh văn ấy như sau, các câu tiếng Anh tương ứng là của Bhikkhu Ānandajoti dịch:

Abhijānāmi kho panāhaṁ Pitu Sakkassa kammante,
‘But I recall that while my Sakyan Father was at work,

sītāya jambucchāyāya nisinno,
while I was sitting in the cool of the shade of the Rose-Apple tree,

vivicceva kāmehi, vivicca akusalehi dhammehi,
quite secluded from sense desires, secluded from unwholesome things,

savitakkaṁ savicāraṁ vivekajaṁ pītisukhaṁ,
having thinking, reflection, and the happiness and rapture born of seclusion,

paṭhamaṁ jhānaṁ upasampajja viharitā.
I dwelt having attained the first absorption.

Theo bản dịch Việt của Hòa thượng Thích Minh Châu:

“Ta nhớ, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm, có tứ.”

Hòa thượng Minh Châu không dịch “jambu”, chỉ phiên âm là “diêm-phù”. Bốn bản dịch tiếng Anh của Bhikkhu Ānandajoti, Bhikkhu Bodhi, Bhikkhu Thanissaro và Ni sư Upalavanna đều dịch ”jambucchāyāya” là “in the cool shade of a rose-apple tree”, trong đó, “jambu” dịch là “rose apple tree”.

Theo từ điển của R.L. Turner (A comparative dictionary of Indo-Aryan languages. London: Oxford University Press, 1962-1966):

- Jambu: the rose-apple tree, Eugenia jambolana. Từ nầy có liên hệ đến từ Jamburukkha và Jambula, đều dịch là Eugenia jambolana.

Từ điển Pali-English của Pali Text Society cũng dịch như thế.

Theo Wikipedia, loại cây Eugenia jambolana có tên thực vật là SYZYGIUM CUMINI, còn được biết qua các tên gọi: jambul, jambolan, jamblang, jamun. Đây là loại cây có nguồn gốc trong vùng tiểu lục địa Ấn Độ (Indian subcontinent) và các vùng lân cận (India, Bangladesh, Pakistan, Nepal, Sri Lanka, Malaysia, Philippines, Indonesia). Ngoài kinh điển Phật giáo, loại cây nầy cũng được đề cập trong kinh điển Ấn Độ giáo.

Cây SYZYGIUM CUMINI được ghi nhận ở đây có tên thông dụng là Java plum, Portuguese plum, Malabar plum, Black plum, Purple plum, Damson plum, và Indian blackberry. Tên tiếng Việt là cây TRÂM.

Tôi không biết lý do nào mà các dịch giả kinh điển tiếng Anh lại dịch là “rose apple”. Nếu dịch Jambu là “rose apple” có thể tạo ra vài sự hiểu lầm. Từ “rose apple” có thể hiểu là loại SYZYGIUM JAMBOS (cây Lý, roi hoa vàng, mận hoa vàng) – loại cây có nguồn gốc trong vùng Đông Nam Á, hoặc loại SYZYGIUM SAMARANGENSE (hay Syzygium javanicum, Eugenia javanica) tức là cây Mận (roi/gioi) có nguồn gốc từ bán đảo Malaysia và các đảo lớn trong biển Ấn Độ Dương. Hai loại cây nầy không phải là loại có nguồn gốc ở tiểu lục địa Ấn Độ.

*

Tóm lại, từ các thông tin tôi thu thập và tìm hiểu, có lẽ cây Jambu được đề cập trong bài kinh số 36 và 85 trong Trung bộ là cây SYZYGIUM CUMINI (jambul, jambolan, jamblang, jamun) mà tên tiếng Việt là cây TRÂM, là giống cây có nguồn gốc tại tiểu lục địa Ấn Độ.

Đây là kết luận của tôi tại thời điểm nầy, có thể sẽ được chỉnh sửa trong tương lai nếu có thêm các thông tin mới.

– Bình Anson, Perth, Tây Úc, 06/12/2016

----------------------------
GHI CHÚ:
1) Theo trang web http://blogcaycanh.vn/cay_canh/d/cay-tram-tram-moc-tram-voi-voi-rung
…”Cây Trâm, hay Trâm mốc, trâm vối hay vối rừng, danh pháp khoa học hai phần: Syzygium cumini, tên tiếng Pháp là Jamblon hay Jamelonier, là cây thường xanh nhiệt đới thuộc chi Trâm (Syzygium), họ Đào Kim Nương (Myrtaceae), bản địa của Bangladesh, Ấn Độ, Nepal, Pakistan, Sri Lanka và Indonesia. Cây cũng có mặt ở các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.”

2) “Jambu” trong thuật ngữ Phật giáo Hán Việt được phiên âm thành 2 từ: 贍部: thiệm-bộ và 閻浮 diêm-phù. Diêm-phù-đề, 閻浮提, là phiên âm của Jampudīpa – đảo (châu) có cây diêm-phù (jambu), đồng nghĩa với 南贍部洲 Nam thiệm-bộ châu – đảo (châu) ở phương Nam, có cây thiệm-bộ (jambu).

*

Nhạc quốc tế – THE BROTHERS FOUR

Đây là ban tứ ca Mỹ mà tôi thích nghe từ thời còn đi học, đến bây giờ thỉnh thoảng vẫn thích nghe lại và hát theo.

Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

nqt11.zip – The Brothers Four, Gift Pack Series (154 MB)
=> https://mega.nz/#!uoIhkI5J!rUvp95smowxaWFtgnbOEP7MUYQ1eUt4Kj8GSjyfTOHU

*

Tôi có nhiều kỷ niệm với bài hát THE GREEN LEAVES OF SUMMER của ban nhạc nầy – về sau, Tuấn Dũng của ban Mây Trắng dịch lời Việt với tựa đề Lá Xanh Mùa Hè. Năm tôi 9, 10 tuổi gì đó, ông anh dẫn tôi đi xem ciné tại rạp hát Casino Đa Kao, phim The Alamo, một loại phim cao bồi với John Wayne thủ vai Davy Crockett. Tôi thích phim nầy, và luôn nhớ âm điệu bài hát trong phim mặc dù không nhớ hay hiểu biết gì về lời bài hát.

Mãi về sau, khi lớn lên, sang du học tại Thái Lan, cùng họp nhóm ca hát với các bạn sinh viên quốc tế, mới biết bài hát mà mình thích từ thuở nhỏ là bài The Green Leaves of Summer do The Brothers Four hát, và là bài hát nổi tiếng khắp nơi.

Bây giờ rạp hát Casino Đa Kao vẫn còn đó, trở thành rạp hát Cầu Bông, ở cuối đường Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao, Q.1, Sài Gòn.

*

*

Sunday, 4 December 2016

Nhạc Việt - Nhạc sĩ NGUYỄN ÁNH 9 (1940-2016)

Đây là một album sưu tập một số ca khúc quen thuộc của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9. Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

* nviet22.zip (244 MB) – Nguyễn Ánh 9, Acoustic Selection
https://mega.nz/#!j8YDlSza!ipoXSC2EWWWiTUYTVmp_YE_O2l2Ze3AUkH2HG2amk2A

Theo lời người sưu tầm kể lại, khi tiếp xúc và trò chuyện với nhạc sĩ NA9, nhạc sĩ đánh giá các ca sĩ hát những bài hát trong album nầy là ông ưng ý nhất.

*
Nhạc tuyển - Nguyễn Ánh 9, Acoustic Selection

01 Cô Đơn ....................... Tấn Minh, Saxophone: Quyền Thiện Đắc
02 Ai Đưa Em Về ................. Nguyễn Ánh 9
03 Không ........................ Elvis Phương
04 Ni (Không) ................... Teresa Teng (Đặng Lê Quân)
05 Ai Đưa Em Về ................. Thụy Long
06 Một Lời Cuối Cho Em .......... Quỳnh Lan
07 Trọn Kiếp Đơn Côi ............ Ngọc Anh
08 Tình Khúc Chiều Mưa .......... Lệ Thu
09 Mùa Thu Cánh Nâu ............. Hồng Hạnh
10 Kỷ Niệm ...................... Quỳnh Lan
11 Buồn Ơi, Chào Mi ............. Nguyên Thảo
12 Cho Ngưòi Tình Xa ............ Hoàng Kim
13 Tiếng Hát Lạc Loài ........... Xuân Phú
14 Ai Đưa Em Về ................. Quỳnh Lan
15 Biệt Khúc .................... Trọng Bắc
16 Mênh Mông Tình Buồn .......... Nguyên Thảo
17 Lặng Lẽ Tiếng Dương Cầm ...... Diệu Hiền
18 Bơ Vơ ........................ Diệu Hiền
19 Lối Về ....................... Trần Thu Hà
20 Tình Yêu Đến Trong Giã Từ .... Hương Giang
21 Cô Đơn ....................... Trần Thu Hà

*

Thiền và bốn phép toán căn bản

CỘNG, TRỪ, NHÂN, CHIA

Trong buổi đầu tiên của khóa thiền dành cho người bắt đầu (Beginners’ Meditation Class) tổ chức mỗi tháng tại Trung tâm Phật giáo Dhammaloka, Tây Úc, tôi thường tâm sự với các bạn thiền sinh mới quen là bốn bài tập trong khóa cũng giống như bốn phép toán căn bản: cộng, trừ, nhân, chia.

Khi còn học bậc tiểu học, dù là học ở Úc, Mỹ, Pháp, hay Thái lan, Miến Điện, Nhật Bản, v.v. với các thứ tiếng khác nhau, có thể cách giảng dạy khác nhau của nhiều vị thầy khác nhau, nhưng trên cơ bản cũng chỉ là học và thực hành thuần thục, nhuần nhuyễn bốn phép toán căn bản đó. Khi lớn lên, cho dù là đại gia hay công nhân, dù là tổng thống hay dân quèn, dù là giáo sư tiến sĩ hay người bán hàng rong, cũng chỉ sử dụng bốn phép toán ấy trong các sinh hoạt hằng ngày.

Ngay cả chính tôi, dù hành thiền nhiều năm, nhìn chung, cũng chỉ loanh quanh luẩn quẩn có bấy nhiêu.

Mời đến đọc các bản hướng dẫn tóm tắt, dịch từ bản tiếng Anh được phổ biến đến các thiền sinh trong khóa thiền hằng tháng tại Tây Úc trong nhiều năm qua:

=> http://budsas.net/dlpp/bai55/index.htm

Có thể tải bản PDF để in trên giấy A4:
=> http://budsas.net/dlpp/bai55/bon_bai_tap_can_ban.pdf

*

Saturday, 3 December 2016

Kinh Lá rừng Simsapā (SN 56:31)

(Giới thiệu: Ðây là bài kinh rất phổ thông cho các Phật tử. Ðức Phật dạy tuy rằng Ngài biết rất nhiều nhưng Ngài chỉ giảng dạy những gì cần thiết để giác ngộ. Đó là Tứ Thánh Đế).

Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại rừng Simsapā. Rồi Thế Tôn lấy tay nhặt lên một ít lá Simsapā, rồi bảo các tỳ-khưu :

– "Các ông nghĩ thế nào, này các tỳ-khưu, cái gì là nhiều hơn, một số ít lá Simsapà mà Ta nắm lấy trong tay, hay lá trong rừng Simsapā?"

– "Thật là quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá Simsapā mà Thế Tôn nắm lấy trong tay, và thật là quá nhiều lá trong rừng Simsapā."

– "Cũng vậy, này các tỳ-khưu, thật là quá nhiều, những gì Ta đã thắng tri mà không nói cho các Ông! Thật là quá ít những gì mà Ta đã nói ra! Nhưng tại sao, này các tỳ-khưu, Ta lại không nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các tỳ-khưu, những điều ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta không nói lên những điều ấy.

"Và này các tỳ-khưu, điều gì mà Ta nói ? 'Ðây là khổ', này các tỳ-khưu, là điều Ta nói. 'Ðây là khổ tập', là điều Ta nói. 'Ðây là khổ diệt', là điều Ta nói. 'Ðây là con đường đưa đến khổ diệt', là điều Ta nói.

"Nhưng tại sao, này các tỳ-khưu, Ta lại nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các tỳ-khưu, những điều ấy liên hệ đến mục đích, là căn bản cho phạm hạnh, đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta nói lên những điều ấy.

"Do vậy, này các tỳ-khưu, một cố gắng cần phải làm để rõ biết : 'Ðây là khổ', một cố gắng cần phải làm để rõ biết : 'Ðây là khổ tập', một cố gắng cần phải làm để rõ biết : 'Ðây là khổ diệt', một cố gắng cần phải làm để rõ biết : 'Ðây là con đường đưa đến khổ diệt'".

– Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

––––
The Simsapa Leaves (SN 56:31)

Once the Blessed One was staying at Kosambi in the Simsapa forest. Then, picking up a few Simsapa leaves with his hand, he asked the monks:

– "How do you construe this, monks: Which are more numerous, the few Simsapa leaves in my hand or those overhead in the Simsapa forest?"

– "The leaves in the hand of the Blessed One are few in number, lord. Those overhead in the forest are far more numerous."

– "In the same way, monks, those things that I have known with direct knowledge but have not taught are far more numerous [than what I have taught]. And why haven't I taught them? Because they are not connected with the goal, do not relate to the rudiments of the holy life, and do not lead to disenchantment, to dispassion, to cessation, to calm, to direct knowledge, to self-awakening, to Nibbana. That is why I have not taught them.

"And what have I taught? 'This is suffering...This is the origination of suffering...This is the cessation of suffering...This is the path of practice leading to the cessation of suffering ': This is what I have taught.

And why have I taught these things? Because they are connected with the goal, relate to the rudiments of the holy life, and lead to disenchantment, to dispassion, to cessation, to calm, to direct knowledge, to self-awakening, to Nibbana. This is why I have taught them.

"Therefore your duty is the contemplation, 'This is suffering...This is the origination of suffering...This is the cessation of suffering.' Your duty is the contemplation, 'This is the path of practice leading to the cessation of suffering.'"

– English translation by Bhikkhu Thanissaro
*

Thursday, 1 December 2016

Nhạc Việt - TRỊNH CÔNG SƠN (1939-2001), Acoustic Selection

Chắc ai cũng nghe, biết, và hát những bài hát của TCS, không cần phải giới thiệu thêm. Ở đây là một bộ sưu tập 5 albums do nhiều ca sĩ hát, của một bạn yêu âm nhạc trong diễn đàn HDVietnam tuyển lựa, để nghe trong đêm khuya vắng lặng …

Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:

nviet18.zip (133 MB) – Trịnh Công Sơn, Acoustic Selection Album 1
https://mega.nz/#!n4RQHBJB!-tNMojbgkoWn4qDwsCoz3p1Aiu-sxKY67e7AphUcZyc

nviet19.zip (275 MB) – Trịnh Công Sơn, Acoustic Selection Album 2 & 3
https://mega.nz/#!KgxVXS7A!AmrVAC3sObY17YoyKgWbsCagScSbDwA_Qlulqbqf9UY

nviet20.zip (137 MB) – Trịnh Công Sơn, Acoustic Selection Album 4
https://mega.nz/#!OkYkGKYb!K6BvEle6ZwhFcy0SEkzoJv2uP4QTq0NHV83GCwwTz0c

nviet21.zip (134 MB) – Trịnh Công Sơn, Acoustic Selection Album 5
https://mega.nz/#!msYyDLTS!fNOLA1oom_e8tfdnbftKn5-WOxux7n88bvUNGoE-l2U

*
Trịnh Công Sơn in Acoustic, Selection
teafortwo52, www.hdvietnam.com (2015)

Album 1
01- Cánh Chim Cô Đơn ..... Thái Hòa
02- Ru Đời Đã Mất ..... Hiền Thục
03- Ướt Mi ..... Cẩm Vân
04- Nắng Thủy Tinh ..... Phạm Thu Hà
05- Nhìn Những Mùa Thu Đi ..... Hồng Hạnh
06- Diễm Xưa ..... Thái Hòa
07- Tình Nhớ ..... Thiên Kim
08- Hạ Trắng ..... Lô Thủy
09- Lời Buồn Thánh ..... Giang Trang
10- Như Một Vết Thương ..... Khánh Ly
11- Gọi Tên Bốn Mùa ..... Phạm Thu Hà

Album 2
12- Phôi Pha ..... Thái Hòa
13- Vuờn Xưa ..... Thái Hòa
14- Cũng Sẽ Chìm Trôi ..... Hồng Nhung
15- Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ ..... Mỹ Tâm
16- Ở Trọ ..... Lô Thủy
17- Chuyện Đóa Quỳnh Hương ..... Thái Hòa
18- Như Cánh Vạc Bay ..... Thanh Lam
19- Nghe Tiếng Muôn Trùng ..... Thái Hòa
20- Lời Ở Phố Về ..... Giang Trang
21- Tình Xa ..... Nguyễn Toàn
22- Tình Nhớ ..... Trần Thu Hà
23- Tình Sầu ..... Hiền Thục

Album 3:
24- Rồi Như Đá Ngây Ngô ..... Thu Phương
25- Vết Lăn Trầm ..... Trần Thu Hà
26- Người Con Gái Việt Nam Da Vàng ..... Trịnh Công Sơn
27- Đại Bác Ru Đêm ..... Trịnh Công Sơn
28- Tình Ca Người Mất Trí ..... Khánh Ly
29- Cát Bụi ..... Thái Hòa
30- Tình Khúc Ơ Bai ..... Thái Hòa
31- Xin Cho Tôi ..... Thủy Tiên
32- Hát Cho Người Nằm Xuống ..... Nguyễn Toàn
33- Giọt Lệ Thiên Thu ..... Phạm Thu Hà
34- Bay Đi Thầm Lặng ..... Thái Hòa
35- Sóng Về Đâu ..... Quỳnh Lan
36- Rừng Xưa Đã Khép ..... Lê Dung
37- Còn Tuổi Nào Cho Em ..... Hiền Thục

Album 4.
38- Tôi Ru Em Ngủ  ..... Lê Hiếu
39- Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng  ..... Nguyễn Hồng Nhung
40- Im Lặng Thở Dài ..... Khánh Ly
41- Cho Đời Chút Ơn ..... Mai Trang
42- Phúc Âm Buồn ..... Thái Hòa
43- Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói ..... Giang Trang
44- Này Em Có Nhớ ..... Thu Phương
45- Xin Trả Nợ Người ..... Trần Thu Hà
46- Hoa Vàng Mấy Độ ..... Thái Hòa
47- Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui ..... Khánh Ly
48- Như Tiếng Thở Dài ..... Giang Trang
49- Một Lần Thoáng Có ..... Thủy Tiên

Album 5.
50- Em Đi Bỏ lại Con Đường ..... KhánhLy
51- Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên ..... Thái Hòa
52- Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng ..... Thái Trân
53- Góp Lá Mùa Xuân ..... Giang Trang
54- Bốn Mùa Thay Lá ..... Thái Hòa
55- Đời Cho Ta Thế ..... Thủy Tiên
56- Như Một Lời Chia Tay ..... Chính Duật
57- Môi Hồng Đào ..... Hiền Thục
58- Về Nơi Cuối Trời ..... Kim Lan & Đỗ Trung Quân
59- Vẫn Có Em Bên Đời ..... Giang Trang
60- Vẫn Nợ Cuộc Đời ..... Lô Thủy
61- Yêu Dấu Tan Theo .....  Trịnh Vĩnh Trinh


*

Wednesday, 30 November 2016

Tu học là một tiến trình hình xoắn

Chúng ta thường có quan niệm đơn giản về con đường tu học, theo một tiến trình đường thẳng, phải xong bước 1, rồi tiến đến bước 2, rồi bước 3, v.v. Tuy nhiên, theo tôi, con đường tu học là một tiến trình hình xoắn – như cái lò xo, hay cầu thang xoắn trong nhà. Nếu quy chiếu về mặt phẳng 2 chiều (2-D), nó là một vòng tròn. Nhìn vào đó, ta có cảm tưởng như là một vòng lẫn quẫn. Nhưng nhìn trong không gian 3 chiều (3-D), tiến trình đó đưa ta thăng tiến, đi lên.

Khi đưa ra ý niệm hình xoắn, tôi nghĩ đến các chi pháp trong một số bài giảng Đức Phật dạy ta phải tu tập. Thí dụ về hai tiến trình chắc ai cũng biết: Giới-Định-Tuệ và Văn-Tư-Tu. Thông thường, chúng ta nghĩ đó là tiến trình đường thẳng, phải xong bước 1, rồi sang bước 2, rồi bước 3. Nhưng theo tôi, đó là tiến trình hình xoắn:

Giới (1), Định (1), Tuệ (1)
Giới (2), Định (2), Tuệ (2)
Giới (3), Định (3), Tuệ (3)
...

Văn (1), Tư (1), Tu (1)
Văn (2), Tư (2), Tu (2)
Văn (3), Tư (3), Tu (3)
...
Cấp (3) cao hơn cấp (2), cấp (2) cao hơn cấp (1), v.v.

Nếu quy chiếu xuống mặt phẳng 2-D, chúng ta thấy lẫn quẫn chỉ có bấy nhiêu, Giới-Định-Tuệ hay Văn-Tư-Tu. Nhưng nhìn xuyên suốt trong quãng đường tu tập, tiến trình đó có chiều sâu, thăng tiến (không gian 3-D). Mức độ Giới-Định-Tuệ hay Văn-Tư-Tu của ta ngày hôm nay phải khá hơn, tốt hơn mức độ Giới-Định-Tuệ hay Văn-Tư-Tu ngày trước.

Nhưng cũng có khi ta tự thấy thỏa mãn ở một cấp độ nào đó, dừng lại nghỉ ngơi vui hưởng, không tiếp tục bước lên nữa (hay tự mãn, tự kiêu, tự đắc, rồi sinh buông lung, phóng dật – tiến trình đó cũng có thể kéo ta đi xuống!).

*

Tuesday, 29 November 2016

Về Dukkha - Khổ

DUKKHA - Khổ
Bhikkhu Analayo, Satipaṭṭhāna: The Direct Path to Realization, pp 244-245.

DUKKHA thường được dịch là "khổ" (suffering). Đau khổ, tuy nhiên, chỉ là một khía cạnh của DUKKHA, một thuật ngữ có phạm vi ảnh hưởng khó nắm bắt với một từ tiếng Anh (hay tiếng Việt) duy nhất. DUKKHA (Sanskrit: DUḤKHA) có thể xem như bắt nguồn từ tiếng Phạn Sanskrit KHA, có nghĩa là "trục lỗ của một bánh xe", và tiền tố DUḤ ( = dus), có nghĩa là "khó khăn" hay "thứ xấu". Toàn từ đó đó gợi lên hình ảnh của một trục bánh xe không vừa vặn đặt vào lỗ của trung tâm bánh xe (làm cho xe lăn bánh khập khễnh). Hình ảnh này cho thấy DUKKHA (khổ) chỉ sự "bất hòa" (disharmony) hay "cọ xát, ma sát" (friction). Ngoài ra, DUKKHA có thể liên quan đến từ STHA trong tiếng Phạn, nghĩa là "đứng" hoặc "tuân thủ", kết hợp với tiền tố DUḤ. Như thế, DUKKHA có nghĩa "đứng trụ khó khăn", truyền đạt trạng thái của "lo lắng, khó khăn" (uneasiness) hay là "không thoải mái" (uncomfortable). Để nắm bắt được những sắc thái khác nhau của "DUKKHA", có lẽ cách dịch thích hợp nhất là "bất toại ý, không vừa lòng" (unsatisfactoriness), mặc dù có lẽ tốt hơn hết là giữ nguyên, không dịch.

Nhu cầu về sự dịch thuật thận trọng của từ nầy có thể được chứng minh qua một đoạn kinh trong Tương ưng Nhân Duyên (Nidāna Saṃyutta) của Tương ưng bộ, Đức Phật nói rằng bất cứ điều gì được cảm thọ là bao gồm DUKKHA (SN 12:51). Hiểu rằng DUKKHA ở đây như là một tính chất tình cảm và nếu ngầm ý rằng tất cả các cảm thọ đang "đau khổ" thì lại trái nghịch với sự phân tích của Đức Phật về cảm thọ có ba loại phân biệt rõ ràng, đó là thọ khổ, thọ lạc và thọ trung tính (không khổ không lạc). Trong một dịp khác, Đức Phật giải thích lời tuyên bố của Ngài trước đó rằng "bất cứ điều gì được cảm thọ đều bao gồm trong DUKKHA" để chỉ tính chất vô thường của mọi hiện tượng có điều kiện (hữu vi). Tính chất thay đổi của cảm thọ, tuy nhiên, không cần thiết phải được xem như "đau khổ", vì ví dụ như trong trường hợp của một kinh nghiệm đau đớn, do sự thay đổi có thể trở thành dễ chịu. Như vậy tất cả cảm thọ không hẵn là "khổ", mà sự vô thường cũng không hẵn là "khổ", nhưng tất cả các cảm thọ là "không toại ý", vì không một cảm thọ nào có thể tạo ra sự hài lòng lâu dài. Điều này có nghĩa là DUKKHA như một phẩm chất của tất cả mọi hiện tượng hữu vi (có điều kiên) không nhất thiết được trải nghiệm như là "đau khổ", vì đau khổ đòi hỏi có một người nào đó chấp thủ vào đó để chịu đau khổ.

– Bình Anson lược dịch

-------------------------------

DUKKHA is often translated as “suffering”. Suffering, however, represents only one aspect of DUKKHA, a term whose range of implications is difficult to capture with a single English word. DUKKHA can be derived from the Sanskrit KHA, one meaning of which is “the axle-hole of a wheel”, and the antithetic prefix DUḤ ( = dus), which stands for “difficulty” or “badness”. The complete term then evokes the image of an axle not fitting properly into its hole. According to this image, DUKKHA suggests “disharmony” or “friction”. Alternatively DUKKHA can be related to the Sanskrit STHA, “standing” or “abiding”, combined with the same antithetic prefix DUḤ. DUKKHA in the sense of “standing badly” then conveys nuances of “uneasiness” or of being “uncomfortable”. In order to catch the various nuances of “DUKKHA”, the most convenient translation is “unsatisfactoriness”, though it might be best to leave the term untranslated.

The need for careful translation of the term can be demonstrated with the help of a passage from the Nidāna Saṃyutta, where the Buddha stated that whatever is felt is included within DUKKHA. To understand DUKKHA here as an affective quality and to take it as implying that all feelings are “suffering” conflicts with the Buddha’s analysis of feelings into three mutually exclusive types, which are, in addition to unpleasant feeling, pleasant and neutral feelings. On another occasion the Buddha explained his earlier statement that “whatever is felt is included within DUKKHA” to refer to the impermanent nature of all conditioned phenomena. The changing nature of feelings, however, need not necessarily be experienced as “suffering”, since in the case of a painful experience, for example, change may be experienced as pleasant. Thus all feelings are not “suffering”, nor is their impermanence “suffering”, but all feelings are “unsatisfactory”, since none of them can provide lasting satisfaction. That is, DUKKHA as a qualification of all conditioned phenomena is not necessarily experienced as “suffering”, since suffering requires someone sufficiently attached in order to suffer.

– Bhikkhu Analayo

*

Khổ (Dukkha, 苦) - khổ qua, mướp đắng

Đang tìm ý nghĩa và nguồn gốc của chữ DUKKHA trong đạo Phật. Tiếng Hán Việt là KHỔ 苦 , một từ rất quen thuộc với chúng ta, không những trong giáo lý nhà Phật mà còn được dùng trong mọi sinh hoạt hằng ngày.

Nhờ bác Gờ tra thử, mới biết chữ nầy còn dùng trong từ “trái KHỔ QUA”, người Bắc gọi là mướp đắng. Canh khổ qua nhồi thịt bầm và khổ qua xào với trứng là hai món ăn quen thuộc mà tôi rất thích. Ngày xưa, một người bạn Ấn Độ còn lấy khổ qua cắt lát, chiên giòn trong dầu nóng. Để nguội rồi nhâm nhi với nước trà nóng, rất ngon.

Bấy lâu nay, tôi vẫn tưởng “khổ qua” là tiếng thuần Việt, có khi đọc trại ra là "ổ qua, hủ qua". Bây giờ mới biết đó là tiếng Hán Việt, 苦瓜 (苦 khổ: vị đắng; 瓜 qua: dưa, mướp; khổ qua: mướp đắng). Mỗi ngày học được thêm một điều thú vị, học mãi học hoài, không bao giờ biết chán.

*


Sunday, 27 November 2016

Kinh Một Trăm Lẻ Tám (Atthasata Sutta, SN 36:22)

– Này các Tỳ-khưu, Ta sẽ giảng cho các Ông pháp môn về pháp theo 108 pháp môn. Hãy lắng nghe.

Và này các Tỳ-khưu, thế nào là pháp môn về pháp theo 108 pháp môn? Có hai thọ, theo pháp môn thuyết giảng của Ta. Có ba thọ, theo pháp môn thuyết giảng của Ta. Có năm thọ, theo pháp môn thuyết giảng của Ta. Có sáu thọ, theo pháp môn thuyết giảng của Ta. Có 18 thọ, theo pháp môn thuyết giảng của Ta. Có 36 thọ, theo pháp môn thuyết giảng của Ta. Có 108 thọ, theo pháp môn thuyết giảng của Ta.

Và này các Tỳ-khưu, thế nào là hai thọ? Thọ về thân và thọ về tâm. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là hai thọ.

Và này các Tỳ-khưu, thế nào là ba thọ? Lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là ba thọ.

Và này các Tỳ-khưu, thế nào là năm thọ? Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là năm thọ.

Và này các Tỳ-khưu, thế nào là sáu thọ? Thọ do nhãn xúc sanh, thọ do nhĩ xúc sanh, thọ do tỷ xúc sanh, thọ do thiệt xúc sanh, thọ do thân xúc sanh, thọ do ý xúc sanh. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là sáu thọ.

Và này các Tỳ-khưu, thế nào là 18 thọ? Có sáu tư duy thân cận (upavicàrà) với hỷ; có sáu tư duy thân cận với ưu; có sáu tư duy thân cận với xả. Này các Tỳ-khưu, đây là 18 thọ.

Và này các Tỳ-khưu, thế nào là 36 thọ? Sáu hỷ liên hệ đến gia đình, sáu hỷ liên hệ đến ly dục; sáu ưu liên hệ đến gia đình, sáu ưu liên hệ đến ly dục; sáu xả liên hệ đến gia đình, sáu xả liên hệ đến ly dục. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là 36 thọ.

Thế nào là 108 thọ? 36 thọ về quá khứ, 36 thọ về tương lai, 36 thọ về hiện tại. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là 108 thọ. Này các Tỳ-khưu, đây gọi là pháp môn về pháp theo 108 pháp môn.

(Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)


*

Sunday, 20 November 2016

Nhạc hòa tấu - Guitar VĨNH TÂM

Nhạc hòa tấu - Guitar Vĩnh Tâm, 5 albums

CD1- Nhớ mưa Sài Gòn (2003)
CD2- Lời buồn thánh, Tk Trịnh Công Sơn (2005)
CD3- Tình khúc Chiều Mưa (2009)
CD4- Giáng ngọc (2009)
CD5- Chuyện tình buồn, Tk Phạm Duy (2011)

Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps:
nht13.zip – Guitar Vĩnh Tâm (5 CDs) – 570 MB
=> https://mega.nz/#!j1JmQAZB!2EH9fJJ1rjKObVF5G18-Wv5tyPp6OSTruXv0vPX6buk

*

Ngắm nhìn bó hoa tươi thắm

Trong bài phỏng vấn Tỳ-khưu Anālayo về pháp quán niệm (mindfulness meditation) qua nhiều truyền thống ngày nay [*] – Theravada, Mahayana, Vajrayana, Zen, … – Sư đưa ra một thí dụ rất hay. Hãy ngắm nhìn một bó hoa tươi thắm, đủ loại hoa, đủ loại mùi hương, màu sắc. Thay vì thưởng thức vẻ đẹp tự nhiên của nó, người ta thường tiếp nhận nó theo một trong hai khuynh hướng cực đoan:

1) Khuynh hướng “ĐEN TRẮNG”: Đem máy chụp bó hoa thành một tấm ảnh 2 chiều (2-D) rồi phát tán khắp nơi mà quên đi bó hoa thật sự là 3 chiều (3-D), có thêm một chiều sâu cần phải quán soi, thẩm thấu. Tệ hơn nữa, người ta lại có khuynh hướng biến tấm ảnh màu thành tấm ảnh trắng đen, rồi ngắm nghía, phán xét phân biệt. Hoa nào có màu trắng là loại tốt, nguyên thủy, chính gốc, còn các loại màu đen hay xám là loại xấu, ngoại đạo, lai căng, phải loại bỏ. Đây là khuynh hướng thường thấy ở một số nhóm thiền sinh bảo thủ, giáo điều.

2) Khuynh hướng “XAY SINH TỐ”: Đem cả bó hoa đa dạng, đa sắc bỏ vào máy xay sinh tố, xay nó ra thành một khối lỏng sền sệt, thuần một màu mới lạ lùng, không còn mùi hương của hoa, không còn gì là hình dạng, màu sắc của hoa nữa. Đây là khuynh hướng hòa đồng tổng hợp thường thấy trong một số nhóm thiền sinh ở phương Tây, càng ngày càng đi xa khỏi giáo lý căn bản của đạo Phật.

Điều quan trọng là chúng ta chấp nhận thực tế về sự hiện hữu của bó hoa đa dạng, đa sắc, đa hương như nó là như thế. Ta có thể chọn một loại hoa thích hợp cho mình nhưng không vì thế mà bác bỏ, khinh chê các loại hoa khác. Mà cũng không nên tham lam ôm đồm, pha trộn chúng một cách máy móc, vô ý thức, để rồi làm mất đi cái tinh túy, căn bản của loài hoa. Nếu có thể, chúng ta nên cố gắng tìm hiểu nguồn gốc, xuất xứ, hoàn cảnh lịch sử phát triển của mỗi loại hoa để có thể nhận ra được giá trị thật sự của nó.

Từ hình ảnh thí dụ đó, tôi liên tưởng đến thái độ, khuynh hướng phán xét của mình, không riêng về lĩnh vực quán niệm mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác trong sinh hoạt, kinh điển, giáo lý Phật giáo của các tông phái khác nhau, trong các quốc độ khác nhau. Đa phần dường như chúng ta không thưởng thức bó hoa thật sự, mà chỉ tiếp nhận nó qua khuynh hướng “Đen trắng” hay qua khuynh hướng “Xay sinh tố”.

[*] YouTube: “Bhikkhu Anālayo on Respecting the Different Buddhist Traditions”, March 2016
https://www.youtube.com/watch?v=-blp_r2rKOk
.
*

Friday, 18 November 2016

Nhạc quốc tế - CREEDENCE CLEARWATER REVIVAL (CCR)

Có lẽ những ai yêu nhạc rock trong thập niên 1960s và 1970s đều biết ban nhạc nầy. Vì có tên quá dài, thường được gọi tắt là CCR hay Creedence. Lần đầu tiên tôi biết đến CCR là nghe các bản nhạc qua đài truyền thanh và truyền hình của quân đội Mỹ khi còn học tại Sài Gòn.

Về sau, khi sang Thái Lan du học, có dịp gần gũi với các bạn sinh viên quốc tế, cùng nghêu ngao hát hò, mới biết tên các thành viên của CCR và hát theo các bài hát của nhóm nầy (Who’ll stop the rain, Have you ever seen the rain, Suzie Q, Travelin’ band, Someday never come, Proud Mary…).

Họ có giọng hát, lối hát, cách hòa âm rất độc đáo mà cho đến bây giờ không ban nhạc nào có thể thay thế. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghe lại, vẫn thấy thích thú. Bạn nào thích nhạc rock thì mời tải về nghe thử cho vui.

Tải về dạng nén ZIP, giải nén sẽ được các files audio, dạng MP3 - 320 kbps.
nqt10 – Creedence Clearwater Revival, Greatest Hits (2 CDs, 2008) – 361 MB


*

Mindfulness in Different Buddhist Traditions - Bhikkhu Anālayo

Mindfulness in Different Buddhist Traditions
Bhikkhu Anālayo

In modern day meditation circles, different understandings of mindfulness frequently exist side by side. Finding a meaningful way of relating one form of mindfulness to another can provide a model for coming to terms with the variety of Buddhist teachings nowadays available in the West.

Different Constructs of Mindfulness

The theoretical construct of mindfulness and the practices informed by this notion have gone through considerable development over two and a half thousand years of Buddhist thought, making it impossible to speak of “Buddhist mindfulness” as if this were a monolithic concept. Instead, we need to distinguish between “early Buddhist mindfulness” and, for example, “vipassanā mindfulness” in the Theravāda tradition, “rdzogs chen mindfulness” in the Tibetan tradition, “Zen mindfulness” in Japanese Buddhism, and “MBSR mindfulness” employed in the modernday clinical setting, just to mention the most salient ones. Each construct of mindfulness has its own intrinsic value, informed by the historical context out of which it arose. From the perspective of most practitioners, however, the different presentations of mindfulness in these traditions can often seem rather perplexing.

The problem faced by many Western practitioners is by no means new in the history of Buddhism. The Chinese also had to grapple with an amazing variety of teachings received piecemeal from India. While claiming to stem from the same teacher, these teachings exhibited considerable variety and at times even contradicted one another. In ancient China this resulted in various taxonomies attempting to accommodate the diversity of the teachings within a coherent system that could be attributed to a single teacher: the Buddha (Mun 2006).

In the contemporary setting, finding a skilful way to handle the teachings of different Buddhist traditions is essential for avoiding a dogmatic holding up of any single tradition as the only correct approach. According respect to all Buddhist traditions and to the uniqueness and value of their respective teachings provides an indispensable foundation for the flowering of precisely the mental balance and detachment that should result from practicing in any of these traditions.

Compared to the situation in ancient China, in the modern West there is an additional advantage when grappling with the same basic problem. Our knowledge of Buddhist history and the development of Buddhist philosophy does not depend entirely on the self representations of the various Buddhist traditions. In addition, academic research from the field of Buddhist Studies can inform us about the historical background of central Buddhist ideas like mindfulness.

Consciousness and Awareness 

Besides the six types of consciousness related to the six senses recognized in all Buddhist traditions, Yogācāra thought identified another type of consciousness, the “storehouse consciousness” (ālayavijñāna). This storehouse consciousness functions as a repository for the seeds of former deeds through the process of rebirth in saṃsāra. Another notion relevant to the present context is the arising of the idea of the womb of the Tathāgata, tathāgatagarbha, and its relation to the notion of an original pure mind.
 Leaving aside other aspects of the complex constructs of the storehouse consciousness and the womb of the Tathāgata, what matters in particular for the present context is the positing of a continuity that serves to fill a gap created by the doctrine of the momentary nature of all phenomena. According to this theory of momentariness, a theory held in common by different Buddhist traditions, phenomena disappear right away, as soon as they have appeared. The positing of such momentariness involves a radicalization of the doctrine of impermanence that makes it difficult to explain the empirically selfevident fact of continuity. Faced with the same problem, the Theravāda tradition found a comparable solution in the notion of a subliminal mind, referred to as the bhavaṅga citta, which serves to provide the basis for mental continuity and the fruition of karma.

The doctrine of momentariness fully manifests only after the closure of the canonical Abhidharma collections (von Rospatt 1995: 15–28). The main thrust of this doctrine appears to stem from a concern with a single moment of time that is already evident in the canonical Abhidharma traditions themselves. This concern in turn seems to be a byproduct of the Abhidharma attempt to systematize the teachings of the recently deceased Buddha into a coherent whole by providing a complete map of the Dharma. Such an attempt naturally focuses on a single moment of experience, simply because it would be considerably more challenging to try to do so for a changing process over a longer period of time.

For any Buddhist tradition whose approach to meditation practice has its doctrinal foundation in the notions of the storehouse consciousness or the tathāgatagarbha, for example, an understanding of mindfulness aimed at recognizing a continuity that corresponds to these notions is eminently meaningful. In such a context, this is indeed a skilful means.

The same does not hold, however, for Buddhist meditation practices based on different doctrinal foundations. In the case of early Buddhist thought, for example, mindfulness as well as consciousness are seen as conditioned and impermanent. Mindfulness, sati, is not present in every state of mind, but instead needs to be brought into being (Anālayo 2013: 181). From the viewpoint of early Buddhist thought, mindfulness cannot be considered a constantly present property of the mind that just needs to be recognized.

In early Buddhist thought the aggregate of consciousness (viññāṇa) would correspond to a constantly present quality of knowing. Yet, the Greater Discourse on the Destruction of Craving (Mahātaṇhāsaṅkhayasutta) records the Buddha severely rebuking a monk for holding a view that implies a permanent and unchanging form of consciousness (Ñāṇamoli 1995: 350). The Chinese Āgama parallel reports the same. Early Buddhist thought considers the inherent drawback (ādīnava) of consciousness to be precisely its impermanent nature. Recognizing this impermanence was part of the insight that reportedly led the Buddha to awakening (Bodhi 2000: 874). Once awakened, the Buddha is on record for explicitly clarifying that the six senses and their objects constitute a comprehensive “all”, and that there is no way of positing something in addition to this “all” (Bodhi 2000: 1140). Both of these statements are also found in the Chinese Āgama parallels. Taken together, they would not leave room for positing a seventh or eighth consciousness in addition to the six types of consciousness related to the senses, all of which are of a changing nature.

For a practitioner operating within an early Buddhist doctrinal framework, the notion that there is a constantly present form of awareness that needs to be recognized and which equals the liberated mind would therefore not be a skilful means. Such a notion runs contrary to the thrust of early Buddhist insight practice, which is to see that all aspects of personal experience are subject to the law of impermanence.

Conversely, mindfulness meditation in early Buddhist thought clearly involves the use of labels and concepts for the sake of clarity of recognition (Anālayo 2003: 113). Such a construct of mindfulness would not be a skilful means for a practitioner of the “Great Perfection” (rdzogs chen), where mindfulness should leave concepts behind and evolve into a nondual form of awareness. Neither of the two practice traditions, therefore, would benefit from simply taking over a construct of mindfulness wholesale from the other.

Nevertheless, this does not mean that practitioners of early Buddhist meditation cannot benefit from an exposure to aspects of the Great Perfection. This holds in particular for the practice of “cutting through” (khregs chod), whereas the “crossing over” (thod rgal) would probably not be of relevance for someone who does not aim at attaining a rainbow body. Even for an exposure to the practice of “cutting through” to have beneficial effects, however, the meditative experience would need to be divested from some of its underlying metaphysical assumptions. In particular, it would need to be accompanied by an understanding that the form of awareness experienced is itself impermanent.

For practitioners of the Great Perfection, it could similarly be beneficial to engage in certain aspects of a mindfulness practice that involves the use of concepts and labels. Such labeling can come in handy during preliminary stages of meditation before one becomes proficient in just resting in natural awareness. Nevertheless, such use of labels needs to be left behind as soon as it has fulfilled its preparatory purpose in order to be able to rest in a nondual form of awareness that is completely free from any concepts.

Western Buddhism

What all this boils down to, then, is the need to contextualize skilful means. The basic recognition that the variety of Buddhist teachings on mindfulness and on other aspects of the Dharma are different forms of skilful means can lay a solid foundation for mutual respect among Buddhist practitioners and help to avoid any tendency toward dogmatic factionalism. Once this foundation is securely in place, in the present setting in the West a further step can be taken. This step, informed by academic research into the history of Buddhist philosophy and practice, sees all of these skilful means as products of a particular historical and cultural setting. For those who choose to practice within the framework of the particular tradition out of whose historical and cultural setting they originally arose, these practices are skilful means. These practices and concepts, however, do not automatically assume the same function when transposed into a different setting. Whereas their basic status as skilful means should never be denied, for them to perform this function requires clear recognition of the setting within which each practice can fulfill its full potential.

The vision that emerges from this brief excursion into various understandings of mindfulness can fruitfully be applied to other aspects of the Dharma, nowadays available in such a broad variety of manifestations in the West. None of these manifestations can lay claim to being the only right and correct interpretation. At the same time, it is also not possible to pretend that all manifestations offer equally right and correct interpretations in any situation or context. Instead, these often divergent, and at times even contradictory, interpretations are correct within a specific context only.

For the evolving Dharma in the West, the knowledge available from academic research into the history of Buddhism could become the basis for constructing a comprehensive vision capable of holding the different Buddhist traditions. Acquaintance with a basic outline of the history of Buddhist philosophy as reconstructed by academics in the field of Buddhist studies can provide a helpful framework for Dharma teachers and practitioners. Such a historical outline can make it possible for practitioners to locate their personal practices within a meaningful overarching framework that, in line with a central Buddhist dictum, is as much as possible in accordance with reality.

Unlike ancient China, which received Buddhism mainly from India, the Dharma has come to the West from a wide range of different countries and traditions. In this situation, we better avoid the presumption that the purely accidental condition of how the Dharma reached the West should somehow result in a superior synthesis of all Buddhist teachings that surmounts the narrow confines of traditional Buddhist cultures. Such a presumption would all too easily fall in line with centuries of Western colonial arrogance vis-à-vis Asian Buddhist countries. Instead, all forms of Asian Buddhism, however outdated some of their rituals and observances might seem to the Western eye, need to be accorded respect as manifestations of the teachings of the Buddha. The Dharma in the West is just another such tradition, inevitably influenced by local cultural forces and beliefs ― in the present case, in particular, secular values ― as is the case for all other Buddhist traditions. As a result of such influences, some aspects of Buddhism in the West can appear as outlandish to Asian Buddhists as traditional forms of Asian Buddhism may seem to the average Western practitioner.

The middle way approach that emerges from all this is one that does not dogmatically assert the correctness of one tradition over another, be this a form of Western Buddhism or any particular Asian tradition. Such an assertion would be one extreme. Nor does such a middle way approach try to amalgamate all traditions indiscriminately into a single form of practice without sufficient sensitivity to their historical origins. This would be the other extreme. Instead, various practices can, if employed with sensitivity to their original historical contexts and purposes, inform the evolving Western Buddhisms (plural). This can have its basis in the understanding that each tradition has its own rightness and correctness when and as long as it is employed within the philosophical and practical context out of which it arose. In relation to the various constructs of mindfulness the question to be asked would then not be “Who is right?” but rather “What is right for me?”

References

Anālayo 2003: Satipaṭṭhāna, the Direct Path to Realization, Birmingham: Windhorse.
Anālayo 2013: Perspectives on Satipaṭṭhāna, Cambridge: Windhorse.
Bodhi, Bhikkhu 2000: The Connected Discourses of the Buddha, A New Translation of the Saṃyutta Nikāya, Boston: Wisdom Publication.
Mun, Chanju 2006: The History of Doctrinal Classification in Chinese Buddhism, A Study of the Panjiao Systems, Lanham: University Press of America.
Ñāṇamoli, Bhikkhu 1995: The Middle Length Discourses of the Buddha, A Translation of the Majjhima Nikāya, Bhikku Bodhi (ed.), Boston: Wisdom.
von Rospatt, Alexander 1995: The Buddhist Doctrine of Momentariness: A Survey of the Origins and Early Phase of this Doctrine up to Vasubandhu, Stuttgart: Franz Steiner Verlag